Wednesday, September 21, 2011

Vì sao Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bị "đánh" như "đòn thù"?

Những vấn đề của chúng ta:
VÌ SAO LINH MỤC NGUYỄN HỮU LỄ, MỘT NGƯỜI CÓ THÀNH TÍCH CHỐNG CỘNG VANG DỘI LẠI BỊ “ÐÁNH” NHƯ “ÐÒN THÙ? AI ÐÁNH, NHẰM LỢI ÍCH GÌ?

Thiện Ý

         Như nhiều ngươì đã biết, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ một cựu tù cải tạo của chế độ Việt cộng, sau khi ra hải ngoại đã lập được hai thành tích chống cộng vang dội:Một là phát động “phong trào đấu tranh đòi trả lại tên Thành phố Sài gòn” đã bị đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh sau khi Việt cộng cưỡng đoạt Miền Nam năm 1975. Hai là thực hiên bộ phim tài liệu “Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh” đã mê hoặc nhiều người.
         Thế nhưng vì sao trong nhiều ngày qua đã rộ lên những bài viết với nội dung, ngôn từ phê phán, kết tội nặng nề Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, mà từ ngữ bình dân tượng hình gọi là “đánh” Linh mục Nguyễn Hữu Lễ như “đòn thù”?- Một số bài viết có nội dung theo chiếu hướng ngược lại muốn bênh vực Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thì cũng bị “đánh lây”.
        Bài viết này chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn khách quan và công bình hơn đối với Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, để quần chúng chống cộng không nản lòng, mất niềm tin nơi các cá nhân tích cực trong hàng ngũ những người lãnh đạo chống cộng; nhất là không để “Ðặc tình truyền thông Việt cộng” lợi dụng khai thác nhằm ly gián và làm suy yếu các lực lượng chống cộng ở hải ngoại.
       Chúng tôi sẽ lần lượt trình bầy:
I/- Vì sao Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, một người có thành tích chống cộng vang dội lại bị đánh như “ đòn thù”?
II/- Ai đánh và đã đánh Linh mục Nguyễn Hữu Lễ như “Ðòn thù”, để thành đạt ý đồ hay lợi ích gì?
III/- Kết luận.

I/- VÌ SAO LINH MỤC NGUYỄN HỮU LỄ, MỘT NGƯỜI CÓ THÀNH TÍCH CHỐNG CỘNG VANG DỘI, LẠI BỊ “ÐÁNH” NHƯ “ÐÒN THÙ” ?
      1.-Sơ lược nội vụ:
         Như mọi người đã biết, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, sau  30-4-1975, đã bị đầy ải nhiều năm trong các trại tù “cải tạo” của Việt cộng. Trong một cuộc vượt ngục cùng một số đồng tù khác bất thành, bị Việt cộng bắt lại, trừng phạt cùm kẹp, biệt giam, bỏ đói khát, bị đối xử tàn tệ.
         Bùi Ðình Thi, một cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà đồng tù, được Việt cộng tuyển chọn làm trật tự trại giam, được xử dụng như công cụ thực hiện các biện pháp trừng phạt tàn bạo đối với Linh mục Lễ và các đồng tù vượt ngục khác bị bắt lại, trong đó có cựu Thiếu tá hải quân Đặng Văn Tiếp, cựu Dân biểu Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) đã chết vì vượt quá sức chịu đựng. Mặc dầu chỉ là công cụ thừa sai, thực hiện chủ trương “dùng tù trị tù” của Việt cộng, song Bùi Ðình Thi vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân về pháp lý cũng như trước lương tâm con người do các hành vi hành hạ tàn ác những đồng tù, từng một thời là chiến hữu của mình, để lập công thủ lợi.
      Sau khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ và cựu tù Bùi Ðình Thi được ra nước ngoài theo diện HO, Linh mục Lễ đã từ Tân Tây Lan qua Nam California Hoa Kỳ, gặp lại Bùi Ðình Thi và gia đình ở Nam California(1996), để nói lời tha thứ thể hiện đúng bản chất của một Linh mục Công Giáo có trách nhiệm rao giảng  Lời Chúa và thực hiện giới răn quan trọng nhất “Kính thờ Thiên Chúa và yêu thương anh em (kể cả kẻ thù) như chính mình”. Nghĩa là Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã bỏ qua lời thề tâm nguyện lúc còn ở trong tù, khi bị Bùi Ðình Thi đánh đập, đối xử tàn tệ, đã được Ông ghi lại trong cuốn Hồi Ký “Tôi phải Sống”, đại ý rằng sau khi ra tù, dù Bùi Ðình Thi ở đâu, Ông cũng tìm gặp cho bằng được để báo thù, thể hiện phản ứng tự nhiên của con người bình thường, có  khác với con người “Linh mục”.
