Tuesday, November 13, 2012

Một giả định thực tế:NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐANG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?



Một giả định thực tế:
NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐANG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?

Thiện Ý.

         Như mọi người đều biết, nỗ lực đấu tranh bao lâu nay của các lực lượng quốc gia dân chủ đóng vai trò lãnh đạo chống cộng (Các chính đảng, các lực lượng và tổ chức đấu tranh…) và quần chúng tham gia chống cộng trong cũng như ngoài nước, đều nhằm đòi buộc đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đương thời phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”, để thiết lập một chế độ tư do dân chủ,đa nguyên, đa đảng.
       Lý do mà các lực lượng  quốc gia dân tộc dân chủ và quần chúng chống cộng đưa ra là vì trên bình diện lý luận chế độ xã hội chủ nghĩa là không tưởng (một xã hôi lý tưởng những không thể thực hiện được). Trên bình diện thực tế không những đã không thực hiện được mà còn gây ra hậu quả nghiệm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhiều dân tộc, nhiều đất nước. Thực tế là Liên Xô, nước khởi xướng thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa, sau 74 năm (1917-1991) nay đã phải từ bỏ con đường “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa” để đi theo con đường “Tư do dân chủ đa nguyên”. Đồng thời, các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu cũng đã theo gương Liên Xô tự hủy để đưa đất nước tiến lên theo chiều hướng mới.
       Riêng tại Việt Nam, chế độ Xã hội Chủ Nghĩa cũng đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam thử nghiệm triệt để sau 42 năm (1954-1995) bị thất bại, dù đã cố gắng đổi mới (1986) vẫn không thành công.Với thời gian và thực tế ấy cũng đã đủ  cho thấy con đường “Xã hội chủ nghĩa”(XHCN) là con đường trái chiều với lợi ích dân tộc, nguyện vọng của nhân dân.Chế độ XHCN là không phù hợp với thực tại đất nước, không đem lại “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc” cho toàn dân.Hậu quả thực tế là:Nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh quá nhiều, mọi mặt, để ngày nay phải nhận chịu thân phận sống trong một đất nước suy đồi toàn diện, bất công, đói nghèo tự do và cơm áo.
        Thực tế là, năm 1995 Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt cộng thực hiện chính sách “mở cửa” với các nước tư bản, đi vào con đường làm ăn “kinh tế thị trường (là thực) theo định hướng xã hội chủ nghĩa (là giả)”. Thực tế là, sau 16 năm làm ăn theo “Kinh tế thị trường tư do” Việt Nam đã và đang theo “định hướng tư bản chủ nghĩa” và theo đúng quy luật phát triển phù hợp thì nền “Kinh tế thị trường” tất yếu dẫn đến nền “chính trị dân chủ đa nguyên”. Đây là hệ quả ai cũng thấy được, những người cộng sản Việt Nam cũng thấy như thế, song vì sao họ vẫn ngoan cố bám lấy cái vỏ “Xã hội Chủ nghĩa”? (Chúng tôi đã có câu trả lời trong bài viết trước đây nhan đề “ 36 năm Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế: Thành quả và triển vọng” . Xin vào: thieny-lienhuong.blogspot.com để đọc thêm).
        Hiện tại bề ngoài Việt cộng vẫn chống “Dân chủ đa nguyên” quyết liệt và ngoan cố bám lấy cái vỏ “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa”; chống đến bao giờ và bám được bao lâu nữa thì thực tế, với thời gian không bao lâu nữa sẽ có câu trả lời.
         Bây giờ chúng tôi xin đưa ra một giả định thực tế:”Nếu ngay bây giờ, Cộng sản Việt Nam chấp nhận dân chủ đa nguyên, điều gì sẽ xẩy ra?” Chấp nhận đa nguyên là Việt cộng phải chấp nhận tự do, dân chủ, phải từ bỏ độc tài, độc tôn và độc quyền thống trị đất nước.Nghĩa là họ phải tuân thủ các nguyên tắc sinh hoạt dân chủ và phương thức dân chủ để nắm quyền và cai trị đất nước theo một bản Hiến Pháp dân chủ đa nguyên.
Bài viết này lần lượt trình bầy:
-        Giả định thực tế:  Nếu Việt cộng chấp nhận đa nguyên,đa đảng, điều gì sẽ xẩy ra?
-        Những điều kiện cần và đủ để giả định thành hiện thực.
-        Chuyển biến các khuynh hướng chính trị trong đa nguyên đa đảng

I/- GIẢ ĐỊNH THỰC TẾ: NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?   
- Nếu Việt cộng tự nguyện, tự giác, đơn phương, chủ động , hợp tác thực hiện kết thúc tiến trình chuyển thể hòa bình và êm dịu như Liên Xô và các nước  xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện đã đang muốn làm, và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đã có dấu hiệu và hiệu quả thực tiễn bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
         Nếu làm theo cách này, là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước và cho chính Việt cộng. Có lợi cho Việt cộng, vì chế độ độc tài toàn trị dù bị tiêu vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu không đổi tên) vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt bình đẳng, hợp pháp để giành quyền lãnh đạo đất nước trong một chế độ dân chủ đa đảng.Và Cộng đảng Việt Nam vẫn có nhiều thuận lợi hơn các chính đảng khác (nhờ thế lực sẵn có sau nhiều năm nắm quyền độc tôn…) để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa đảng này, nếu được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do. Đồng thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân (đổ máu…), đất nước (tan hoang…) và cho chính Việt cộng như nhân dân, đất nước và các nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu.
         Một giả định, nếu chọn và làm theo cách này, Việt cộng có thể chủ động thực hiện cách thức kết thúc tiến trình chuyển đổi hòa bình êm dịu như sau:
    * Chuyển đổi trên bình diện pháp lý:
      1.- Quốc hội đương nhiệm đang có nghị trình sửa đổi Hiến pháp hiện hành, thay vì sửa chữa theo hướng củng cố chế độ độc tài độc đảng hiện nay, sẽ sửa đổi theo hướng dân chủ đa đảng.
        Theo hướng này, chỉ cần sửa đổi những điều khoản căn bản liên quan đến danh hiệu chế độ chính trị và vai trò các chính đảng trong chế độ chính trị dân chủ, đa đảng.Còn lại các điều khoản khác vẫn duy trì, chỉ sửa đổi hay bãi bỏ các điều khoản không còn phù hợp hay trái với chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Mục đích  duy trì nguyên trạng những qui định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành chính quyền dân sự cũng như quân sự các cấp, các ngành (lập pháp,hành pháp và tư pháp) hiện hành từ trung ương đến địa phương trên cả nước,là để tránh mọi sự xáo trộn bất lợi. Sau đó sẽ sửa đổi, điều chỉnh dần dần những bất hoàn theo thời gian thích hợp để hoàn chỉnh từng bước chế độ chính trị dân chủ, đa đảng trên bình diện pháp lý.
       Tỷ dụ, Hiến pháp hiện hành (1992) qui định nơi:
      CHƯƠNG I: Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
                                                 Chế độ chính tri.
Có thể sửa đổi thành : Nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (1)
                         Hoặc: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa  (2)
                      (Nếu muốn lấy lại danh xưng HP. 1946)
          Hay: Nước Cộng hòa dân bản chủ nghĩa Việt Nam(3)
         ( Nếu muốn nghe cho quen tai và có ý nghĩa lấy dân làm gốc)
                                  Chế độ chính trị     
  Điều 1: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà  nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Sửa đổi thành : Nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam(hoặc chọn 2 hay 3)là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về toàn dân.
        Điều 4: Đảng Cộng dản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
     Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
          Có thể  sửa đổi Điều 4 thành:
Điều 4: Mọi công dân Việt Nam, với tư cách cá nhân hay chính đảng, có quyền tham gia công việc lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội, thông qua các cuộc bầu cử tự do.
        Mọi cá nhân công dân và tổ chức chính đảng phải hoạt động  trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
      2.- Quốc hội cơ quan lập pháp đương nhiệm sau đó cần:
      - Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, đa đảng mới được hình thành từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.(Luật Đất Đai, Nhà đất,Luật Hình, Luật Hộ…)
      - Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng đã được khai sinh từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.
      - Làm“Luật ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ,đa đảng, cho mọi cá nhân công dân và các tổ chức chính đảng có thể tham gia hợp pháp trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do vào các chức vụ dân cử các cấp, các ngành trên cả nước.
      - Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc”(như nước Cộng Hòa Nam Phi đã làm sau khi kết thúc thắng lợi vào đầu thập niên 90, cuộc chiến tranh lâu dài chống chế độ phân biệt chủng tộc giữa thiểu số người da trắng thống trị trên tuyệt đại đa số người da đen bị trị; tương tự như chế độ độc tài đảng trị bao lâu nay tại Việt Nam, thiểu số các đảng viên Cộng đảng Việt Nam đã thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việtt Nam trên nửa thế kỷ qua).
          Luật này sẽ áp dụng nguyên tắc bất hồi tố của luật pháp nhằm miễn tố chung cho những hành động vi phạm luật pháp quốc nội hay quốc tế của cá nhân hay tập thể xẩy ra trước ngày ban hành “Luật Hòa Giải Dân Tộc” ở cả hai phía Việt cộng cũng như Việt quốc.
         Luật này nhằm hóa giải hận thù quá khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên nhân từ quá khứ, dưới bất cứ hình thức nào, tạo sự hòa giải những mâu thuẫn trong lòng dân tộc, duy trì ổn định chính trị, xã hội để có điều kiện thuận lợi kiện toàn chế độ chính trị dân chủ đa đảng mới hình thành; tạo tiền đề đoàn kết thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng, củng cố, phát triển toàn diện Đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại, tạo thế và lực chống ngoại xâm hữu hiệu,bảo vệ Tổ Quốc.
         Công, tội của các cá nhân hay tập thể ở cả hai phía Quốc-Cộng nếu có trong quá khứ, thiết tưởng cần để cho lịch sử mai nầy xét định. Hiện tại chỉ nên coi đó là những bài học kinh nghiệm cần rút ra cho hiện tại và tương lai.
         3.- Chính phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng các văn bản lập qui dưới luật,để điều chỉnh theo các luật lệ  đã được Quốc Hội sửa đổi một cách phù hợp với thời gian, không gian và tiến trình  hoạt động bình thường của guồng máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn, bất ổn chính trị và xã hội, bất lợi cho đại cuộc.
         Tỉ như “luật ứng cử và bầu cử” Quốc hội hay Hội Đồng Nhân Dân các cấp sẽ được áp dụng trong nhiệm kỳ sắp tới (Trừ khi Cộng đảng, Quốc hội và chính quyền đương nhiệm đồng thuận về một quyết định khác hơn, chẳng hạn giải tán các cơ quan dân cử cho ứng cử và bầu cử sớm hơn, do tình hình đòi hỏi mà không gây xáo trộn chính trị và xã hội).Nhưng các luật hủy bỏ hoặc thay thế những luật lệ trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, hay“Luật chính đảng”, “Luật hòa giải dân tộc”  thì cần có hiệu lực tức thời sau khi ban hành tạo tiền đề chứng tỏ thực tâm và thiện chí của Cộng đảng và nhà cầm quyền đương thời muốn thực hiện sự chuyển đổi hòa bình và êm dịu từ “Chế độ độc tài, độc đảng” qua “Chế độ dân chủ, đa đảng”. Đồng thời giúp cho các cá nhân công dân cũng như chính đảng có thời gian củng cố, phát triển tổ chức và sinh hoạt, chuẩn bị kịp thời tham gia ứng cử  với tư cách cá nhân hay  do Chính đảng đưa người ứng cử vào các cơ quan dân cử của cả nước (Quốc Hội, Chủ tịch nước hay Tổng Thống, nếu Hiến pháp tu chính người đứng đầu hành pháp do dân trực tiếp bầu cử trong các cuộc phổ thông bầu phiếu, thay vì do Quốc Hội bầu cử như Hiến pháp hiện hành…) và địa phương (như Hội đồng nhân dân các cấp…).
       *Chuyển đổi trên bình diện thực tế:
          Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả nước vẫn  duy trì nguyên trạng và hoạt động bình thường.Sự sửa đối Hiến pháp, sửa đổi luật lệ do Quốc hội đương nhiệm hay các văn bản lập qui dưới luật do Chính phủ đương nhiệm ban hành để điều chỉnh theo sự sửa đổi Hiến pháp và luật lệ của Quốc hội, cần được các cấp, các ngành thực thi nghiêm túc, đồng bộ trên cả nước.
     Quốc Hội và Chính phủ đương nhiệm cần thống nhất và chủ động chỉ đạo thực hiện những sửa đổi Hiến pháp, luật pháp và lập quy theo hướng chuyển đổi hòa bình, êm dịu từ “chế độ độc tài, độc đảng ” hiện nay qua “Chế độ dân chủ, đa đảng”. Đồng thời, Quốc hội và Chính phủ đương nhiệm cũng cần ấn định rõ lịch trình cải đổi về pháp lý, chính trị cũng như thực tế phải hoàn tất chậm nhất là trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ Quốc hội đương nhiệm (2015) chẳng hạn.
          Bởi vì, nếu giả định Việt cộng chấp nhận chủ động thực hiện cách thức chuyển đổi hòa bình êm dịu trên đây, từ sau năm 2015, Việt Nam sẽ có Quốc hội mới, chính phủ mới hình thành từ và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp hiện hành sau khi được Quốc hội đương nhiệm sửa đổi theo hướng dân chủ đa đảng.

