Một giả định thực tế:
NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA
NGUYÊN, ĐA ĐANG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?
Thiện Ý.
Như mọi người đều biết, nỗ lực đấu
tranh bao lâu nay của các lực lượng quốc gia dân chủ đóng vai trò lãnh đạo
chống cộng (Các chính đảng, các lực lượng
và tổ chức đấu tranh…) và quần chúng tham gia chống cộng trong cũng như
ngoài nước, đều nhằm đòi buộc đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đương
thời phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”, để
thiết lập một chế độ tư do dân chủ,đa nguyên, đa đảng.
Lý do mà các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ và quần chúng chống
cộng đưa ra là vì trên bình diện lý luận chế độ xã hội chủ nghĩa là không tưởng
(một xã hôi lý tưởng những không thể thực
hiện được). Trên bình diện thực tế không những đã không thực hiện được mà còn
gây ra hậu quả nghiệm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhiều dân tộc, nhiều
đất nước. Thực tế là Liên Xô, nước khởi xướng thực hiện chế độ xã hội chủ
nghĩa, sau 74 năm (1917-1991) nay đã phải từ bỏ con đường “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa” để đi
theo con đường
“Tư do dân chủ đa nguyên”. Đồng thời, các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông
Âu cũng đã theo gương Liên Xô tự hủy để đưa đất nước tiến lên theo chiều hướng
mới.
Riêng tại Việt Nam, chế độ Xã hội Chủ
Nghĩa cũng đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam thử nghiệm triệt để sau 42 năm
(1954-1995) bị thất bại, dù đã cố gắng đổi mới (1986) vẫn không thành công.Với
thời gian và thực tế ấy cũng đã đủ cho
thấy con đường “Xã
hội chủ nghĩa”(XHCN) là con đường
trái chiều với lợi ích dân tộc, nguyện vọng của nhân dân.Chế độ XHCN là không
phù hợp với thực tại đất nước, không đem lại “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc” cho
toàn dân.Hậu quả thực tế là:Nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh quá nhiều, mọi
mặt, để ngày nay phải nhận chịu thân phận sống trong một đất nước suy đồi toàn
diện, bất công, đói nghèo tự do và cơm áo.
Thực tế là, năm 1995 Hoa Kỳ bãi bỏ cấm
vận, thiết lập quan hệ ngoại giao, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt cộng thực
hiện chính sách “mở cửa” với các
nước tư bản, đi vào con đường làm ăn “kinh tế thị trường (là thực) theo định hướng xã hội chủ nghĩa (là giả)”. Thực tế là, sau 16 năm làm ăn
theo “Kinh tế
thị trường tư do” Việt Nam đã và đang theo “định hướng tư bản chủ nghĩa” và
theo đúng quy luật phát triển phù hợp thì nền “Kinh tế thị trường” tất yếu dẫn
đến nền “chính
trị dân chủ đa nguyên”. Đây là hệ quả ai cũng thấy được, những người
cộng sản Việt Nam cũng thấy như thế, song vì sao họ vẫn ngoan cố bám lấy cái vỏ
“Xã hội Chủ
nghĩa”? (Chúng tôi đã có câu
trả lời trong bài viết trước đây nhan đề “ 36 năm Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội vì
sự nghiệp của cộng sản quốc tế: Thành quả và triển vọng” . Xin vào:
thieny-lienhuong.blogspot.com để đọc thêm).
Hiện tại bề ngoài Việt cộng vẫn chống “Dân chủ đa
nguyên” quyết liệt và ngoan cố bám lấy cái vỏ “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa”; chống
đến bao giờ và bám được bao lâu nữa thì thực tế, với thời gian không bao lâu
nữa sẽ có câu trả lời.
Bây giờ chúng tôi xin đưa ra một giả
định thực tế:”Nếu ngay bây giờ, Cộng sản
Việt Nam
chấp nhận dân chủ đa nguyên, điều gì sẽ xẩy ra?” Chấp nhận đa nguyên là
Việt cộng phải chấp nhận tự do, dân chủ, phải từ bỏ độc tài, độc tôn và độc
quyền thống trị đất nước.Nghĩa là họ phải tuân thủ các nguyên tắc sinh hoạt dân
chủ và phương thức dân chủ để nắm quyền và cai trị đất nước theo một bản Hiến
Pháp dân chủ đa nguyên.
Bài
viết này lần lượt trình bầy:
-
Giả định thực
tế: Nếu Việt cộng chấp nhận đa nguyên,đa
đảng, điều gì sẽ xẩy ra?
-
Những điều kiện
cần và đủ để giả định thành hiện thực.
-
Chuyển biến các
khuynh hướng chính trị trong đa nguyên đa đảng
I/- GIẢ ĐỊNH THỰC TẾ: NẾU VIỆT CỘNG CHẤP
NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?
- Nếu Việt cộng tự nguyện, tự giác, đơn
phương, chủ động , hợp tác thực hiện kết thúc tiến trình chuyển thể hòa bình và
êm dịu như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào
cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân
phiệt Miến Điện đã đang muốn làm, và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đã có dấu hiệu và
hiệu quả thực tiễn bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
Nếu làm theo cách này, là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước và cho chính
Việt cộng. Có lợi cho Việt cộng, vì chế độ độc tài toàn trị dù bị tiêu
vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu
không đổi tên) vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt
bình đẳng, hợp pháp để giành quyền lãnh đạo đất nước trong một chế độ dân chủ
đa đảng.Và Cộng đảng Việt Nam vẫn có nhiều thuận lợi hơn các chính đảng khác (nhờ thế
lực sẵn có sau nhiều năm nắm quyền
độc tôn…) để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa đảng này,
nếu được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do. Đồng
thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân (đổ máu…), đất nước (tan hoang…) và cho chính Việt cộng như nhân dân, đất nước và các
nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu.