      Thế nhưng, sau khi đã tìm gặp không phải để báo thù mà nói lời tha thứ với Bùi Ðình Thi, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ sau đó đã viết bài “Một vấn đề thuộc lương tâm” rồi xuất bản và phổ biến rộng rãi cuốn hồi ký “Tôi phải sống” ấn hành năm 2001 . Mục đích có lẽ, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chỉ muốn tố cáo chế độ nhà tù tàn bạo của Việt cộng, trong đó tất nhiên Ông phải nhắc lại sự việc một đồng tù Bùi Ðình Thi, được Việt cộng tin dùng làm Trật Tự trại giam, đã đối xử tàn tệ với Ông và những người đồng tù khác như thế nào (trong khoảng từ năm 1978 đến năm 1981 ở Trại tù Thanh Cầm), để làm  một điển hình cho chính sách đối xử tàn bạo trong các nhà tù cải tạo Việt cộng. Chính bài viết và cuốn hồi ký này đã gây phẫn nộ cho ngươì đọc, trong đó có Tiến sĩ Nguyễn Ðình Thắng, một nhà hoạt động chính trị, xã hội nổi tiếng đã bất bình đưa vụ việc Bùi Ðình Thi ra trước Toà án Di Trú Hoa Kỳ vào năm 2003. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong những nạn nhân được gọi ra làm nhân chứng trước Toà. Tất nhiên, Linh mục Lễ cũng như các nhân chứng khác, đều đã phải tuyên thệ nói đúng sự thật về các hành vi tội ác của Bùi Ðình Thi đối với các bạn đồng tù như Ông đã viết. Kết quả sau cùng Toà Di Trú Hoa Kỳ đã xác định các hành vi trong thời gian ở tù “cải tạo” của Bùi Ðình Thi đã hội đủ yếu tố cấu thành tội theo Luật Di Trú Hoa Kỳ phải bị trục xuất về Việt Nam vào cuối tháng 4, năm 2004. Việt cộng lúc đó không nhận,vì chưa có hiệp định giữa hai nước về vấn đề này (ký kết sau này vào ngày 22 tháng 1 năm 2008, và có hiệu lực 60 ngày sau), Bùi Ðình Thi đã bị trục xuất tới một quốc gia đệ tam chịu nhận (Nước Cộng Hòa Quần Ðảo Marshall - Republic of the Marshall Islands).
         Mới đây, sau khi báo Người Việt ở Nam California có bài viết về vụ án Bùi Ðình Thi 7 năm trước, đã là nguyên  nhân đưa đến những bài viết theo chiều hướng phê phán nặng nề, kết tội Linh mục Nguyễn Hữu Lễ và có ý cảm thông, bênh vực Bùi Ðình Thi, một kẻ đã bị Toà Án Di Trú Hoa Kỳ kết tội và bị trục xuất vì các hành động đối xử tàn ác đối với các đồng tù. (Xin coi chi tiết bài viết của Báo Người Việt gửi kèm)
    2.- Vì sao Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bị “đánh” như “đòn thù”?
        Thật ra, việc phê phán, chỉ trích một nhân vật nổi tiếng như Linh mục nguyễn Hữu Lễ (một khuôn mặt của công chúng- public figures) là bình thường, thể hiện quyền tự do tư tưởng và ngôn luận của công dân trong một chế độ dân chủ pháp trị.
        Tuy nhiên, việc phê phán chỉ trích một cá nhân trước hết cần xuất phát từ thiện ý, có tính xây dựng nhằm thành đạt lợi ích cho chính người bị chỉ trích, phê bình hay lợi ích lý tưởng chung cho con người, xã hội, dân tộc, đất nước hay tôn giáo. Việc phê bình chỉ trích phải căn cứ trên sự thật, không xuyên tạc, vu khống và cần xử dụng bút pháp nghiêm túc, ngôn ngữ có văn hoá, không dùng thậm từ để lăng nhục xúc phạm nặng nề đến nhân cách (linh mục trong trường hợp này…) và nhân phẩm con người nói chung.
       Nhận định khách quan, hầu hết (không phải là tất cả) những bài viết phê bình chỉ trích Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phổ biến rộng rãi trên mạng internet đã không hội đủ diều kiện cần và đủ của một bài phê bình chỉ trích nghiêm túc, đã trở thành những bài viết “đánh” Linh mục Lễ và đánh như “đòn thù” (đánh như để trả thù, do và vì một ý đồ, lợi ích nào đó).