II/-NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ GIẢ ĐỊNH THÀNH HIỆN THỰC.       
         Mặc dầu cách thức chuyển đổi này là cách tốt nhất, có lợi nhất không chỉ cho đảng Cộng sản Việt Nam, mà lợi cho cả nhân dân, dân tộc và đất nước, nhưng đây chỉ là một giả định, muốn trở thành sự thật, cần có những điều kiện cần và đủ sau đây:
      1.- Việt cộng chỉ chủ động làm theo cách chuyển đổi hòa bình và êm dịu này, khi nội bộ Cộng đảng Việt Nam, phe “cấp tiến” (theo chiều hướng mới) phải mạnh hơn phe “bảo thủ”. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước các cá nhân hay tổ chức chính trị có cùng khuynh hướng đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cách nào đó, phải liên kết được với nhau, tập hợp và lãnh đạo được quần chúng, vận dụng được hậu thuẫn quốc tế, tập trung được lực lượng trong, ngoài hổ trợ hiệu quả cho phe cấp tiến trong Cộng đảng Việt Nam (Như ở Liên Xô đã làm được để hậu thuẫn hiệu quả choTổng bí thư Gorbachev và phe cấp tiến trong Cộng đảng Nga 1985-1991).
         Theo nhận định của chúng tôi, căn cứ trên các sự kiện và diễn biến tình hình hiện nay thì dường như so sánh lực lượng giữa khuynh hướng cấp tiến (theo Mỹ)và bảo thủ (theo Tầu) là nghiêng ngửa trong nội bộ Cộng đảng Việt Nam. Các lực lượng quần chúng trong nước qua các cuộc dấu tranh cá nhân cũng như tập thể đòi các quyền dân sinh, dân chủ, thì đã có dấu hiệu phát triển theo chiếu hướng liên kết, tập trung lực lượng, dù còn lỏng lẻo.
       2.- Mặt khác, áp lực quốc tế, nhất là Hoa Kỳ phải làm sao tạo áp lực đủ mạnh buộc được Việt cộng chuyển đổi càng sớm càng tốt qua dân chủ đa nguyên đa đảng theo cách hòa bình và êm dịu này.Trên nguyên tắc cũng như thực tế Hoa Kỳ và các nước dân chủ trên thế giới từ lâu đã có chủ trương này, và đã có nhiều việc làm có tính tạo áp lực, thúc đẩy Việt cộng đi về hướng dân chủ.
         Tuy nhiên, cường độ còn yếu nên tốc độ chuyển đổi theo chiều hướng này còn chậm, dù có đạt được một số thành quả nhất định sau mỗi áp lực. Có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ nói riêng và các nước dân chủ khác nói chung còn tùy thuộc vào sự tính toán lợi ích song phương hay đa phương với Việt cộng. Nhất nữa là dường như Hoa Kỳ cũng chỉ muốn “cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược mới trong vùng” theo một tiến trình thời gian với tốc độ vừa phải. Phải chăng  vì thế mà Hoa Kỳ thực hiện “chính sách cầm chừng”,thả nổi cho một tiến trình chuyển đổi từ từ, để chế độ độc tài toàn trị Việt cộng tồn tại thêm thời gian,  để thuận lợi và dễ xử dụng công cụ cho mục tiêu chiến lược hơn là trong khung cảnh một chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, nếu hình thành sớm còn phôi thai, bất ổn và nhiều bất trắc ? Có lẽ biết vậy, nên Việt cộng (phe bảo thủ theo Tầu) đã tiếp tục ngoan cố cho đến lúc này vẫn không chịu chuyển đổi, tiếp tục thực hiện chiến thuật “Mềm nắn, rắn buông”, tìm cách diên trì tiến trình dân chủ hóa để kéo dài thêm thời gian độc quyền chính trị, ngụy biện bằng lý do cần sự ổn định chính trị để phát triển đất nước, để chỉ “Đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị” là vậy.
    (Đến đây xin mở dấu ngoặc nói thêm về hệ quả chính sách can thiệp nửa vời của các cường quốc tư bản chủ nghĩa vào tiến trình dân chủ hóa các chế độ độc tài tại các nước Trung cận đông và Bắc phi .Hệ quả trực tiếp đối với các nhà độc tài đang còn nắm quyền thống trị từ nhiều thập niên tại vùng này, là sự ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền thống trị, chống lại cao trào đòi dân chủ hóa đất nước của nhân dân. Một điển hình là tập đoàn độc tài của Tổng Thống Al- Bassad ở Syria đã ngoan cố không chịu từ bỏ quyền hành, đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của nhân dân với cường độ mức độ tàn bạo gia tăng theo thời gian hơn một năm qua. Tổng thống chế độ độc tài Al- Bassad sở dĩ ngoan cố dám chống lại nhân dân, là vì biết rằng vẫn chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng với phe quần chúng nổi dậy, lại được sự hổ trợ của hai cựu cường quốc cộng sản hàng đầu là Nga và Tầu cộng. Trong khi Al- Bassad cũng biết rằng sẽ không có sự can thiệp trực tiếp bằng quân sự từ bên ngoài theo kiểu  Hoa Kỳ và khối NATO dưới ngọn cơ Liên Hiệp Quốc đã làm tại Lybia khoảng nửa năm trước, nên lực lượng quần chúng nổi dậy ở Syria khó thành công đượcbằng sức mạnh quân sự như lực lượng quần chúng nổi dậy ở Lybia là đã lật đổ được chế độ của nhà độc tài Mumamar Ghaddafi. Sự thể này cũng đã có ảnh hưởng gián tiếp ít nhiều đến sự toán tính của Việt cộng  trong việc đối phó với các lực lượng chính trị cũng như quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh và nhân quyền trong nước. Việt cộng toan tình rằng, cũng như tại các nước độc tài Trung cân đông và Bắc Phi, nếu không có sự hổ trợ bằng sự can thiệp trực tiếp, triệt để của bên ngoài, Cộng đảng Việt Nam vẫn dựa vào ưu thế nắm vững được nền “Độc tài chuyên chính tư sản Đỏ” (Đỏ vỏ xanh lòng)”, nên chưa vội gì mà chấp nhận nền “Dân chủ,đa nguyên  đa đảng” (tư bản chủ nghĩa).
         Tuy nhiên, Việt cộng cũng có ít nhiều nao núng và dường như trên nguyên tắc đã có sự thống nhất về “chiều hướng mới không thể đảo ngược” (theo chiến lược toàn cầu mới:chế độ độc tài các kiểu sớm muộn cũng phải tiêu vong, để hình thành các chế độ dân chủ,đa nguyên  đa đảng tại các nước toàn cầu). Thực tại chỉ còn sự bất đồng giữa phe “bảo thủ” (theo Tầu cộng) và   phe “Cấp tiến” (Theo Mỹ quốc) về thời điểm nào được coi là thích hợp để kết thúc quá trình chuyển đổi đã tịnh tiến tự nhiều năm qua.
         Vì vậy ngoài yếu tố kết hợp trong và ngoài nước, áp lực Hoa Kỳ và quốc tế cũng là nhân  tố quan trọng có tính quyết định, hậu thuẫn phe cấp tiến, đẩy chế độ độc tài độc đảng Việt cộng phải kết thúc tiến trình chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng nhanh chóng hơn.
       3.-  Một yếu tố có tính quyết định khác cho sự kết thúc tiến trình chuyển đổi của chế độ Việt cộng qua dân chủ đa đảng, là tốc độ chuyển biến của Tầu cộng theo hướng dân chủ đa nguyên đa đảng trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”.
        Nếu Tầu cộng tăng tốc, thì phe bảo thủ Việt cộng cũng tăng tốc. Tầu cộng kết thúc quả trình chuyển đổi sớm thì Việt cộng cũng sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sớm. Vì ai cũng thấy Việt cộng đã học và làm theo sách “chuyển đổi câu giờ” của Tầu cộng, cố bám giữ quyền lực độc quyền, độc tôn để kéo dài thêm thời gian thụ hưởng các ưu quyền đặc lợi có được và chỉ có được cho tập đoàn thống trị độc quyền (Cộng đảng VN) trong khung cảnh một chế độ độc tài đảng trị hay độc tài toàn trị  kiểu cộng sản mà thôi.
        Chính vì vậy đã có nhiều người khi thấy gần đây có một vài dấu hiệu Tầu cộng tăng tốc  về phía dân chủ, thì vội lạc quan  Việt cộng cũng sẽ tăng tốc theo và sớm đi đến kết thúc quá trình chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa đảng tại Việt Nam một cách hòa bình, êm dịu.Chúng tôi cũng cảm thấy lạc quan một cách dè dặt. Chúng ta tiếp tục chờ xem diễn biến tiếp theo tình hình thực tế, với ước mong niềm lạc quan của chúng ta sớm biến thành sự thật trên đất nước chúng ta. Vì đó là ước vọng chung của trên 90 triệu nhân dân trong nước và khoảng 4 triệu con dân Nước Việt ở hải ngoại luôn hướng lòng về Tổ Quốc. Vì đó là mục tiêu tối hậu mà nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại đã kiên trì hy sinh đấu tranh trong nhiều thập niên qua.
      4.-Nếu Việt cộng chủ động làm thì phải có những dấu hiệu chứng tỏ thực tâm bằng các hành động cụ thể thực tế tương tự như chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện đã và đang làm.
         Tỷ như Việt cộng song song với việc sửa đổi Hiến pháp, luật pháp theo hướng dân chủ, đa đảng, Việt cộng sẽ phải có hành động cụ thể thực tế như: Thả hết các thù nhân chính trị đang bị cầm tù, chấm dứt mọi hành động theo dõi, trấn áp các nhà bất đồng chính kiến, tìm cách đối thoại với họ và để cho mọi cá nhân công dân cũng như các chính đảng bao lâu nay bị coi là hoạt động bất hợp pháp, thì cần tiến tới hợp pháp hóa tạo điều kiện cho các cá nhân và chính đảng này hoạt động công khai, hợp pháp, có thời gian chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào các cơ quan dân cử các cấp trong tương lai…
         Chúng ta cần chờ thêm thời gian để hội đủ các điều kiện cần và đủ, về chủ quan (Việt cộng) và khách quan (Các lực lượng và quần chúng chống cộng trong nước cũng như hải ngoại  và quốc tế) để cách chuyển đổi giả định “chế độ độc tài,độc đảng” Việt cộng qua “Dân chủ đa đảng” sớm trở thành sự thật tại Việt Nam.