Một giả
định, nếu chọn và làm theo cách này,
Việt cộng có thể chủ động thực hiện cách thức kết thúc tiến trình chuyển đổi
hòa bình êm dịu như sau:
* Chuyển đổi trên bình diện pháp lý:
1.-
Quốc hội đương nhiệm đang có nghị trình sửa đổi Hiến pháp hiện hành, thay vì
sửa chữa theo hướng củng cố chế độ độc tài độc đảng hiện nay, sẽ sửa đổi theo
hướng dân chủ đa đảng.
Theo hướng này, chỉ cần sửa đổi những
điều khoản căn bản liên quan đến danh hiệu chế độ chính trị và vai trò các
chính đảng trong chế độ chính trị dân chủ, đa đảng.Còn lại các điều khoản khác
vẫn duy trì, chỉ sửa đổi hay bãi bỏ các điều khoản không còn phù hợp hay trái
với chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Mục đích
duy trì nguyên trạng những qui định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành
chính quyền dân sự cũng như quân sự các cấp, các ngành (lập pháp,hành pháp và tư pháp) hiện hành từ trung ương đến địa
phương trên cả nước,là để tránh mọi sự xáo trộn bất lợi. Sau đó sẽ sửa đổi,
điều chỉnh dần dần những bất hoàn theo thời gian thích hợp để hoàn chỉnh từng
bước chế độ chính trị dân chủ, đa đảng trên bình diện pháp lý.
Tỷ dụ, Hiến pháp hiện hành (1992) qui định nơi:
CHƯƠNG I: Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Chế độ chính tri.
Có thể sửa đổi thành : Nước Cộng Hòa Dân Chủ
Việt Nam (1)
Hoặc: Nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (2)
(Nếu muốn lấy lại danh xưng HP. 1946)
Hay: Nước
Cộng hòa dân bản chủ nghĩa Việt Nam(3)
( Nếu
muốn nghe cho quen tai và có ý nghĩa lấy dân làm gốc)
Chế độ chính trị
Điều 1: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Sửa đổi thành : Nhà nước Cộng Hòa
Dân Chủ Việt Nam(hoặc
chọn 2 hay 3)là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về toàn dân.
Điều
4: Đảng Cộng
dản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Có thể sửa đổi Điều 4 thành:
Điều 4: Mọi công dân Việt Nam,
với tư cách cá nhân hay chính đảng, có quyền tham gia công việc lãnh đạo, quản
lý đất nước và xã hội, thông qua các cuộc bầu cử tự do.
Mọi cá nhân công dân và tổ chức chính đảng phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
2.- Quốc hội cơ quan lập pháp đương
nhiệm sau đó cần:
- Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến
pháp dân chủ đa nguyên, đa đảng mới được hình thành từ Hiến pháp hiện hành được
sửa đổi.(Luật Đất Đai, Nhà đất,Luật Hình,
Luật Hộ…)
- Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham
gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng đã được khai sinh
từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.
- Làm“Luật
ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ,đa
đảng, cho mọi cá nhân công dân và các tổ chức chính đảng có thể tham gia hợp
pháp trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do vào các chức vụ dân cử các cấp,
các ngành trên cả nước.
- Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc”(như nước Cộng Hòa Nam Phi đã làm sau khi kết
thúc thắng lợi vào đầu thập niên 90, cuộc chiến tranh lâu dài chống chế độ phân
biệt chủng tộc giữa thiểu số người da trắng thống trị trên tuyệt đại đa số
người da đen bị trị; tương tự như chế độ độc tài đảng trị bao lâu nay tại Việt
Nam, thiểu số các đảng viên Cộng đảng Việt Nam đã thống trị trên tuyệt đại đa
số nhân dân Việtt Nam trên nửa thế kỷ qua).
Luật này sẽ áp
dụng nguyên tắc bất hồi tố của luật pháp nhằm miễn tố chung cho những hành động
vi phạm luật pháp quốc nội hay quốc tế của cá nhân hay tập thể xẩy ra trước
ngày ban hành “Luật Hòa Giải Dân Tộc”
ở cả hai phía Việt cộng cũng như Việt quốc.
Luật này nhằm hóa giải hận thù quá
khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên
nhân từ quá khứ, dưới bất cứ hình thức nào, tạo sự hòa giải những mâu thuẫn
trong lòng dân tộc, duy trì ổn định chính trị, xã hội để có điều kiện thuận lợi
kiện toàn chế độ chính trị dân chủ đa đảng mới hình thành; tạo tiền đề đoàn kết
thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng, củng cố, phát triển toàn diện
Đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân
loại, tạo thế và lực chống ngoại xâm hữu hiệu,bảo vệ Tổ Quốc.
Công, tội của các cá nhân hay tập thể
ở cả hai phía Quốc-Cộng nếu có trong quá khứ, thiết tưởng cần để cho lịch sử
mai nầy xét định. Hiện tại chỉ nên coi đó là những bài học kinh nghiệm cần rút
ra cho hiện tại và tương lai.