      Thực ra, điều người ta có thể phê bình chỉ trích Linh mục Nguyễn Hữu Lễ một cách nghiêm túc là các hành vi ứng xử đã không thể hiện được nhân cách và bản chất của một Linh mục Công giáo. Vì một khi đã từ Tân Tây Lan qua gặp Bùi Ðinh Thi và vợ con anh ta để nói lời tha thứ, Linh mục Lễ đúng ra không nên có những hành động tiếp theo sau đó là viết báo, viết sách hồi ký, trong đó tất nhiên không tránh khỏi việc phải kể lại những sự kiện và hành động đối xử tàn tệ của Bùi Ðình Thi với cá nhân Linh mục Lễ và các đồng tù khác; và như thế là gián tiếp tố cáo tội lỗi của Bùi Ðình Thi (mà Linh mục Lễ đã tha thứ) trước công luận, khiến Tiến sĩ Nguyễn Ðình Thắng bất bình đã đưa vụ việc ra Toà án Di Trú Hoa Kỳ. Hậu quả là Bùi Ðình Thi bị trục xuất, phá vỡ cuộc sống đoàn tụ, hạnh phúc của một gia đình (dù đó là hậu quả của chính các hành vi tội ác của đương sự, song đã được Lm. Lễ tha thứ)
     Cách hành xử của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chúng tôi cho rằng “không phải là tội” về mặt pháp lý, mà “chỉ là cái lỗi” về mặt đạo đức và tôn giáo (lỗi đức bác ái, yêu thương, tha thứ). Sự thể này đặt Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ trước một vấn đề lương tâm và tu đức (đạo đức của một nhà tu) của một Linh mục Công Giáo. Rằng nếu khi gặp lại vào năm 1996, Linh mục Lễ ngoài việc nói lời tha thứ, còn ban phép cáo giải cho các hành vi tàn ác của Bùi Đình Thi đã làm trong thời gian làm trật tự trong tù,Linh mục Lễ có thể đã vi phạm thêm “Bí tích giải tội” khi đem tội lỗi Bùi Đinh Thi đã xưng công bố trong bài viết và cuốn sách của mình.
      Tất nhiên,vấn đề này sẽ không được đặt ra, nếu Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là một người bình thường, khi bị một kẻ khác đối xử tàn tệ như thế, sẽ căm thù và nuôi ý định trả thù là lẽ thường. Nhưng Linh mục Công Giáo phải khác ngươì thường, dù trong thân phận con ngươì, cũng có những phút yếu lòng không kềm hãm được lòng căm thù và nuôi ý định trả thù, hay sa ngã phạm tội như ngườì thường, nhưng Linh mục phải hơn người thường, hơn giáo dân ở ý chí và nỗ lực tự chủ, tự giác, tự hành, tự cải hoá để hướng thượng theo hướng toàn thiện, toàn bích như Thiên Chúa theo niềm tin tôn giáo.
      Người ta không hiểu và đã trách cứ rằng trước khi viết bài trên báo và phổ biến Hồi Ký “Tôi phải sống” Linh mục Nguyễn Hữu lễ có đắn đo suy nghĩ, đo lường hậu quả, để chọn lựa giữa “lợi ích trần thế”“lợi ích siêu nhiên”?
       Lợi ích trần thế, chẳng hạn như là sự nổi danh, kiếm được nhiều tiền bán sách, dù tiền ấy không dùng cho cá nhân mà để có phương tiện hoạt động chống cộng sau này như Linh mục Lễ nói và đã làm là lập Quỹ yểm trợ cho “Phong Trào Ðòi Trả Lại Tên Sàigòn” và thực hiện bộ phim “Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh”. Phải chăng những hoạt đồng này ngoài lợi ích chống cộng, Linh mục Lễ cũng là muốn được nổi danh? Nếu không, thiết tưởng Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có thể hành động khác hơn mà vẫn đạt được lợi ích chống cộng, lại không bị “đánh như đòn thù” như hiện nay (chúng tôi sẽ đề cập thêm ở phần sau)
         Lợi ích siêu nhiên là một khi đã ban phép tha tội cho một người, cũng là tín đồ của mình, để cứu rỗi một linh hồn, làm đúng Thiên chức Linh mục của Chúa, thì không được phép công bố tội lỗi của họ cho người khác biết (Bí tích giải tội). Ðây là một lợi ích cao nhất mà Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn mưu cầu khi tự chọn con đường tận hiến cho Chúa để phục vụ, dẫn dắt  tha nhân đi vào Vinh Quang Nước Trời, dưới sự  cai quản chỉ đạo của Giáo Hội thay mặt Chúa nơi trần thế.