III/-CHUYỂN BIẾN CÁC KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ TRONG ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG.
     Trong giả định chế độ dân chủ đa nguyên hình thành, các khuynh hướng chính trị sẽ tìm cách nắm quyền thông qua các cuộc bầu cử tự do. Khuynh hương chính trị nào được đa số cử tri tín nhiệm sẽ chiếm đa số trong các cơ quan dân cử. Nghĩa là chính lá phiếu của cử tri sẽ quyết định vị trí, vai trò của các khuynh hướng chính trị trong guồng máy công quyền quốc gia. Để thích dụng, hai khuynh hướng chính trị quốc gia và cộng sản sẽ chuyển biến ra sao?
     Như chúng tôi đã trình bầy trong cuốn tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” (ấn hành lần đầu năm 1995 và tái bản năm 2005) thì nội bộ Việt cộng cũng như Việt quốc sẽ biến chuyển như sau:
1.- Về phía Việt cộng.
      Theo nhận định của chúng tôi thì sau khi Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu sụp đổ, nội bộ Cộng đảng Việt Nam tồn tại 3 khuynh hướng:
- Bảo thủ: bảo vệ chế độ nhất nguyên Xã Hội Chủ Nghĩa đến cùng, cũng có nghĩa là bảo vệ quyền thống trị độc tôn, độc tài cho đảng Cộng sản Việt Nam để tiếp tực duy trì các ưu quyền đặc lợi cho giai cấp thồng trị là các cán bộ đảng viên cộng sản.
- Cấp tiến trung dung: chấp nhận chuyển đổi qua dân chủ đa nguyên một cách chủ động theo nhịp độ  và tốc độ phù hợp với diễn biến tình hình quốc nội và quốc tế (mềm nắn, rằn buông) để kéo dài tuổi thọ thêm ngày nào tôt ngày ấy, bảo đảm được quyền lợi và an toàn pháp lý, chính trị và thực tiễn cho Đảng cầm quyền và cho các đảng viên cộng sản.Nói đơn giản bình dân là “chuyển đổi câu giờ” và tìm cách “hạ cánh an toàn” vào thời điểm thích hợp chẳng đặng đừng không còn níu kéo được nữa. Khuynh hướng cấp tiến trung dung này luôn biểu tỏ cho người ta ngầm hiểu rằng họ cũng biết “chiều hướng mới không thể đảo ngược”(thị trường tự do và dân chủ hóa toàn cầu), phải chuyển đổi, nhưng cần có thời gian đễ sự chuyển đổi diễn ra một cách hòa bình, tránh xáo trộn, xung đột gây bất ổn chính trị, xã hội có hại cho Đất nước (thực ra là có hại cho tập đoàn thống trị Cộng đảng Việt Nam…)
- Cấp tiến triệt để: Cần hủy bỏ ngay chế độ nhất nguyên xã hội chủ nghĩa chuyển đổi ngay qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng theo gương Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
        Trong  ba khuynh hướng chính trị trên đây, vào thời điểm này, khuynh hướng bảo thủ đã tiêu vong, vì biết rằng nhất nguyên XHCN không thể và không bao giờ còn thực hiện được; và chiều hướng mới không thể đảo ngược nên đành chấp nhận sát nhập vào khynh hướng cấp tiến trung dung, mặc dầu bề ngoài vẫn “nhất trí” treo bảng hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (theo kiểu gian thương treo đầu dê bán thịt chó),vẫn thể hiện quyết tâm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa bằng con đường làm ăn “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa(dù biết rằng con đường này thực tế tất yếu dẫn đến tư bản chủ nghĩa với chê độ dân chủ đa nguyên là tất nhiên). Còn khuynh hướng  “Cấp tiến triệt để” thì đã bị hai khuynh hướng kia loại ra khỏi quyền lực từ lâu, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, với một Trần Xuân Bách, Ủy Viên Bộ Chính Trị, dự bị Tổng Bí Thư  Cộng Đảng Việt Nam thay Nguyễn Văn Linh, song đã bị triệt hạ vì đã muốn trở thành một Mikhail Gorbachev của Việt Nam, khi đưa ra quá sớm chủ trương “Đổi mới kinh tế song song với đổi mới chính trị” trái ngược với chủ trương Chỉ đổi mới kinh tế không đổi mới chính trị của hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung trong Cộng Đảng Việt Nam. Tuy không nắm được quyền lực, là thiểu số nhưng khuynh hướng cấp tiến triệt để hiện nay vẫn còn tồn tại dấu mặt trong Cộng Đảng Việt Nam để chờ thời cơ đến.
     Nêu trong giả định ngay bây giờ Việt cộng chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng cấp tiến trung dung sẽ đóng vai trò trung tâm có thể thu hút trở lại khuynh hướng cấp tiến triệt để, tạo thành một khuynh hướng mạnh. Để phù hớp với khung cảnh chính trị đa nguyên, đa đảng, khuynh hướng này bề ngoài có thể vẫn giữ nguyên tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay đổi thành Tân Đảng Cộng Sản Việt Nam hay phù hợp thực tế (khung cảnh chế độ dân chủ đa nguyên) và thực chất một đảng nặng tính xã hội, song biết tôn trọng dân chủ (không còn độc tài, độc tôn như trong chế độ nhất nguyên XHCN trước đây) thì có thể đổi tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” thành “Đảng Xã Hội Dân Chủ Việt Nam” hay một tên nào khác thích hợp hơn, để  đưa người ra tranh cử vào các chức vụ dân cử các cấp từ trung ương đến địa phương.
2.- Về phía Việt Quốc.
      Bây giờ nhận định về các khuynh hướng chính trị của các lực lượng Việt quốc trong cũng như ngoài nước bao lâu nay chống chế độ độc tài dộc đảng “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”, để xem trong giả định cộng sản chấp nhận đa nguyên, đa đảng, các khuynh hướng này sẽ chuyển biến ra sao?
      Nếu so sánh với các khuynh hướng trong đảng Cộng Sản Việt Nam đương quyền, người ta cũng thấy dường như cũng có sự tương đồng tính chất với ba khuynh hướng: Bảo thủ, cấp tiến trung dung và cấp tiến triệt để.
-        Bảo thủ: Bảo vệ chính nghĩa quốc gia đến cùng, không nhân nhượng, không hòa giải hòa hợp hay liên hiệp với Việt cộng, đấu tranh một mất, một còn cho đến ngày toàn thắng.
-        Cấp tiến trung dung: Vừa đấu tranh vừa kêu gọi Việt cộng phản tỉnh quay về với cội nguồn dân tộc để cùng nhau thiết lập một chế độ tự do dân chủ, một đất nước phát triển toàn diện đến giầu mạnh. Do đó, chỉ cần người cộng sản Việt Nam “phản tỉnh”, có hành động thiện chí, khả tín, thì sẵn sàng, đối thoại để hóa giải mọi mâu thuẫn về lãnh đạo dân tộc từ qua khứ đến hiện tại, tiến tới hòa giải dân tộc thực sự.
              Đây là nỗ lực chung từ hai phía để thực hiện “Hòa giải và hòa hợp dân tộc chủ động hai chiếu”; Nó hoàn toàn khác với chủ trương “Hòa giải và hòa hợp dân tộc” bao lâu nay của Việt cộng “Hòa giải và hòa hợp dân tộc một chiều”. Nghĩa là “Không có sự hòa giải” (là giải quyết những mâu thuẫn một cách hòa bình) mà chỉ có hòa hợp với Việt cộng ( hợp tác với Việt cộng vô điều kiện) để cùng thực hiện mục tiêu riêng của Việt cộng là xây dựng, củng cố chế độ độc tài đảng trị “Nhất nguyên Xã Hội Chủ Nghĩa” tại Việt Nam mà thôi.
   3.- Cấp tiến triệt để: Vì nóng lòng muốn có một chế độ dân chủ đa nguyên cho đất nước, lại mặc cảm trước ưu thế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đương quyền, nên đã, đang và lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng chủ trương “Hòa giải và Hòa hợp dân tộc một chiều” của Việt cộng. Trên thực tế, khuynh hướng cấp tiến triệt để này đôi khi đã có những hành động nóng vội đáp ứng những lời kêu gọi mơ hồ của Việt cộng, rằng “hãy xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, hòa giải và hòa hợp dân tộc, cùng nhau hướng về tương lai xây dựng  và phát triển đất nước” dù vẫn trong khung cảnh chế độc độc tài, độc đảng tại Việt Nam.
        Trong ba khuynh hướng trên,từ lâu hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung tuy bất đồng nhưng vẫn ở thế liên kết đấu tranh. Trong khi khuynh hướng cấp tiến triệt để thì bị cô lập, thúc thủ chờ cơ hội Việt cộng đưa ra những lời mời chào mới để đáp ứng vô điều kiện, có tính chụp giật thời cơ cầu may. Tuy nhiên, khách quan mà nói, cả ba khuynh hướng trên đếu có chung lập trường quốc gia, dân tộc, dân chủ và mục tiêu đấu tranh chung: dân chủ hóa và phát triển toàn diện đất nước, có khác chăng là phương cách thành đạt mục tiêu chung này. Nhưng cũng chính sự khác biệt phương cách, đã dẫn đến sự phân hóa nội bộ các lực lược quốc gia, dân tộc dân chủ, dẫn đến với những xung đột triền miên, làm suy yếu nội lực Việt quốc.
      Bây giờ trong giả định nếu Cộng sản Việt Nam chấp nhận đa nguyên đa đảng, các khuynh hướng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ chuyển biến ra sao?
      Vẫn theo nhận định của chúng tôi, khuynh hướng quốc gia dân tộc dân chủ cấp tiên trung dung sẽ là khuynh hướng trung tâm, có sức thu hút không những hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến triệt để, mà trong chừng mực nào đó còn lôi kéo được những người cộng sản “phản tỉnh” quay về với khuynh hướng dân tộc. Vì thành phần này sau khi “phản tỉnh” đều có chung lợi ích dân tộc với Việt quốc và đều có động lực chung là lòng ái quốc. Nếu các khuynh hướng này kết hợp chặt chẽ được với nhau thì sẽ trở thành một trung tâm quyền lực thứ hai (quốc gia, dân tộc, dân chủ, xã hội) trên chính trường dân chủ đa nguyên Việt Nam, không mạnh hơn thì ít ra cũng nghiêng ngửa với trung tâm quyền lực chính trị thứ nất (Việt cộng biến chất thành xã hội dân chủ). Với thế lực này , trung tâm quyền lực “quốc gia, dân tộc, dân chủ, xã hội” sẽ có cơ hội đánh bại trung tâm quyền lực “Việt cộng xã hội dân chủ. Hay ít ra cũng tạo được thế đối lập mạnh, có thể quân bình được cán cân quyền lực trong nền chính trị dân chủ đa nguyên hậu cộng sản.
     Tuy nhiên, thế liên kết trên đây, trên thực tế vẫn chỉ là một ước muốn của các  lực lượng quốc gia, dân tộc dân chủ.
     Vì thực tế trước 30-4-1975, mặc dầu các khuynh hướng chính trị trong chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, đều đứng chung trên lập trường quốc gia, dân tốc, dân chủ, cùng có mục tiêu chung là chống cộng vì lý tưởng tự do dân chủ, cùng chiến đấu bào vệ chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng,song thực sự đã không liên kết được với nhau để cuối cùng mất Miền Nam vào tay Cộng sản Bắc Việt. Sau đó, cuộc đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Đất nước kéo dài 37 năm qua, liên kết các lực lược Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một tổ chức thống nhất từ trong nước ra hải ngoại để cùng đấu tranh theo một sách lược chung hữu hiệu vẫn còn là một ước muốn của các chính đảng, các tổ chức đấu tranh và quần chúng chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam.
         Vậy thì, nếu ngay lúc này, Việt cộng chấp nhận dân chủ đa nguyên đa đảng, thực tế chắc chắn vẫn còn khác với ý muốn chung.Các khuynh hướng chính trị quốc gia dân tộc dân chủ sẽ không liên kết kịp hay  nếu liên kết được vẫn còn còn lỏng lẻo, chưa đủ thực lực để chiếm được đa số áp đảo trong các cơ quan dân cử từ đia phương đến trung ương, so với đối thủ Việt cộng (Đảng Cộng sản Việt Nam biến chất).
        Bởi vì, mặc dầu có chung lập trường, mục tiêu và lý tưởng đấu tranh, song  vì những khác biệt, bất đồng về quan điểm và phương thức đấu tranh; nhất là vì lợi ích cá nhân, cục bộ, bè phái, các chính đảng, doàn thể quần chúng đấu tranh có thể sẽ giữ thế độc lập và biệt lập khi đưa người ra tranh cử. Hệ quả ai cũng thấy được là phía các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ sẽ rơi vào tình trạng “lạm phát ứng cử viên”, phiếu cử tri ủng hộ bị phân tán mỏng. Trong khi phía lực lượng xã hội dân chủ (Đảng Cộng sản biến chất hay đảng xã hội dân chủ) vốn có ưu thế đã cầm quyền trong một thời gian lâu dài, lại là một đảng có tính kỷ luật cao, có kinh nghiệm đấu tranh, tuyên truyền lôi kéo quần chúng, nhất là vị lợi ích sống còn của một tập thể đảng viên đông đảo, họ sẽ có chiến lược và chiến thuật tranh cử  thích hợp, hữu hiệu, với số ứng cử viên tương xứng trong các đơn vị bầu cử để có đa số phiếu bầu thắng cử vào các cơ quan dân cử các cấp.
      Như vậy, vì không liên kết hay liên kết lỏng lẻo, cả chiều rộng lẫn chiều sâu, các ứng viên thuộc các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ dễ bị đánh bại trong các đơn vị bầu cử các cấp. Liên kết chiều rộng là qui tụ được hầu hết các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một chiến lược tranh cử chung, vẫn giữ độc lập về tổ chức song không biệt lập trong các hoạt động tranh cử. Liên kết chiều sâu là thống nhất trong một bộ tham mưu chỉ đạo thực hiện chiến thuật tranh cử, phân công, phân nhiệm thực hiện mục tiêu và lý tưởng chung (Đấu tranh chính trị, tranh thủ nhân tâm, đấu tranh nghị trường để bảo vệ quan điểm chính trị, thuyết phục được quần chúng cử tri…).
      Vì thiếu liên kết chiều rộng, nên mạnh đảng phái, tổ chức chính trị, tôn giáo nào cũng đưa người ra tranh cử và cá nhân mạnh ai nấy ra ứng cử, phiếu bầu bị phân tán và ứng viên sẽ thất cử. Nếu thiếu liên kết chiều sâu, sẽ không tạo được sự tin tưởng lẫn nhau,không tranh thủ và tập hợp được quần chúng ủng hộ khuynh hướng chính trị của mình. Các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ mất cơ hội nắm quyền thông qua lá phiếu cử tri bằng phương thức dân chủ.