3.- Chính
phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm
chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng các văn bản lập qui dưới
luật,để điều chỉnh theo các luật lệ đã
được Quốc Hội sửa đổi một cách phù hợp với thời gian, không gian và tiến
trình hoạt động bình thường của guồng
máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn, bất ổn chính trị và xã hội,
bất lợi cho đại cuộc.
Tỉ như “luật ứng cử và bầu cử” Quốc hội hay Hội Đồng Nhân Dân các cấp sẽ
được áp dụng trong nhiệm kỳ sắp tới (Trừ
khi Cộng đảng, Quốc hội và chính quyền đương nhiệm đồng thuận về một quyết định
khác hơn, chẳng hạn giải tán các cơ quan dân cử cho ứng cử và bầu cử sớm hơn,
do tình hình đòi hỏi mà không gây xáo trộn chính trị và xã hội).Nhưng các luật hủy bỏ hoặc thay thế những luật lệ
trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, hay“Luật
chính đảng”, “Luật hòa giải dân tộc” thì cần có hiệu lực tức thời sau khi ban hành
tạo tiền đề chứng tỏ thực tâm và thiện chí của Cộng đảng và nhà cầm quyền đương
thời muốn thực hiện sự chuyển đổi hòa bình và êm dịu từ “Chế độ độc tài, độc đảng” qua “Chế độ dân chủ,
đa đảng”. Đồng thời giúp cho các cá nhân công dân cũng như chính
đảng có thời gian củng cố, phát triển tổ chức và sinh hoạt, chuẩn bị kịp thời
tham gia ứng cử với tư cách cá nhân
hay do Chính đảng đưa người ứng cử vào
các cơ quan dân cử của cả nước (Quốc Hội,
Chủ tịch nước hay Tổng Thống, nếu Hiến pháp tu chính người đứng đầu hành pháp
do dân trực tiếp bầu cử trong các cuộc phổ thông bầu phiếu, thay vì do Quốc Hội
bầu cử như Hiến pháp hiện hành…) và địa phương (như Hội đồng nhân dân các cấp…).
*Chuyển
đổi trên bình diện thực tế:
Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự
điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả
nước vẫn duy trì nguyên trạng và hoạt
động bình thường.Sự sửa đối Hiến pháp, sửa đổi luật lệ do Quốc hội đương nhiệm
hay các văn bản lập qui dưới luật do Chính phủ đương nhiệm ban hành để điều
chỉnh theo sự sửa đổi Hiến pháp và luật lệ của Quốc hội, cần được các cấp, các
ngành thực thi nghiêm túc, đồng bộ trên cả nước.
Quốc Hội và Chính phủ đương nhiệm cần
thống nhất và chủ động chỉ đạo thực hiện những sửa đổi Hiến pháp, luật pháp và
lập quy theo hướng chuyển đổi hòa bình, êm dịu từ “chế độ độc tài, độc đảng ” hiện nay
qua “Chế độ dân
chủ, đa đảng”. Đồng thời, Quốc hội và Chính phủ đương nhiệm cũng cần
ấn định rõ lịch trình cải đổi về pháp lý, chính trị cũng như thực tế phải hoàn
tất chậm nhất là trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ Quốc hội đương nhiệm (2015) chẳng
hạn.
Bởi
vì, nếu giả định Việt cộng chấp nhận chủ động thực hiện cách thức chuyển đổi
hòa bình êm dịu trên đây, từ sau năm 2015,
Việt Nam sẽ có Quốc hội mới, chính phủ mới hình thành từ và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp hiện hành sau khi được Quốc hội đương nhiệm sửa đổi theo
hướng dân chủ đa đảng.
II/-NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ
ĐỂ GIẢ ĐỊNH THÀNH HIỆN THỰC.
Mặc dầu cách thức chuyển đổi này là
cách tốt nhất, có lợi nhất không chỉ cho đảng Cộng sản Việt Nam, mà lợi cho cả
nhân dân, dân tộc và đất nước, nhưng đây chỉ là một giả định, muốn trở thành sự
thật, cần có những điều kiện cần và đủ sau đây:
1.-
Việt cộng chỉ chủ động làm theo cách chuyển đổi hòa bình và êm dịu này, khi
nội bộ Cộng đảng Việt Nam,
phe “cấp tiến”
(theo chiều hướng mới)
phải mạnh hơn phe “bảo thủ”. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước
các cá nhân hay tổ chức chính trị có cùng khuynh hướng đấu tranh chống cộng vì
mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cách nào đó, phải liên kết được với nhau, tập
hợp và lãnh đạo được quần chúng, vận dụng được hậu thuẫn quốc tế, tập trung
được lực lượng trong, ngoài hổ trợ hiệu quả cho phe cấp tiến trong Cộng đảng
Việt Nam (Như ở Liên Xô đã làm được để
hậu thuẫn hiệu quả choTổng bí thư Gorbachev và phe cấp tiến trong Cộng đảng Nga
1985-1991).
Theo nhận định của chúng tôi, căn cứ
trên các sự kiện và diễn biến tình hình hiện nay thì dường như so sánh lực
lượng giữa khuynh hướng cấp tiến (theo
Mỹ)và bảo
thủ (theo Tầu) là nghiêng
ngửa trong nội bộ Cộng đảng Việt Nam. Các lực lượng quần chúng trong
nước qua các cuộc dấu tranh cá nhân cũng như tập thể đòi các quyền dân sinh,
dân chủ, thì đã có dấu hiệu phát triển theo chiếu hướng liên kết, tập trung lực
lượng, dù còn lỏng lẻo.