         Việc làm của Linh mục Lễ bị phê bình, chỉ trích, lên án gay gắt chính là vì đã đi ngược lại lợi ích siêu nhiên ban đầu đã chọn, không những là bội ước với Thiên Chúa mà còn vi phạm giáo luật “cấm các Linh mục làm chính trị”. Vì chính trị muôn mặt, là thủ đoạn là tranh danh, đoạt lợi ích trần thế, sẽ có kẻ thương, người ghét, thù hận. Linh mục của Chúa là tận hiến cả cuộc đời (áo đen tượng trưng cho ngươì đã chết cho tha nhân về mặt siêu nhiên) phục vụ tha nhân để được yêu thương tôn kính, cần tránh đừng làm điều gì làm cớ để bị xúc phạm (7 chức Thánh), không tạo ra kẻ thù và phải yêu thương mọi người kể cả kẻ thù.
      Linh mục Nguyễn Hữu Lễ khi đi diễn thuyết khắp nơi để phát động phong trào “Ðòi trả tên sàigòn”, Ngài thường nói “Trước khi là Linh Mục, Tôi đã là người Việt Nam” phải chăng như để biện minh cho hoạt động chống cộng của mình là chính đáng, là làm nhiệm vụ ưu tiên của một người Việt Nam yêu nước trước Thiên chức Linh mục? Chẳng thế mà  trong dịp Linh mục đến Houston làm cuộc ra mắt “Phong Trào đòi trả tên Sàigòn” có người hỏi:
-       Thưa Cha, khi Cha đi hoạt động đấu tranh chống cộng như thế này, xứ đạo của Cha ở Tân Tây Lan ai trông coi?”.
-       “Tôi đã xin phép giao lại cho Ðức Giám Mục giáo phận để hoạt động cho Phong Trào một thời gian” Linh mục Lễ trả lời.
        Thật ra câu nói “Tôi là ngươì Việt Nam trước khi là Linh mục” rất đúng về mặt con người, song thực tế đã gây phản ứng trái ngược.  Một số đông những người chống cộng nhiệt liệt tán đồng, tung hô, vì là một câu nói rất đúng, hợp luận lý thông thường của một người thường. Thế nhưng, câu nói này cũng đã làm không ít người Việt Nam tham dự cau mày suy tư, nhất là những người Việt Nam Công Giáo khi nhìn hình ảnh Cha Lễ áo đen cổ trắng hùng hồn diễn thuyết tố cáo Việt cộng gây kích động căm thù (dù Việt cộng quả đã gây nhiều thù hận rất đáng căm thù). Họ thấy như có gì mâu thuẫn giữa tính người và tính Linh mục trong một con người Nguyễn Hữu Lễ, làm khuôn mặt của một Linh mục Công giáo như bị méo mó. Họ nghĩ rằng, dù là người Việt Nam trước khi là Linh mục, nhưng một khi đã tự nguyện chọn và lãnh nhận “Bí tích truyền chức Thánh” để làm Linh mục, đã là một giao ước và là một hành vi kết ước tự do sau cùng có hiệu lực thi hành ưu tiên. Việc thi hành giao ước này thực ra cũng không ngăn cản, không trái với bổn phận của một công dân yêu nước đối với đất nước. Linh mục có quyền biểu lộ lòng yêu nước dưới nhiều hình thức thích hợp, đến mức độ vừa phải mà không vi phạm giao ước sống đời Linh mục và không trái với vai trò và bản chất chất thánh thiện, đầy lòng vị tha, bác ái của một Linh mục.
         Chẳng hạn, nếu như Linh mục Lễ vì lòng yêu nước, yêu chân lý, muốn góp phần đánh đổ một chế độ vô thần, độc tài tàn bạo, xây dưng một chế độ dân chủ hữu thần nhân ái, bằng việc tố cáo trước công luận quốc tế, người Việt hải ngoại cũng như trong nước về những sự thật của chế độ lao tù tàn ác của Việt cộng mà Ngài là một trong những nạn nhân, thay vì minh danh chính mình viết báo (Bài một vấn đề thuộc lương tâm…...) hay viết sách (Hồi ký “Tôi phải sống”), Linh mục Lễ có thể kể lại cho người khác nghe để viết lại sau này, tốt nhất là sau khi Bùi Ðình Thi qua đời mới công bố.(Vì những sự thật này nhiều ngươì đã biết, không có gì khẩn cấp phải nói ra ngay). Nếu làm như vậy,sẽ giúp Linh mục Lễ trọn vẹn đôi đàng, đã không vi phạm “phép tha tội” (nếu có giải tội cho Bùi Đình Thi một tín đồ), lỗi đức bác ái, không đánh mất bản chất Thiên chức Linh mục, không vi phạm lời hứa tha thứ, tránh được cảnh oán hận của một gia đình tín hữu vì bị phân ly, bị phá đổ hạnh phúc, có thể đã phá đổ cả niềm tin của họ và nhiều người… và không là cớ cho người đời lên án, xúc phạm, do hành động bất xứng của một Linh mục.