IV/- KẾT LUẬN:
        Dầu muốn dầu không nền dân chủ đa nguyên đa đảng sớm muộn cũng sẽ phải hình thành tại Việt Nam. Bây giờ là một giả định, tương lai sẽ là một thực tại.
       Với hiện trạng các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong và ngoài nước hiện nay, nếu giả định ngay bây giờ Việt cộng chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng xã hội dân chủ (cộng sản phản tỉnh) vẫn có nhiều cơ hội chiếm đa số trong các cơ quan dân cử từ trung ương đến các địa phương. Và vẫn sẽ là lực lượng lãnh đạo guồng máy công quyền quốc gia trong chế độ dân chủ đa nguyên.
        Hơn ai hết, thiết tưởng những người lãnh đạo các chính đảng, các tổ chức chính trị cũng như cá nhân có khuynh hướng Quốc gia Dân tộc Dân chủ, là những người từ lâu đã nhìn thấy vấn đề: Liên kết là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho mọi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh chung. Hiển nhiên Quý vị đã biết phải làm gì và cần làm gì để giành thắng lợi trên chính trường và nghị trường, một khi giả định “Nếu Việt cộng chấp nhận dân chủ đa nguyên đa đảng” trở thành sự thật. Một sự thật sớm muộn sẽ xẩy ra, chỉ còn là vấn đề thời gian. Vì đó đã là một tất yếu, một chiều hướng mới không thể đảo ngược “kinh tế thị trường tự do và chính trị dân chủ hóa toàn cầu”.
Thiện Ý
Viết lần đầu năm 1997 đã đăng tải trên Việt Báo ở Houston.
Viết lại tháng 11- 2012.