2.- Mặt khác, áp lực quốc tế, nhất là Hoa Kỳ phải làm sao tạo áp lực đủ
mạnh buộc được Việt cộng chuyển đổi càng sớm càng tốt qua dân chủ đa nguyên đa
đảng theo cách hòa bình và êm dịu này.Trên nguyên tắc cũng như thực tế Hoa Kỳ
và các nước dân chủ trên thế giới từ lâu đã có chủ trương này, và đã có nhiều
việc làm có tính tạo áp lực, thúc đẩy Việt cộng đi về hướng dân chủ.
Tuy nhiên, cường độ còn yếu nên tốc độ
chuyển đổi theo chiều hướng này còn chậm, dù có đạt được một số thành quả nhất
định sau mỗi áp lực. Có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ nói riêng và các nước dân chủ
khác nói chung còn tùy thuộc vào sự tính toán lợi ích song phương hay đa phương
với Việt cộng. Nhất nữa là dường như Hoa Kỳ cũng chỉ muốn “cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược mới trong vùng” theo
một tiến trình thời gian với tốc độ vừa phải. Phải chăng vì thế mà Hoa Kỳ thực hiện “chính sách cầm chừng”,thả nổi cho một
tiến trình chuyển đổi từ từ, để chế độ độc tài toàn trị Việt cộng tồn tại thêm
thời gian, để thuận lợi và dễ xử dụng
công cụ cho mục tiêu chiến lược hơn là trong khung cảnh một chế độ dân chủ đa nguyên
đa đảng, nếu hình thành sớm còn phôi thai, bất ổn và nhiều bất trắc ? Có lẽ
biết vậy, nên Việt cộng (phe bảo thủ theo
Tầu) đã tiếp tục ngoan cố cho đến lúc này vẫn không chịu chuyển đổi, tiếp
tục thực hiện chiến thuật “Mềm nắn, rắn
buông”, tìm cách diên trì tiến trình dân chủ hóa để kéo dài thêm thời gian
độc quyền chính trị, ngụy biện bằng lý do cần sự ổn định chính trị để phát
triển đất nước, để chỉ “Đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị” là vậy.
(Đến đây xin mở dấu ngoặc nói thêm về hệ quả chính sách can thiệp nửa
vời của các cường quốc tư bản chủ nghĩa vào tiến trình dân chủ hóa các chế độ
độc tài tại các nước Trung cận đông và Bắc phi .Hệ quả trực tiếp đối với các
nhà độc tài đang còn nắm quyền thống trị từ nhiều thập niên tại vùng này, là sự
ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền thống trị, chống lại cao trào đòi dân chủ hóa
đất nước của nhân dân. Một điển hình là tập đoàn độc tài của Tổng Thống Al-
Bassad ở Syria đã ngoan cố không chịu từ bỏ quyền hành, đàn áp đẫm máu các cuộc
nổi dậy của nhân dân với cường độ mức độ tàn bạo gia tăng theo thời gian hơn
một năm qua. Tổng thống chế độ độc tài Al- Bassad sở dĩ ngoan cố dám chống lại
nhân dân, là vì biết rằng vẫn chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng với phe
quần chúng nổi dậy, lại được sự hổ trợ của hai cựu cường quốc cộng sản hàng đầu
là Nga và Tầu cộng. Trong khi Al- Bassad cũng biết rằng sẽ không có sự can
thiệp trực tiếp bằng quân sự từ bên ngoài theo kiểu Hoa Kỳ và khối NATO dưới ngọn cơ Liên Hiệp
Quốc đã làm tại Lybia khoảng nửa năm trước, nên lực lượng quần chúng nổi dậy ở
Syria khó thành công đượcbằng sức mạnh quân sự như lực lượng quần chúng nổi dậy
ở Lybia là đã lật đổ được chế độ của nhà độc tài Mumamar Ghaddafi.
Sự thể này cũng đã có ảnh hưởng gián tiếp ít nhiều đến sự toán tính của Việt
cộng trong việc đối phó với các lực
lượng chính trị cũng như quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân
sinh và nhân quyền trong nước. Việt cộng toan tình rằng, cũng như tại các nước
độc tài Trung cân đông và Bắc Phi, nếu không có sự hổ trợ bằng sự can thiệp
trực tiếp, triệt để của bên ngoài, Cộng đảng Việt Nam vẫn dựa vào ưu thế nắm
vững được nền “Độc tài chuyên chính tư
sản Đỏ” (Đỏ vỏ xanh
lòng)”, nên chưa vội gì mà chấp nhận nền “Dân chủ,đa nguyên đa đảng”
(tư bản chủ nghĩa).
Tuy nhiên, Việt cộng cũng có ít nhiều nao núng và dường như
trên nguyên tắc đã có sự thống nhất về “chiều hướng mới không thể đảo ngược” (theo chiến lược toàn cầu mới:chế độ độc
tài các kiểu sớm muộn cũng phải tiêu vong, để hình thành các chế độ dân chủ,đa
nguyên đa đảng tại các nước toàn cầu). Thực
tại chỉ còn sự bất đồng giữa phe “bảo
thủ” (theo Tầu cộng) và phe “Cấp
tiến” (Theo Mỹ quốc) về thời điểm
nào được coi là thích hợp để kết thúc quá trình chuyển đổi đã tịnh tiến tự
nhiều năm qua.