      Mặt khác, nếu Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chỉ làm nhiệm vụ của ngươì Việt Nam yêu nước qua các hoạt động diễn thuyết tố cáo tội ác thật sự trong chế độ lao tù Việt cộng như một nhân chứng, mà không thừa thắng xông lên, hình thành tổ chức, phát động và lãnh đạo “Phong Trào Ðòi Trả Tên Sàigòn”, Chủ động minh danh thực hiện bộ phim “Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh”…Theo thiển ý, Ngài đã không vi phạm giáo luật “Cấm các Linh mục làm chính trị”. Bởi vì Linh mục Lễ đã đi từ một “thái độ chính trị” (cần phải có, được phép làm của một người Việt Nam yêu nước trước khi là Linh mục) đối với tội ác, bất công của một xã hội, một  chế độ,song đã quá đà qua các hoạt động “làm chính trị” (Chủ động, công khai, có tổ chức hoạt động toàn thời gian, tạm ngưng thực hiện Thiên chức Linh mục coi sóc xứ đạo, dù có thời hạn). Chính sự quá đà này mà một số Linh mục Công Giáo đã vi phạm các điều khoản của Giáo luật “Cấm Linh mục  làm chính trị” (như một số Linh mục trong nước tích cực tham gia vào guồng máy công quyền của Việt cộng, cũng như một số linh mục chống cộng đã đứng ra thành lập tổ chức, chính đảng chống cộng…bê trễ, coi nhẹ nhiệm vụ chính yếu của một Linh mục chân chính).
       Tóm lại, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có thể thành đạt các mục đích chính trị từ tất cả các hoạt động trên mà không bị thương tổn, bị “đánh”  như “đòn thù”, nếu chọn cách hành động khác hơn, vừa làm tròn nhiệm vụ của một người Việt Nam chống cộng vì lòng yêu nước, vừa bảo tồn được bản chất, thanh danh vốn phải thể hiện của một Linh mục mà không vi phạm Giáo luật. Hành động khác hơn đó là:
-       Không viết báo, nếu muốn viết hồi ký nên kể lại cho người khác viết như tài liệu sống kể tội ác trong nhà tù Việt cộng (Như Linh mục Cao Văn Luận đã kể lại cho Cao Vi Hoàng viết hồi ký cho ông), nhưng chỉ công bố sau khi Bùi Ðình Thi (người được Linh mục tha tội) đã chết.
-       Việc tổ chức, “phát động Phong Trào Ðòi trả tên Sàigòn” và thực hiện bộ phim “Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh”, là việc làm hữu ích cho công cuộc chống cộng, song nên để ngươì khác lãnh đạo, tổ chức khác thực hiện, Linh muc Nguyễn Hữu Lễ chỉ nên đứng trong âm thầm, cố vấn ngầm , đưa sáng kiến cho người đời thực hiện
-       Linh mục Nguyễn Hữu Lễ có thể đi diễn thuyết khắp nơi nói lên các sự thật tàn bạo, vi phạm nhân quyền trong nhà tù và xã hội Việt cộng mà Ông là một trong những nạn nhân, những nhân chứng sống. Cũng như hiện nay, Linh mục Nguyễn Văn Khải mới từ Việt Nam đến hải ngoại, đã đi diễn thuyết nhiều nơi để nói lên sự thật và chỉ nói lên sự thật về những vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt cộng.
         Chúng tôi thiết tưởng, những việc làm này chỉ là một thái độ chính trị phải có của bất cứ ngươì Việt Nam yêu nước, yêu tự do, dân chủ, công bằng, có ý thức bảo vệ công lý và hoà bình, nhất là một Linh mục Công Giáo cần phải có,mà không vi phạm Giáo luật “Cấm các Linh mục làm chính trị”.
        Tuy nhiên, khác với ngươì đời, các Linh mục cần diễn thuyết với thái độ và ngôn từ thể hiện bản chất nhân ái vị tha của một Linh mục, tránh kích động căm thù, dù kẻ thù ấy là Việt cộng đáng bị căm thù với ngươì đời, nhưng Linh mục thì không thể, vì sẽ làm méo mó khuôn mặt đích thực của Linh mục.(Khuôn mặt đích thực của Linh mục thể hiện điển hình được nhiều ngươì biết đến và ca ngợi là Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, dù bị Việt cộng đầy ải nhiều năm, nhưng sau này ngươì ta không thấy Ngài có lời nói, bài viết hay hành động nào tỏ ra căm thù Việt cộng. Phải chăng đó là một trong những yếu tố thể hiện niềm tin để nên Thánh và Ngài đã được Giáo Hội mở hồ sơ phong Thánh khởi đầu bằng việc phong Chân Phước theo Giáo luật?).