Một giả định lịch sử:NẾU TỔNG THỐNG DIỆM KHÔNG BỊ LẬT ĐỔ VÀ SÁT HẠI, VIỆT NAM SẼ RA SAO?



Một giả định lịch sử:
NẾU TỔNG THỐNG DIỆM KHÔNG BỊ LẬT ĐỔ VÀ SÁT HẠI, VIỆT NAM SẼ RA SAO?

Thiện Ý

        Thấm thoát mà đã 49 năm kể từ biến cố ngày 1-11-1963, một số Tướng Tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã làm cuộc đảo chánh quân sự và sát hại dã man Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào huynh Ngô Đình Nhu trong cương vị cố vấn chính trị.Mặc dầu lịch sử đã sang trang, song những di hại khởi đi từ biến cố này đã là một trong những nguyên nhân đưa đến thực tế tồi tệ hôm nay:Miền Nam tự do mất vào tay Việt cộng, nhân dân Việt Nam trên cả nước đã  phải sống dưới ách một chế độ độc tài toàn trị cộng sản đã 37 năm qua và vẫn đang phải tiếp tục sống dưới chế độ tàn hại này chưa biết đến bao giờ.
        Chính vì vậy mà nhiều người, trong đó có chúng tôi tự hỏi: Nếu như ngày ấy Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, Việt Nam có tránh được thực tế ngày càng tồi tệ như hôm nay không?
        Bài viết nhàn đề “Nếu Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, Việt Nam sẽ ra sao” chúng tôi đã viết năm 1996 và đã đăng tải trên Nguyệt san Dân Ta ở Houston, texas, Hoa Kỳ, là một suy tư cá nhân để tìm câu trả lời cho một giả định lịch sử này.
       Bài viết lần lượt trình bầy:
-        Từ một biến cố lịch sử đưa đến cái chết cho một vị Tổng Thống.
-        Đến một giả định lịch sử: Nếu Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, Việt Nam sẽ ra sao?
-        Kết luận.