Vì vậy ngoài yếu tố kết hợp trong và
ngoài nước, áp lực Hoa Kỳ và quốc tế cũng là nhân tố quan trọng có tính quyết định, hậu thuẫn
phe cấp tiến, đẩy chế độ độc tài độc đảng Việt cộng phải kết thúc tiến trình
chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng nhanh chóng hơn.
3.-
Một yếu tố có tính quyết định
khác cho sự kết thúc tiến trình chuyển đổi của chế độ Việt cộng qua dân chủ đa
đảng, là tốc độ chuyển biến của Tầu cộng theo hướng dân chủ đa nguyên đa đảng
trong “Môi
trường mật ngọt kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”.
Nếu Tầu cộng tăng tốc, thì phe bảo thủ Việt
cộng cũng tăng tốc. Tầu cộng kết thúc quả trình chuyển đổi sớm thì Việt cộng
cũng sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sớm. Vì ai cũng thấy Việt cộng đã học và
làm theo sách “chuyển đổi câu giờ” của
Tầu cộng, cố bám giữ quyền lực độc quyền, độc tôn để kéo dài thêm thời gian thụ
hưởng các ưu quyền đặc lợi có được và chỉ có được cho tập đoàn thống trị độc
quyền (Cộng đảng VN) trong khung cảnh
một chế độ độc tài đảng trị hay độc tài toàn trị kiểu cộng sản mà thôi.
Chính vì vậy đã có nhiều người khi thấy
gần đây có một vài dấu hiệu Tầu cộng tăng tốc
về phía dân chủ, thì vội lạc quan
Việt cộng cũng sẽ tăng tốc theo và sớm đi đến kết thúc quá trình chuyển
đổi qua chế độ dân chủ đa đảng tại Việt Nam một cách hòa bình, êm dịu.Chúng tôi
cũng cảm thấy lạc quan một cách dè dặt. Chúng ta tiếp tục chờ xem diễn biến
tiếp theo tình hình thực tế, với ước mong niềm lạc quan của chúng ta sớm biến
thành sự thật trên đất nước chúng ta. Vì đó là ước vọng chung của trên 90 triệu
nhân dân trong nước và khoảng 4 triệu con dân Nước Việt ở hải ngoại luôn hướng
lòng về Tổ Quốc. Vì đó là mục tiêu tối hậu mà nhân dân trong nước và người Việt
hải ngoại đã kiên trì hy sinh đấu tranh trong nhiều thập niên qua.
4.-Nếu Việt cộng chủ động làm thì phải có những dấu hiệu chứng tỏ thực
tâm bằng các hành động cụ thể thực tế tương tự như chế độ độc tài quân phiệt
Miến Điện đã và đang làm.
Tỷ như Việt cộng song song với việc
sửa đổi Hiến pháp, luật pháp theo hướng dân chủ, đa đảng, Việt cộng sẽ phải có
hành động cụ thể thực tế như: Thả hết các thù nhân chính trị đang bị cầm tù,
chấm dứt mọi hành động theo dõi, trấn áp các nhà bất đồng chính kiến, tìm cách
đối thoại với họ và để cho mọi cá nhân công dân cũng như các chính đảng bao lâu
nay bị coi là hoạt động bất hợp pháp, thì cần tiến tới hợp pháp hóa tạo điều
kiện cho các cá nhân và chính đảng này hoạt động công khai, hợp pháp, có thời
gian chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào các cơ quan dân cử các cấp trong tương
lai…
Chúng ta cần chờ thêm thời gian để hội
đủ các điều kiện cần và đủ, về chủ quan (Việt cộng) và khách quan (Các lực lượng và quần chúng chống cộng trong
nước cũng như hải ngoại và quốc tế)
để cách chuyển đổi giả định “chế độ độc tài,độc đảng” Việt cộng qua “Dân chủ đa đảng”
sớm trở thành sự thật tại Việt Nam.
III/-CHUYỂN BIẾN CÁC KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ
TRONG ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG.
Trong giả
định chế độ dân chủ đa nguyên hình thành, các khuynh hướng chính trị sẽ tìm
cách nắm quyền thông qua các cuộc bầu cử tự do. Khuynh hương chính trị nào được
đa số cử tri tín nhiệm sẽ chiếm đa số trong các cơ quan dân cử. Nghĩa là chính
lá phiếu của cử tri sẽ quyết định vị trí, vai trò của các khuynh hướng chính
trị trong guồng máy công quyền quốc gia. Để thích dụng, hai khuynh hướng chính
trị quốc gia và cộng sản sẽ chuyển biến ra sao?
Như chúng tôi đã trình bầy trong cuốn tài
liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam
Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” (ấn hành lần đầu năm 1995 và tái bản năm 2005) thì nội bộ Việt cộng
cũng như Việt quốc sẽ biến chuyển như sau:
1.- Về phía Việt cộng.
Theo nhận định của chúng tôi thì sau khi Liên
Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu sụp đổ, nội bộ Cộng đảng Việt Nam tồn
tại 3 khuynh hướng:
- Bảo thủ: bảo vệ chế độ nhất nguyên Xã Hội Chủ Nghĩa đến cùng,
cũng có nghĩa là bảo vệ quyền thống trị độc tôn, độc tài cho đảng Cộng sản Việt
Nam để tiếp tực duy trì các ưu quyền đặc lợi cho giai cấp thồng trị là các cán
bộ đảng viên cộng sản.