      
II/-AI ÐÁNH VÀ ÐÃ “ÐÁNH NHƯ ĐÒN THÙ” LINH MỤC NGUYỄN HỮU LỄ ÐỂ THÀNH ÐẠT Ý ÐỒ HAY LỢI  ÍCH GÌ ?
      Như trên đã trình bầy, các hành vi của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ không cấu thành “tội” về mặt pháp lý, mà chỉ là  “lỗi” về mặt lương tâm đạo đức và tôn giáo. Đúng ra “lỗi” ấy, những người  muốn “bắt lỗi” chỉ cần nêu lên, phân tích, phê bình đúng sai, phải trái, bằng bút pháp nghiêm túc và ngôn từ có văn hóa như chúng tôi trình bầy ở trên.
       Thế nhưng thực tế đã có những bài viết kết tội Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bằng cả một bản “cáo trạng” đưa ra bên cạnh một cáo trạng đối với Bùi Đình Thi. Điều này thật là phi lý, bất công khi đồng hóa nạn nhân bị bạo hành (LM Lễ) với kẻ bạo hành thủ ác (Bùi Đình Thi). Lại dùng ngôn ngữ bình dân có tính miệt thị, mạ lỵ nặng nề, xúc phạm đến nhân phẩm con người và nhân cách của một nhà tu mà các hành động của ông không đáng phải bị đối xử như vậy. Những hành động của Linh mục Lễ thực ra đã không là lý cớ để bị nhiều người bất bình và bị những kẻ có chủ đích kết án, lăng nhục nặng nề, nếu Ngài không là Linh mục, chỉ là một con người Việt Nam bình thường và nếu Ngài không có những thành tích chống cộng vang dội. Bằng chứng là Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng là người đã đưa Bùi Đình Thi ra Tòa án Di Trú khiến y bị trục xuất song không bị “đánh” vì là người thường, còn  Lm. Nguyễn Hữu lễ chỉ được gọi ra làm nhân chứng trước Tòa thì bị “đánh” vì là Linh mục Công giáo.
    Một cách công bình hơn, những người bất bình, nếu muốn bầy tỏ sự bất bình ấy thì chỉ ở mức độ viết bài nhận xét phê bình nghiêm túc, với thiện ý xây dựng và bằng những ngôn từ có văn hóa.Nhưng thực tế đã có những bài viết của những kẻ có chủ đích nhằm thành đạt một ý đồ hay lợi ích nào đó, vượt trên tính chất của một bài nhận xét phê bình nghiêm túc với ngôn từ có tính nhục mạ để “đánh”  và đã “đánh đòn thù” đối với  Linh mục Nguyễn Hữu Lễ . Những kẻ này là ai, “đánh” Linh mục Lễ nhằm thành đạt ý đồ và lợi ích gì?- Bởi vì không ai tốn thời giờ, tim óc ngồi viết bài “đánh như đòn thù” Linh mục Nguyễn Hữu Lễ mà không có chủ đích nhằm đạt ý đồ hay lợi ích gì?
      -Những giáo dân Công Giáo ? - Chắc chắn trong trường hợp này sẽ “không đánh”, nêu có viết bài nhận xét, phê bình các việc làm của Linh Mục Lễ thì chỉ ở mức độ nghiêm túc, với các ngôn từ tỏ sự tôn kính. Phần đông, theo nhận định của chúng tôi, giáo dân nếu bất bình sẽ chọn lựa 3 cách ứng xử: Một là gặp trực tiếp Lm Lễ nếu có điều kiện tiếp xúc với Ngài hay viết thư gửi riêng đến Ngài để góp ý xây dựng . Hai là viết bài phổ biến công khai trên các phương tiện truyền thông với bút pháp nghiêm túc và ngôn từ có văn hóa để giữ sự tôn kính với vị chủ chăn, với mục đích góp ý xây dựng riêng với Lm Lễ và để các vị Linh mục khác biết mà rút kinh nghiệm chung. Ba là các tín hữu Công giáo sẽ giữ im lặng, âm thầm không đến tham dự các hoạt động chính trị của Lm Lễ.