I/- TỪ MỘT BIẾN CỐ LỊCH SỬ ĐƯA ĐẾN CÁI CHẾT CHO MỘT VỊ TỔNG THỐNG.
    Lịch sử ghi nhận rằng: Ngày 1-11-1963, với sự gợi ý, cho phép và ngầm hổ trợ, cam kết của chính phủ Hoa Kỳ, một nhóm Tướng Tá Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã thành công trong việc đảo chánh lật đổ và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đưa đến sự cáo chung nền Đệ Nhất chế độ Việt Nam Cộng Hòa (1956-1963), khai sinh nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa (1963-1975) tại Miền Nam Việt Nam.Cuộc đảo chánh quân sự này đã đưa đến cái chết bi thảm cho một vị Tổng Thống tiên khởi của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, vốn có tiếng là thanh liêm chính trực, có đạo đức và tác phong lãnh đạo. Cùng bị sát hại với Tổng Thống là bào đệ Ngô Đình Nhu, Cố vấn của Tổng Thống, một nhà trính trị uyên thâm, mưu lược và có viễn kiến.
        Lý do mà các Tướng Tá làm đảo chánh đưa ra là vì chế độ Ngô Đình Diệm là chế độ độc tài gia đình trị, chủ trương tiêu diệt đối lập chính trị, kỳ thị và đàn áp tôn giáo; lại có âm trực tiếp thương lượng với chế độ Cộng sản Bắc Việt về một giải pháp chính trị cho Việt Nam,làm cho công cuộc chống cộng sản ở Miền Nam có thể bị lâm nguy. Vì vậy cần phải lật đổ chế độ Diệm để có điều kiện củng cố phát triển một chế độ dân chủ đích thực tại Miền Nam, để công cuộc chống cộng ở Miền Nam hữu hiệu và bảo đảm cho chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa quốc gia ở Miền Nam  đối với ngụy nghĩa cộng sản Bắc Việt.
         Nếu quả đúng như những lý do và mục đích mà các Tướng Tá đảo chánh đưa ra, thì đảo chánh đúng là điều cần thiết, nên làm và cần phải làm. Và cái chết bi thảm của anh em cố Tổng Thống Diệm cũng như sự hy sinh mạng sống của các quân sĩ tham gia đảo chánh và chống đảo chánh ngày ấy (1-11-1963) coi như là giá máu tương xứng để đổi lấy những điều tốt đẹp hơn cho nhân dân Miền Nam, cho Đất nước và Dân Tộc Việt.
        Thế nhưng, thực tế những tháng năm sau đó đã cho thấy nhiều lý do ngụy tạo và các mục tiêu cuộc đảo chánh đưa ra đã không thực hiện được: Chế độ dân chủ đích thực ở Miền Nam đã không củng cố và phát triển được sau đảo chánh mà đôi lúc còn tệ hại hơn nhiều so với chế độ “Độc tài gia đình trị” trước đó.; công cuộc chống cộng bảo vệ Miền Nam đã không hữu hiệu và bảo đảm hơn cho chiến thắng cuối cùng, mà đảo chánh đã mở đầu cho một giai đoạn suy thoái chính trị, suy yếu quân sự và suy đồi toàn diện ở Miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho đối phương cộng sản Bắc Việt thôn tính Miền Nam.
         Như mọi người đã biết, cầm đầu cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 là  Tướng Dương Văn Minh, cũng là người trực tiếp ra lệnh cho một tùy viên thân tín (Đại Úy Nhung) sát hại dã man anh em cố Tổng Thống Diệm trong lòng chiếc thiết vận xa M.113 trên đường đón đưa Tổng Thống và bào đệ Ngô Đình Nhu từ Nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, nơi đặt bản doanh của các Tướng Tá cầm đầu đảo chánh.
         Như là con người của định mệnh, mười hai năm sau (1963-1975), ngày 30-4-1975, một lần nữa. Tướng Dương Văn Minh lại được ngoại bang (người Mỹ) tuyển chọn làm công việc bàn giao một nửa đất nước còn lại cho đối phương Cộng sản Bắc việt, khai tử chế độ Việt Nam Cộng Hòa, như đã từng khai tử Đệ Nhất chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đó vào ngày 1-11-1963. Chính con người của định mệnh này đã được ngoại bang (Hoa Kỳ) trao cho một trách nhiệm lịch sử: Mở đầu và kết thúc một quá trình triệt tiêu chế độ Việt Nam Cộng Hòa theo đúng ý đồ của Mỹ. Chiến tranh Việt Nam kết thúc sau khi Hoa kỳ đã “rút ra khỏi cuộc chiến một cách danh dự” vài năm trước đó, thông qua bản Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam. Một Hiệp định được coi như bản án tử hình chế độ Việt Nam Cộng Hòa được Hoa Kỳ và Việt cộng hợp soạn, ép Việt Nam Cộng Hòa phải ký vào, để sau cùng Tướng Dương Văn Minh làm nhiệm vụ đao phủ, bắn phát súng ân huệ cuối cùng. Đất nước Việt Nam được thống nhất trong hòa bình, nhưng nhân dân Việt Nam trên cả nước đều bị ném vào một thảm trạng mới, thảm trạng trong hòa bình theo nghĩa không còn nghe tiếng súng, nhưng cả nước phải sống dưới một chế độ độc tài tàn bạo tiêu biểu nhất của thời đại, chế độ độc tài toàn trị cộng sản. Trong chế độ tàn hại này, quyền tự do và các nhân quyền, dân quyền cơ bản đều bị tước đoạt hay hạn chế tối đa. Đất nước, con người và xã hội bị suy đồi toàn diện. Lịch sử Việt Nam đã sang trang với một trang sau tệ hại, suy đồi hơn trang trước. Đó là thạm trạng không may cho lịch sử, con người và đất nước Việt Nam. Hậu quả này, ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử?- (Lịch sử sẽ có câu trả lời mai hậu).
        Thấm thoát mà đã gần nửa Thế kỷ kể từ ngày đảo chánh Mùng 1-11-1963, đưa đến cái chết thảm thương cho một vị Tổng Thống đầy lòng nhân ái: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Hàng năm trong cũng như ngoài nước, nhũng người tin yêu, ngưỡng phục Ông vẫn thường âm thầm hay công khai cầu nguyện cho Ông và tôn vinh Ông  như một nhà ái quốc chân chính đã “Vị quốc vong thân”. Theo thời gian năm tháng, ngày càng có thêm nhiều người ngưỡng mô Ông khi thấy thực tế ngày một khẳng định: Chí sĩ Ngô Đình Diệm quả là một nhà ái quốc chân chính, một lãnh tụ chính trị tài đức, tiêu biểu cho ý chí bất khuất quật cường, tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam, đã sống, chiến đấu và hy sinh mạng sống cho lý tưởng “Tự Do Dân Chủ, Độc Lập Dân Tộc”.
      Đứng trước một thực trạng Đất nước ngày một suy đồi toàn diện,kể từ sau ngày đảo chánh lật đổ, sát hại Tổng Thống Diệm, nhất là thảm trạng ngày nay khoảng 90 triệu nhân dân Việt Nam đã và đang phải sống dưới ách chế độ độc tài toàn trị Việt cộng, nhiều người tin yêu và ngưỡng mộ Ông, đã tỏ ra nuối tiếc rằng: Nếu như ngày ấy Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, tình hình Miền Nam Việt Nam phải khác, không thể có ngày 30-4-1975  và lịch sử Việt Nam đã biến chuyển theo một chiều hướng tốt đẹp hơn cho Đất nước và Dân Tộc Việt.Vì sao?

II/- ĐẾN MỘT GIẢ ĐỊNH LỊCH SỬ: NẾU TỔNG THỐNG DIỆM KHÔNG BỊ LẬT ĐỔ VÀ SÁT HẠI, VIỆT NAM SẼ RA SAO?
        Giả định lịch sử này chỉ có được với những điều kiện tiên quyết là: Người Mỹ giữ đúng cương vị của một nước đồng minh (khác với Đế quốc thực dân), tôn trọng độc lập chủ quyền chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, không can thiệp vào công việc nội bộ của VNCH, nhất là chỉ hổ trợ mà không trực tiếp chỉ đạo, đưa quân tham gia cuộc chiến tranh chống lại cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam của Cộng sản Bắc Việt. Nếu không thì ít ra mọi ý đồ can thiệp vào công việc nội bộ của VNCH của Hoa Kỳ phải không được người Việt Nam nào tiếp tay thực hiện
       Chẳng hạn như khi người Mỹ muốn lật đổ Tổng Thống Diệm, ngày 1-11-1963 sẽ không xẩy ra cuộc đảo chánh quân sự, nếu các Tướng Tá quân đội VNCH lúc bấy giờ cảnh giác không nghe lời khuyến dụ, mua chuộc kích động của cơ quan tình báo Hoa Kỳ (CIA) Tất cả dều ý thức rằng quyền lợi Đất nước và Dân tộc là tối thượng, nguy cơ cộng sản thôn tính Miền Nam là quan trọng hàng đầu, và thấy được ý đồ thực sự này của ngoại bang: Mỹ muốn xử dụng họ như một công cụ để thành đạt ý đồ triệt hạ  Tổng Thống Diệm vì Ông đã hành xử năng quyền Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa như là một quốc gia độc lập, có chủ quyền lãnh đạo đất nước đối nội cũng như đối ngoại, trong đó công cuộc chống cộng bảo vệ chế độ VNCH và phần đất Miền Nam tự do là ưu tiên hàng đầu. Những lý do trọng yếu mà người Mỹ đưa ra như là khuyết điểm không thề sửa chữa khác hơn là một cuộc lật dổ Tổng Thống Diệm,thực ra chỉ là những lý do ngụy tạo để kích động mà thực chất phải lật đổ chỉ vì Ông Diệm đã dám chống lại sự áp đặt chính sách cai trị và chỉ đạo cuộc chiến chống cộng của Mỹ, biến chính quyền VNCH như một công cụ chống cộng của Mỹ,chống cộng theo sách lược và sự chỉ đạo trực tiếp của Mỹ, làm mất chính nghĩa quốc gia của chính quyền và quân dân Miền Nam Việt Nam.(Thực tế quả đúng như vậy sau khi lật đổ TT. Diệm, Mỹ đưa quân vào Miền Nam, đối phương Việt cộng khai thác triệt để chính nghĩa dân tộc chống ngoại xâm…).
       Vậy thì, một giả định lịch sử, nếu Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại, tình hình Việt Nam sả ra sao?
       Theo suy luận, nhận định của chúng tôi và có lẽ cũng là của nhiều người Việt Nam sau cuộc chiến Quốc-Công (1954-1975), căn cứ trên những sự kiện, biến cố diễn ra từ sau cuộc đảo chánh 1-11-1963 đến khi Miền Nam sụp đổ, bị CSBV thôn tính, câu trả lời là: Nếu Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại thì:
   1.-Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam sẽ được cải thiện từng bước,ngày một vững mạnh và tồn tại cho đến hôm nay.
    - Vì cái tội “Độc tài gia đình trị” nếu có lớn thì không thể lớn hơn sự sống còn của Miền Nam Việt Nam trước hiểm họa cộng sản và hoàn toàn có thể cải sửa được bằng phương cách khác hơn.Chẳng hạn, dưới áp lực gia tăng vừa đủ của Hoa Kỳ, đồng minh, đòi hỏi chính đáng của các chính đảng quốc gia và quần chúng, sẽ buộc được Tổng Thống Diệm phải thay đổi, sửa chửa các nhược điểm. Người ta tin rằng, một nhà lãnh đạo tài đức với tâm địa “Tiết-Trực-Tâm hư”, hết lòng lo cho dân cho nước như TT. Diệm, bên cạnh lại có một cố vấn mưu lược là bào đệ Ngô Đình Như, và nhiều người tài đức khác trong chính quyền, sớm muộn gì các nhược điểm của cá nhân và chính quyền của TT Diệm sẽ được điều chỉnh, sửa sai.