- Cấp tiến trung dung: chấp nhận chuyển đổi qua dân chủ đa nguyên một cách
chủ động theo nhịp độ và tốc độ phù hợp
với diễn biến tình hình quốc nội và quốc tế (mềm nắn, rằn buông) để kéo dài tuổi thọ thêm ngày nào tôt ngày ấy,
bảo đảm được quyền lợi và an toàn pháp lý, chính trị và thực tiễn cho Đảng cầm
quyền và cho các đảng viên cộng sản.Nói đơn giản bình dân là “chuyển đổi câu giờ” và tìm cách “hạ cánh an toàn” vào thời điểm thích
hợp chẳng đặng đừng không còn níu kéo được nữa. Khuynh hướng cấp tiến trung
dung này luôn biểu tỏ cho người ta ngầm hiểu rằng họ cũng biết “chiều hướng mới không thể đảo ngược”(thị trường tự do và dân chủ hóa toàn cầu), phải chuyển đổi, nhưng cần có thời
gian đễ sự chuyển đổi diễn ra một cách hòa bình, tránh xáo trộn, xung đột gây
bất ổn chính trị, xã hội có hại cho Đất nước (thực ra là có hại cho tập đoàn thống trị Cộng đảng Việt Nam…)
- Cấp tiến triệt để: Cần hủy bỏ ngay chế độ nhất nguyên xã hội chủ nghĩa
chuyển đổi ngay qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng theo gương Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu.
Trong
ba khuynh hướng chính trị trên đây, vào thời điểm này, khuynh hướng bảo
thủ đã tiêu vong, vì biết rằng nhất nguyên XHCN không thể và không bao giờ còn thực
hiện được; và chiều hướng mới không thể đảo ngược nên đành chấp nhận sát nhập
vào khynh hướng cấp tiến trung dung, mặc dầu bề ngoài vẫn “nhất trí” treo bảng
hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (theo
kiểu gian thương treo đầu dê bán thịt chó),vẫn thể hiện quyết tâm xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa bằng con đường làm ăn “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (dù biết rằng con đường này thực tế tất yếu dẫn đến tư
bản chủ nghĩa với chê độ dân chủ đa nguyên là tất nhiên). Còn
khuynh hướng “Cấp tiến triệt để” thì đã bị hai khuynh hướng kia loại ra khỏi
quyền lực từ lâu, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, với một Trần Xuân Bách, Ủy Viên
Bộ Chính Trị, dự bị Tổng Bí Thư Cộng
Đảng Việt Nam thay Nguyễn Văn Linh, song đã bị triệt hạ vì đã muốn trở thành
một Mikhail Gorbachev của Việt Nam, khi đưa ra quá sớm chủ trương “Đổi mới kinh tế
song song với đổi mới chính trị” trái ngược với chủ trương “Chỉ đổi mới kinh
tế không đổi mới chính trị” của hai
khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung trong Cộng Đảng Việt Nam. Tuy không
nắm được quyền lực, là thiểu số nhưng khuynh hướng cấp tiến triệt để hiện nay
vẫn còn tồn tại dấu mặt trong Cộng Đảng Việt Nam để chờ thời cơ đến.
Nêu trong giả định ngay bây giờ Việt cộng
chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng cấp tiến trung dung sẽ đóng vai trò
trung tâm có thể thu hút trở lại khuynh hướng cấp tiến triệt để, tạo thành một
khuynh hướng mạnh. Để phù hớp với khung cảnh chính trị đa nguyên, đa đảng, khuynh
hướng này bề ngoài có thể vẫn giữ nguyên tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay đổi
thành “Tân
Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay phù hợp thực tế (khung cảnh chế độ dân chủ đa nguyên) và thực chất một đảng nặng
tính xã hội, song biết tôn trọng dân chủ (không
còn độc tài, độc tôn như trong chế độ nhất nguyên XHCN trước đây) thì có
thể đổi tên “Đảng
Cộng Sản Việt Nam” thành “Đảng Xã Hội Dân Chủ Việt Nam” hay một tên nào
khác thích hợp hơn, để đưa người ra tranh
cử vào các chức vụ dân cử các cấp từ trung ương đến địa phương.
2.- Về phía Việt Quốc.
Bây giờ nhận định về các khuynh hướng
chính trị của các lực lượng Việt quốc trong cũng như ngoài nước bao lâu nay
chống chế độ độc tài dộc đảng “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”, để xem trong giả
định cộng sản chấp nhận đa nguyên, đa đảng, các khuynh hướng này sẽ chuyển biến
ra sao?
Nếu so sánh với các khuynh hướng trong
đảng Cộng Sản Việt Nam
đương quyền, người ta cũng thấy dường như cũng có sự tương đồng tính chất với
ba khuynh hướng: Bảo thủ, cấp tiến trung dung và cấp tiến triệt để.
-
Bảo thủ: Bảo
vệ chính nghĩa quốc gia đến cùng, không nhân nhượng, không hòa giải hòa hợp hay
liên hiệp với Việt cộng, đấu tranh một mất, một còn cho đến ngày toàn thắng.