    - Những tín đồ chân chính của các tôn giáo khác ?-  Chắc chắn những tín đồ chân chính của các tôn giáo khác,trong trường hợp này, nếu có bất bình cũng chỉ hành động như người Công giáo chân chính “phê bình nghiêm túc, với ngôn từ tỏ sự tôn kính”. Bởi vì, không có tôn giáo nào dậy họ “đánh một nhà tu” khác niềm tin với mình khi có bất đồng, theo kiểu “đòn thù” và thực sự họ cũng chẳng có thù oán  và lợi ích gì đến độ phải “đánh” Linh mục Lễ như “Đòn thù”. Họa chăng chỉ có những kẻ “vô thần đội lốt tôn giáo” làm nhiệm vụ “Đặc tình truyền thông Việt cộng” mới giám “đánh” Linh mục Nguyên Hữu Lễ và các nhà tu hành như “đòn thù”?
    - Thân nhân hay bạn bè của Bùi Đình Thi đã  viết bài “đánh Linh mục Nguyễn Hữu Lễ như “đòn thù”?- Rất có thể, vì muốn trả thù cho Bùi Đình Thi và gia đình, họ đã nhân cơ hội báo Người Việt nhắc lại vụ án khiến Bùi Đình Thi bị trục xuất 7 năm trước đây đề viết bài “đánh” Linh mục Lễ để báo thù. Vì họ cho rằng nguồn gốc khiến Bùi Đình Thi phải ra Tòa là do Linh mục Lễ công bố tội lỗi của Bùi Đình Thi.
    - Việt cộng ?- Có nhiều phần chắc Việt cộng đã lợi dụng cơ hội “đánh” Linh mục Nguyễn Hữu Lễ “như đòn thù”. Vì những thành tích chống cộng vang dội của Linh mục Lễ đã tác hại cho Việt cộng, gây thù oán với Việt cộng thì ngoài thân nhân bạn bè của Bùi Đình Thi, chỉ có Việt cộng mới có ý đồ và lợi ích để “đánh trả thù” Linh mục Lễ mỗi khi có dịp thuận lợi.
      Việt cộng đã “đánh đòn thù” với Linh mục lễ bằng cách nào, nhằm ý đồ và lợi ích gì? _ - Bằng kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng” với ý đồ triệt hạ uy tín Linh mục Nguyễn Hữu Lễ (vì đã có hành động có hại cho VC) như đã từng triệt hạ hầu hết những người được coi là lãnh tụ chống cộng ở hải ngoại nổi bật, có sức thu hút, quy tụ các lực lượng chống cộng ở hải ngoại cũng như trong nước. Nghĩa là ngoài việc xử dụng kỹ thuật “truyền thông trắng” để công khai triệt hạ những “kẻ thù này” trên các phương tiện truyền thông đại chúng (phát thanh, truyền hình, internet…), Việt cộng đã và đang xử dụng các hình thức truyền thông “xám” và “đen” của  “Đặc tình truyền thông” để dấu mặt. Bằng vỏ bọc “người quốc gia, người có tôn giáo “đánh” người quốc gia, người có tôn giáo”, nhân danh “lợi ích chống cộng và lợi ích tôn giáo” để thành đạt ý đồ phá nát các tổ chức chống cộng, bôi đen các lãnh tụ chống cộng, phá đổ niềm tin của quần chúng chống cộng đối với hàng ngũ lãnh đạo chống cộng và sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia (Xin vào Blog: thieny-lienhuong.blogspot.com để đọc Tài liệu “Việt cộng đã dùng Đặc tình truyền thông để ly gián các lực lượng chống cộng như thế nào, hiệu quả ra sao?)

KẾT LUẬN:
    Sự thể Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, một người có thành tích chống cộng vang dội nên đã bị “đặc tình truyền thông Việt cộng” đánh “như đòn thù” là điều dễ hiểu và cũng đã từng xẩy ra trên không gian ảo mạng lưới internet toàn cầu.
   Vì vậy, thiết tưởng những ai tự biết mình là người Việt quốc gia chân chính hay người Việt Nam hữu thần có tôn giáo, có chung mục tiêu chống cộng bằng động lực là lòng yêu nước (không phải vì hận thù) để thành đạt mục tiêu tối hậu: Dân chủ hóa Việt Nam và phát triển toàn diện Đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại…Tất cả cần tự chế trong hành động phê phán chiến hữu Việt quốc, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn đánh phá của Việt cộng, để không mắc mưu, vô tình tiếp tay cho Việt cộng thành đạt ý đồ phá nát các tổ chức chống cộng, bôi đen các lãnh tụ chống cộng, phá đổ niềm tin của quần chúng chống cộng đối với hàng ngũ lãnh đạo chống cộng và niềm tin vào sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia.