2.- Chính trường Miền Nam sẽ dần dần ổn định, đối lập chính trị có tiếng nói,chế độ được dân chủ hóa theo một tiến trình phù hợp với tình trạng đang có chiến tranh với VC, niềm tin của dân với chính quyền và  sưc mạnh đoàn kết quân dân  ngày một củng cố tạo thế và lực đương đầu thắng lợi với quân CSBV xâm lăng.
    -Với phương thức cải sửa “Độc tài gia đình trị” ôn hòa, có thời gian và hữu hiệu, Miền Nam Việt Nam sẽ tránh được bất ổn, xáo trộn nghiêm trọng như đã xẩy ra sau đảo chánh. Các Tướng Tá quân đội thì mải mê tranh giành quyền lực, bỏ ngỏ chiến trường, nếu lúc đó quân Mỹ không kéo vào thì Miền Nam đã lâm nguy.Nhiều đảng phái mới được thành lập không phải để tạo thế và lực mới cho mục tiêu chống cộng mà chỉ cốt để có bảng hiệu, kết bè phái tranh thâu chống cộng hoặc chia chác quyền hành với phe nhóm đã được Hoa Kỳ chấp nhận cho “Trúng thầu chống cộng”.
      Thượng tầng kiến trúc chế độ Miền Nam sau đảo chánh thì  băng hoại như vậy, hạ tầng cơ sở chống cộng thì bị phá đổ nhiều mảng, ví như quốc sách “Ấp Chiến Lược” dù có cố gắng đổi tên thành “Ấp Tân Sinh” vẫn không tránh khỏi tan rã. Quần chúng nhân dân thì bị phân hóa bởi óc kỳ thị địa phương, tôn giáo chống phá lẫn nhau, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần đoàn kết và sức mạnh chiến đấu của quân dân Miền Nam,nhất là lực lượng chủ lực là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.Tựu chung Miền Nam Việt Nam sau đảo chánh đã suy đồi toàn diện, rơi vào tình trạng tự do vô tổ chức, vô chính phủ…
3.-Chính nghĩa đấu tranh của nhân dân Việt Nam sẽ ngày một sáng ngời trong nhân dân và trên trường quốc tế.
   - Vì đảo chánh rồi, quân Mỹ ồ ạt kéo vào trực tiếp tham chiến chống cộng, Hoa Kỳ trực tiếp chỉ đạo chiến tranh, cuộc chiến đấu cho chính nghĩa Dân Chủ, Tự Do và độc lập Dân tôc của chính quyền và quân dân Miền Nam bị đối phương xuyên tạc trong nhân dân hai miền để kích động lòng ái quốc chống ngoại xâm,tuyên truyền trên trường quốc tế để cô lập chính quyền VNCH. Đây là điều Tổng Thống Diệm cấm kỵ từ lâu và đã có hành động cản ngăn ngay cả việc Hoa Kỳ muốn mở rộng lực lượng “Cố vấn Mỹ” trong các cấp chính quyền và quân đội VNCH. Điều này sẽ không xẩy ra nếu còn TT. Diệm và cũng vì muốn bảo vệ chủ quyền của một quốc gia độc lập mà TT. Diệm đã bị lật đổ và sát hại thảm thương như thế đó. Nói cách khác, nếu không thì chính nghĩa đấu tranh của chính quyền và quân dân VNCH sẽ bảo đảm cho thắng lợi sau cùng. Vì đó là chính nghĩa quốc gia dân tộc dân chủ tất thắng ngụy nghĩa cộng sản quốc tế phi dân tộc, phản dân chủ. Cuộc chiến tranh phi nghĩa của công cụ CSBV nhằm nhuộm đỏ Miến Nam chắc chắn bị tàn lụi, ý chí xâm lăng của tập đoàn tay sai cộng sản quốc tế là Cộng đảng Viêt Nam sẽ bị đập tan,một khi chính nghĩa quốc gia dân tộc dân chủ sẽ cho nhân dân hai miền thấy rõ đâu là chính (Việt quốc) đâu là tà (Việt cộng). Thực hất của cái gọi là “Cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước trong Độc Lập-Tự Do- Hạnh Phúc” mà CSBV lúc bây giờ tuyên truyên lừa mị sẽ bị vạch trần trước nhân dân và công luận thế giới. Một khi nhân dân biết rõ mặt thật, Việt cộng sẽ không còn huy động được “sức người, sức của” để làm “Chiến tranh giải phóng Miền Nam”, lại bị cô lập trên trường quốc tế, bị quân dân Miền Nam đánh trả quyết liệt, với sự hổ trợ tích cực, hữu hiệu  của nước bạn đồng minh Hoa Kỳ (theo đúng nghĩa) và hậu thuẫn quốc tề, Cộng sản Hà Nội sẽ không còn con đường nào khác là phải rút về cố thủ Miền Bắc, như cộng sản Bắc Hàn đã làm sau khi bị đánh bại cuộc xâm lăng Nam Hàn năm 1953.
4.- Sau cùng,nếu Miền Nam không muốn “Bắc tiến” để giải phóng Miền Bắc như chủ trương của các chính quyền quốc gia để tránh đổ máu, thì ít ra cũng duy trì được tình trạng tạm thời qua phân như Bắc Hàn và Nam Hàn hiện nay, để chờ cơ may thống nhất Đất nước một cách hòa bình, bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa giầu mạnh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài đảng trị nghèo yếu ở Miền Bắc.
    Đó chính là cơ may đã dến với dân tộc Đức quốc năm 1989, đã thống nhất đất nước một cách hòa bình, với phần ưu thắng của Tây Đức dân chủ giầu mạnh trên Đông Đức độc tài cộng sản nghèo yếu, để có một Nước Đức thống nhất trong một chế độ dân chủ ngày nay.

III/- KẾT LUẬN:
      Việt Nam nhất định đã có được tình trạng song song tồn tại hai chế độ đối nghịch trên hai Miền Đất nước như Nam- Bắc Triều Tiên ngày nay, nếu Tổng Thống Diệm không bị lật đổ và sát hại. Điều này không có nghĩa là chỉ có Tổng Thống Diệm mới tạo cho Đất nước có được tình trạng và chiều hướng phát triển tốt đẹp như thế.Và cũng không có nghĩa là Tổng Thống Diệm sẽ tồn tại lâu dài trong ngôi vị lãnh đạo chính quyền VNCH cho đến hôm nay. Đến một lúc nào đó, Tổng Thống Diệm phải được thay thế và cần thiết phải thay thế cho phù hợp với thể chế dân chủ, nhưng không phải và chưa phải vào thời điểm năm 1963; Càng không phải và không cần thay thế TT. Diệm bằng bạo lực và sát hại tàn bạo một nhà ái quốc như thế, mà xét ra trong chín năm cầm quyền đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho dân, cho nước, dù cũng có những sai lầm, khiếm khuyết về lãnh đạo .Tuy nhiên vẫn có thể cải sửa bằng phường pháp dân chủ và phải để cho Ông có đủ thời gian cải sửa, đặt nền móng cho chế độ VNCH vững mạnh về chính trị, kinh tế, ổn định xã hội, tiến tới tự úc tự cường vừa chiến đấu, vừa phát triển, như chủ trương tự túc tự cường (tam túc, tam giác) mà Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu dự hoạch thực hiện nhằm chống lại áp lức ngày một gia tăng của Hoa Kỳ, tạo thế lực bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Tựu chung, nếu không có cuộc đảo chánh quân sự lật đổ và sát hại TT. Diệm vào ngày 1-11-1963, thì chắc chắn Cộng sản Bắc việt đã không cưỡng đoạt được Miền Nam vào ngày 30-4-1975, xô đẩy nhân dân Việt Nam trên cả hai miền đất nước vào một thạm trạng trong hòa bình:Cả nước phải sống đói nghèo cơm áo, đói nghèo tự do dưới chế độ độc tài cộng sản sắt máu, nhiều người dân đã phải trốn chậy bỏ nước ra đi tìm tự do bằng mọi cách và bằng mọi giá, kể cả mạng sống, nhiều người đã chết trong lòng biển cả hay rừng già biên giới trên đường tìm tự do.
    Nếu không có đảo chánh lật đổ và sát hại cố Tổng Thống Diệm, chế độ tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại ở Miền Nam Việt Nam cho đến hôm nay, và triển vọng thống nhất đất nước bằng sự  tất thắng chế độ độc tài phản dân chủ Cộng sản Bắc việt phải là một tất yếu, sớm muộn chỉ còn là vấn đề thời gian.