-
Cấp tiến trung dung: Vừa đấu tranh vừa kêu gọi Việt cộng phản tỉnh quay về với cội nguồn
dân tộc để cùng nhau thiết lập một chế độ tự do dân chủ, một đất nước phát
triển toàn diện đến giầu mạnh. Do đó, chỉ cần người cộng sản Việt Nam
“phản tỉnh”, có hành động thiện chí, khả tín, thì sẵn sàng, đối thoại để hóa
giải mọi mâu thuẫn về lãnh đạo dân tộc từ qua khứ đến hiện tại, tiến tới hòa
giải dân tộc thực sự.
Đây là nỗ lực chung từ hai phía
để thực hiện “Hòa
giải và hòa hợp dân tộc chủ động hai chiếu”; Nó hoàn toàn khác với
chủ trương “Hòa giải và hòa hợp dân tộc” bao lâu nay của
Việt cộng “Hòa
giải và hòa hợp dân tộc một chiều”. Nghĩa là “Không có sự hòa giải” (là
giải quyết những mâu thuẫn một cách hòa bình) mà chỉ có hòa hợp với Việt
cộng (là hợp tác với Việt cộng vô điều kiện) để cùng thực hiện mục tiêu
riêng của Việt cộng là xây dựng, củng cố chế độ độc tài đảng trị “Nhất nguyên Xã Hội
Chủ Nghĩa” tại Việt Nam mà thôi.
3.-
Cấp tiến triệt để: Vì nóng lòng muốn có một chế độ dân chủ đa nguyên cho
đất nước, lại mặc cảm trước ưu thế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đương
quyền, nên đã, đang và lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng chủ trương “Hòa giải và Hòa
hợp dân tộc một chiều” của Việt cộng. Trên thực tế, khuynh hướng cấp
tiến triệt để này đôi khi đã có những hành động nóng vội đáp ứng những lời kêu
gọi mơ hồ của Việt cộng, rằng “hãy xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, hòa giải
và hòa hợp dân tộc, cùng nhau hướng về tương lai xây dựng và phát triển đất nước” dù vẫn trong
khung cảnh chế độc độc tài, độc đảng tại Việt Nam.
Trong ba khuynh hướng trên,từ lâu hai
khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung tuy bất đồng nhưng vẫn ở thế liên
kết đấu tranh. Trong khi khuynh hướng cấp tiến triệt để thì bị cô lập, thúc thủ
chờ cơ hội Việt cộng đưa ra những lời mời chào mới để đáp ứng vô điều kiện, có
tính chụp giật thời cơ cầu may. Tuy nhiên, khách quan mà nói, cả ba khuynh hướng trên đếu có chung lập
trường quốc gia, dân tộc, dân chủ và mục tiêu đấu tranh chung: dân chủ hóa và
phát triển toàn diện đất nước, có khác chăng là phương cách thành đạt mục tiêu
chung này. Nhưng cũng chính sự khác biệt phương cách, đã dẫn đến sự
phân hóa nội bộ các lực lược quốc gia, dân tộc dân chủ, dẫn đến với những xung
đột triền miên, làm suy yếu nội lực Việt quốc.
Bây giờ trong giả định nếu Cộng sản Việt Nam chấp nhận đa
nguyên đa đảng, các khuynh hướng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ chuyển biến ra
sao?
Vẫn theo nhận định của chúng tôi, khuynh
hướng quốc gia dân tộc dân chủ cấp tiên trung dung sẽ là khuynh hướng trung
tâm, có sức thu hút không những hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến triệt để,
mà trong chừng mực nào đó còn lôi kéo được những người cộng sản “phản tỉnh” quay về với khuynh hướng
dân tộc. Vì thành phần này sau khi “phản
tỉnh” đều có chung lợi ích dân tộc với Việt quốc và đều có động lực chung
là lòng ái quốc. Nếu các khuynh hướng này kết hợp chặt chẽ được với nhau thì sẽ
trở thành một trung tâm quyền lực thứ hai (quốc
gia, dân tộc, dân chủ, xã hội) trên chính trường dân chủ đa nguyên Việt
Nam, không mạnh hơn thì ít ra cũng nghiêng ngửa với trung tâm quyền lực chính
trị thứ nất (Việt cộng biến chất thành xã
hội dân chủ). Với thế lực này , trung tâm quyền lực “quốc gia, dân tộc, dân chủ, xã
hội” sẽ có cơ hội đánh bại trung
tâm quyền lực “Việt cộng xã hội dân
chủ”. Hay ít ra cũng tạo được thế
đối lập mạnh, có thể quân bình được cán cân quyền lực trong nền chính trị dân
chủ đa nguyên hậu cộng sản.
Tuy nhiên, thế liên kết trên đây, trên
thực tế vẫn chỉ là một ước muốn của các
lực lượng quốc gia, dân tộc dân chủ.
Vì thực tế trước 30-4-1975, mặc dầu các
khuynh hướng chính trị trong chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền
Nam Việt Nam, đều đứng chung trên lập trường quốc gia, dân tốc, dân chủ, cùng
có mục tiêu chung là chống cộng vì lý tưởng tự do dân chủ, cùng chiến đấu bào
vệ chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng,song thực sự đã không liên kết được
với nhau để cuối cùng mất Miền Nam vào tay Cộng sản Bắc Việt. Sau đó, cuộc đấu
tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Đất nước kéo dài 37 năm qua, liên kết các lực
lược Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một tổ chức thống nhất từ trong nước ra hải
ngoại để cùng đấu tranh theo một sách lược chung hữu hiệu vẫn còn là một ước
muốn của các chính đảng, các tổ chức đấu tranh và quần chúng chống cộng vì tự
do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam.