Thiện Ý
Houston, Ngày 1-11-1966
Hiêu đính ngày 1-11-2012

Bình luận:ÐI BẦU LÀ QUYỀN LƠI VÀ LÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN



Bình luận:
 ÐI BẦU  LÀ QUYỀN LƠI VÀ LÀ NGHĨA VỤ CÔNG DÂN
                                                                                                          
 Thiện Ý

   Trong chương trình của Bộ Quốc Gia Giáo Dục chế độ Việt Nam Cộng Hoà trước đây ở Miền Nam Việt Nam, có môn Công Dân Giáo Dục ở bậc Trung Học, trong đó có đề cập đến vấn đề ứng cử và bầu cử và coi đó như là quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Tại sao đi bầu đã là quyền lợi, mà lại là nghĩa vụ hay bổn phận công dân? Vì nghe qua như có cái gì tương phản: Ði bầu đã là quyền lợi thì việc đi bầu hay không là quyền tự do của mỗi công dân; Còn đi bầu cũng là nghĩa vụ hay bổn phận công dân thì lại có tính cưỡng hành. Tuy nhiên trên bình diện lý luận và thực tiễn, bầu cử quả vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ công dân.
         Thật vậy, về lý luận bầu cử thoát thai từ chế độ dân chủ đại nghị. Nghĩa là một chế độ trong đó người dân thể hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội thông qua một cơ chế dân cử, thay mặt công dân điều hành quốc gia. Những đại diện dân cử là những người quản lý đất nước, công bộc ăn lương và hưởng các bổng lộc bằng tiền thuế đóng góp của người dân, phải cai trị đất nước theo đúng chức năng để hoàn thành các mục tiêu phúc lợi chung cho toàn xã hội cũng như riêng cho mỗi công dân.
        Như vậy, sự hưng thịnh của quốc gia, sự phồn vinh hay nghèo nàn của người dân trong một xã hội, sẽ tùy thuộc một phần rất quan trọng vào những người dân cử để quản lý đất nước và xã hội. Và do đó, bầu cử ra những người đại diện cho mình tham gia vào việc quản lý đất nước, rõ ràng là một trong những quyền lợi căn bản hàng đầu của mỗi công dân. Ðã là quyền lợi, thì trong một chế độ dân chủ thực sự, việc đi bầu hay không đi bầu là quyền tự do của mỗi công dân. Thế nhưng, vì việc đi bầu hay không đi bầu của một hay nhiều công dân sẽ có hệ quả tốt xấu đến kết quả bầu cử. Nghĩa là, nếu cử tri đi bầu đông đủ, những người đại diện tài đức có cơ hội và tư thế phục vụ trong các cơ quan dân cử các cấp các ngành sẽ chiếm đa số tuyệt đối trên thiểu số dân cử bất xứng. Do đó, vì quyền lợi và phúc lợi chung của toàn xã hội cũng như riêng của mỗi công dân, bầu cử không những là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mọi công dân sống trong một quốc gia có chế độ dân chủ thực sự.
         Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến chế độ dân chủ thực sự, vì trên thực tế đã có nhiều chế độ dân chủ giả hiệu, như chế độ đương thời tại Việt Nam, với các cuộc bầu cử dân chủ hình thức, trong khi thực chất chỉ là sự  sắp xếp của nhà cầm quyền để có một tập đoàn thốmg trị theo đúng ý muốn của họ. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh đến một chế độ dân chủ thực sự, để lưy ý đến một thực tiễn là, chúng ta, những người Việt Nam ly hương, đã và đang có may mắn được sống trong lòng một quốc gia có chế độ dân chủ đích thực, đó là quốc gia Hoa Kỳ. Lưu ý để thấy rằng chúng ta không nên bỏ lỡ cơ hội thực hiện quyền dân chủ nói chung, quyền bầu cử nói riêng, vì các quyền lợi thực tiễn của chính chúng ta, với tư cách là một công dân Hoa Kỳ, và trong tư thế của một cộng đồng sắc dân thiểu số trong lòng quốc gia Hoa Kỳ.
         Thực tiễn quả là chúng ta đã có những quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hoá, xả hội cần được thực hiện thông qua cơ chế dân cử các cấp quận hạt, thành phố, tiểu bang và liên bang. Cuộc bầu cử chính thức ngày Thứ Ba  Mùng 6-11-2012, các chức vụ công cử như Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thống Ðốc, Phó Thống Ðốc Tiểu Bang, Nghị Sĩ, Dân Biểu Tiêu Bang và Liên Bang,Chánh án, Ủy Viên các ngành các cấp địa phương… chính là cơ hội thực hiện quyền bầu cử của mình. Qua cuộc bầu cử này, chúng ta sẽ chọn lựa những người đại diện tài đức, không phải chỉ biết lắng nghe, quan tâm đến những quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của những công dân người Mỹ gốc Việt và cộng đồng sắc dân Việt Nam, mà còn phải biết hành động tích cực sao cho các quyền và lợi ích cá nhân cũng như tập thể ấy thành hiện thực.
        Chúng ta cần rủ nhau tham gia cuộc bầu cử này cho đông, để chứng tỏ sức mạnh của Cộng Ðồng Việt Nam chúng ta, để chính giới Hoa Kỳ phải quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của chúng ta. Trong một bài bình luận trước đây về ‘‘ Sức mạnh lá phiếu, sức mạnh cộng đồng’’, chúng tôi đã có dịp trình bầy cùng quý  độc giả, rằng trước mắt, nếu khối cử tri người Mỹ gốc Việt chúng ta tham gia đông đảo các cuộc bầu cử các chức vụ dân cử, từ cấp địa phương, Tiểu Bang đến Liên Bang, chúng ta sẽ có sức mạnh của lá phiếu để bất cứ ứng viên dân cử nào sau khi đắc cử cũng phải quan tâm đến nguyện vọng của Cộng Ðồng Việt Nam.
         Bằng sức mạnh của lá phiếu, chúng ta có thể bảo vệ được các quyền lợi hợp pháp và chính đáng của cá nhân cũng như tập thể trên đất nước quê hương thứ hai này của chúng ta. Ðồng thời bằng cức mạnh của lá phiếu, chúng ta có thể tạo áp lực chính trị trong chừng mực nào đó, để hổ trợ có hiệu quả cho công cuộc đãu tranh nhằm dân chủ hoá đất nước, đòi các quyền dân chủ, dân sinh của đồng bào Việt Nam trong nước. Vì rằng, cộng đồng Việt Nam không có nhiều các nhà đại tư bản như Cộng Đồng Do Thái hay Cuba, nên ngoài sức mạnh của lá phiếu ra, chúng ta không thể tạo được ảnh hưởng chính trị bằng sức mạnh của đồng dollar. Các vị dân cử chỉ thực sự quan tâm đến Cộng Đồng Việt Nam chúng ta khi nhìn vào con số cụ thể có đông đảo cử tri người Mỹ gốc Việt tham gia các cuộc bầu cử.
         Vì vậy, về lâu về dài nhìn đến tương lai, một khi hơn một trăm ngàn đồng hương Việt Nam ở Houston và vùng phụ cận, cũng như khoảng 2 triệu đồng hương Việt Nam khắp nơi tại Hoa Kỳ, một khi đã ý thức được sức mạnh lá phiếu, sức mạnh cộng đồng và trở nên quen thuộc với sinh hoạt chính trị chính dòng nơi xứ sở này, chúng ta nhất định sẽ đủ số lượng phiếu bầu cần thiết để các vị dân cử bản xứ phải quan tâm. Đồng thời, bằng lá phiếu tập trung của cử tri người Mỹ gốc Việt tại các đơn vị bầu cử có ứng viên là người Việt Nam, chúng ta sẽ đưa  được ngày càng nhiều đồng hương vào các chức vụ dân cử các cấp tại Hoa Kỳ nói riêng và các nước khác ở hải ngoại nói chung.
         Hiện tại đó đây trên đất nước Hoa Kỳ, chúng ta đã từng có các dân biểu Tiểu bang và Liên Bang, nghị viên, ủy viên, chánh án,  phó thị trưởng, phụ tá Bộ Trưởng, song vẫn còn là ít chưa tương xứng với một sắc dân thiểu số đông đảo đến khoảng 2 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống khắp Hoa Kỳ. Riêng tại thành phố Houston, trong cuộc bầu cử chính thức ngày Thứ Ba 6-11-2012, cử tri đồng hương Việt Nam ở đơn vị 149 cũng đừng quên dồn phiếu cho một ứng cử viên người Việt duy nhất còn lại trên cả nước Hoa Kỳ tái tranh cử nhiệm kỳ thứ năm vào chức vị Dân Biểu Tiểu Bang Texas, đó là ứng cử viên Hubert Võ, để anh có cơ hội đem năng lực, nhiệt tình  phục vụ đồng hương và cử tri các sắc dân khác trong đơn vị bàu cử, như anh đã làm được nhiều điều hữu ich trong suốt 8 năm của 4 nhiệm kỳ qua và đã đem lại niềm tự hào cho cộng đồng Việt Nam Houston nói riêng và người Việt tại Hoa Kỳ cũng như hải ngoại nói chung.
    Tựu chung, có lẽ vì thấy được sức mạnh lá phiếu, là sức mạnh cộng đồng, nên một số đoàn thể thiện nguyện,  trong mùa bầu cử năm nay, đã có những cuộc vận động tích cực nhằm lôi kéo cử tri đồng hương Việt Nam đi bầu thật đông. Ðồng thời chính các cử tri người Mỹ gốc Việt cũng đã ý thức được bầu cử là quyền lợi và là nghĩa vụ công dân trong một đất nước có nền dân chủ bậc nhất như Hoa Kỳ này, nên mùa bầu cử năm nay đã có những dấu hiệu tham gia bầu cử đông đảo. Cụ thể là trong những ngày bầu cử sớm cho đến Thứ Sáu hôm nay (2-11-2012), người ta ghi nhận tổng quát số cử tri người Mỹ gốc Việt đã đến các địa điểm bầu phiếu khá đông, đông hơn các cuộc bầu cử sớm trước đây tại Houston và vùng phụ cận.
        Mong rằng cuộc bầu cử chính thức ngày Thứ Ba tuần tới (6-11-2012), cũng sẽ được cử tri đồng hương Việt Nam chúng ta tham gia thật đông đủ, vì quyền và lợi ích cho chính cá nhân cũng như tạo sức mạnh và uy thế cho các cộng đồng Việt Nam chúng ta trong lòng quốc gia Hoa Kỳ.
                                                                                                     
 Thiện Ý
Houston, ngày 2-11-2012