Vậy thì, nếu ngay lúc này, Việt cộng
chấp nhận dân chủ đa nguyên đa đảng, thực tế chắc chắn vẫn còn khác với ý muốn
chung.Các khuynh hướng chính trị quốc gia dân tộc dân chủ sẽ không liên kết kịp
hay nếu liên kết được vẫn còn còn lỏng
lẻo, chưa đủ thực lực để chiếm được đa số áp đảo trong các cơ quan dân cử từ
đia phương đến trung ương, so với đối thủ Việt cộng (Đảng Cộng sản Việt Nam biến chất).
Bởi vì, mặc dầu có chung lập trường,
mục tiêu và lý tưởng đấu tranh, song vì
những khác biệt, bất đồng về quan điểm và phương thức đấu tranh; nhất là vì lợi
ích cá nhân, cục bộ, bè phái, các chính đảng, doàn thể quần chúng đấu tranh có
thể sẽ giữ thế độc lập và biệt lập khi đưa người ra tranh cử. Hệ quả ai cũng
thấy được là phía các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ sẽ rơi vào tình trạng “lạm phát ứng cử viên”, phiếu cử tri
ủng hộ bị phân tán mỏng. Trong khi phía lực lượng xã hội dân chủ (Đảng Cộng sản biến chất hay đảng xã hội dân
chủ) vốn có ưu thế đã cầm quyền trong một thời gian lâu dài, lại là một
đảng có tính kỷ luật cao, có kinh nghiệm đấu tranh, tuyên truyền lôi kéo quần
chúng, nhất là vị lợi ích sống còn của một tập thể đảng viên đông đảo, họ sẽ có
chiến lược và chiến thuật tranh cử thích
hợp, hữu hiệu, với số ứng cử viên tương xứng trong các đơn vị bầu cử để có đa
số phiếu bầu thắng cử vào các cơ quan dân cử các cấp.
Như vậy, vì không liên kết hay liên kết lỏng
lẻo, cả chiều rộng lẫn chiều sâu, các ứng viên thuộc các lực lượng quốc gia dân
tộc dân chủ dễ bị đánh bại trong các đơn vị bầu cử các cấp. Liên kết chiều rộng
là qui tụ được hầu hết các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một chiến
lược tranh cử chung, vẫn giữ độc lập về tổ chức song không biệt lập trong các
hoạt động tranh cử. Liên kết chiều sâu là thống nhất trong một bộ tham mưu chỉ
đạo thực hiện chiến thuật tranh cử, phân công, phân nhiệm thực hiện mục tiêu và
lý tưởng chung (Đấu tranh chính trị,
tranh thủ nhân tâm, đấu tranh nghị trường để bảo vệ quan điểm chính trị, thuyết
phục được quần chúng cử tri…).
Vì thiếu liên kết chiều rộng, nên mạnh
đảng phái, tổ chức chính trị, tôn giáo nào cũng đưa người ra tranh cử và cá
nhân mạnh ai nấy ra ứng cử, phiếu bầu bị phân tán và ứng viên sẽ thất cử. Nếu
thiếu liên kết chiều sâu, sẽ không tạo được sự tin tưởng lẫn nhau,không tranh
thủ và tập hợp được quần chúng ủng hộ khuynh hướng chính trị của mình. Các lực
lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ mất cơ hội nắm quyền thông qua lá phiếu cử
tri bằng phương thức dân chủ.
IV/- KẾT LUẬN:
Dầu muốn dầu không nền dân chủ
đa nguyên đa đảng sớm muộn cũng sẽ phải hình thành tại Việt Nam. Bây giờ là một giả định, tương
lai sẽ là một thực tại.
Với hiện trạng các lực lượng Quốc gia
Dân tộc Dân chủ trong và ngoài nước hiện nay, nếu giả định ngay bây giờ Việt
cộng chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng xã hội dân chủ (cộng sản phản tỉnh) vẫn có nhiều cơ hội
chiếm đa số trong các cơ quan dân cử từ trung ương đến các địa phương. Và vẫn
sẽ là lực lượng lãnh đạo guồng máy công quyền quốc gia trong chế độ dân chủ đa
nguyên.
Hơn ai hết, thiết tưởng những người
lãnh đạo các chính đảng, các tổ chức chính trị cũng như cá nhân có khuynh hướng
Quốc gia Dân tộc Dân chủ, là những người từ lâu đã nhìn thấy vấn đề: Liên kết
là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho mọi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh
chung. Hiển nhiên Quý vị đã biết phải làm gì và cần làm gì để giành thắng lợi
trên chính trường và nghị trường, một khi giả định “Nếu Việt cộng chấp nhận dân chủ đa nguyên đa
đảng” trở thành sự thật. Một sự thật sớm muộn sẽ xẩy ra, chỉ còn là
vấn đề thời gian. Vì đó đã là một tất yếu, một chiều hướng mới không thể đảo
ngược “kinh tế thị trường tự do và chính trị dân chủ hóa toàn cầu”.
Thiện Ý
Viết lần đầu năm 1997 đã đăng
tải trên Việt Báo ở Houston.
Viết lại tháng 11- 2012.