Thiện Ý
Houston, ngày 20 tháng 9 năm 2011

Friday, September 9, 2011

Nhung van de cua chung ta:Viet cong da xu dung "Dac tinh truyen thong " de ly gian cac luc luong chong cong nhu the nao va hieu qua ra sao?

Những vấn đề của chúng ta:
VIỆT CỘNG ĐÃ XỬ DỤNG ĐẶC TÌNH TRUYỀN THÔNG ĐỂ LY GIÁN CÁC LỰC LƯỢNG CHỐNG CỘNG NHƯ THẾ NÀO VÀ HIỆU QUẢ RA SAO?

Thiện Ý
·        Những vấn đề gì?- Đó là những vấn đề liên quan đến Cộng Đồng, Dân Tộc và Đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
·       Chúng ta là ai? – Là những Người Việt Quốc Gia chân chính:
- Đứng vững trên lập trường dân tộc, kiên trì chiến đấu cho lý tưởng Tự Do Dân Chủ, cho đến khi thành đạt mục tiêu “Dân Chủ hoá, phát triển toàn diện Đất Nước đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại”.
- Trong quá trình chiến đấu cho lý tưởng và mục tiêu trên, luôn suy nghĩ và hành động theo chiều hướng có lợi cho sự nghiệp chung, trước mắt là có lợi cho công cuộc“Chống cộng vì tự do dân chủ và nhân quyền cho Quê Mẹ Việt Nam”. Trong mọi trường hợp, suy tư và hành động luôn đặt “Lợi ích của “chúng ta” trên “lợi ích của tôi và chúng tôi”.

         Tất cả những bài viết của chúng tôi từ quá khứ đến hiện tại và cả  tương lai, luôn suy nghĩ và viết trên lập trường, quan điểm và chiếu hướng trên.
* * * * * * * * *
        Trong cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc- Cộng tại Việt Nam, giai đoạn chiến tranh chống cộng để diệt cộng trước đây (1954-1975), các bên đều khai thác triệt để các hình thức, kỹ thuật truyền thông để chống phá lẫn nhau và biện minh, tranh thủ sự hậu thuẫn của quần chúng và quốc tế cho lý tưởng, mục tiêu theo đuổi chiến tranh xâm lược (Việt cộng) hay chiến tranh vệ quốc (Việt quốc) của mình.
        Trong giai đoạn đấu tranh chống cộng để dân chủ hoá đất nước của Việt quốc hiện nay,Việt cộng cũng đã và đang khai thác triệt để các hình thức, kỹ thuật truyền thông, trong đó có “Đặc tình truyền thông” để ly gián các lực lượng chống cộng, các tổ chức đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở hải ngoại cũng như trong nước.
         Nội dung bài viết này sẽ lần lượt trình bầy:
      
I/- Truyền Thông và đặc tình truyền thông là gì?
II/- Việt cộng đã xử dụng đặc tình truyền thông như thế nào để ly gián các lực lượng chống cộng và hiệu quả ra sao?
III/- Làm thế nào để vô hiệu hoá  tác hại của đặc tình truyền thông Việt cộng?
IV/- Kết luận.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
I/- TRUYỀN THÔNG VÀ ĐẶC TÌNH TRUYỀN THÔNG
    1.- Ý nghĩa từ ngữ:
          Theo sự hiểu biết của chúng tôi, truyền thông là từ ngữ ghép của “tuyên truyền” (Propaganda, propagandize) và thông tin (inform, information, communicate, communication).
         Thông tin mang tính khách quan, truyền đạt các tin tức, sự kiện xẩy ra thế nào thì truyền đạt thế ấy. Tuyên truyền mang tính chủ quan khi truyền đạt tin tức, các sự kiện có thật và cả không có thật để thuyết phục, lôi kéo các đối tượng tiếp thụ (quần chúng) nhằm thành đạt ý đồ và lợi ích chủ quan của mình bằng các phương tiện, hình thức và  kỹ thuật truyền thông. Tính chủ quan hay khách quan ít nhiều là tùy thuộc ý đồ của chủ thể cá nhân hay các cơ quan truyền thông. Chính tính chủ quan hay khách quan nhiều ít cho thấy sự khác biệt giữa ba hình hình thức truyền thông “Trắng”,truyền thông “xám” và truyền thông “Đen”.
        Ý nghĩa truyền thông mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết hôm nay là thông tin tuyên truyền, nặng về tính tuyên truyền chủ quan, trong bối cảnh cuộc đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hoá đất nước hiện nay của  người Việt Quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản, để rút kinh nghiệm và thử đề ra phương cách làm vô hiệu hoá tác hại của “đặc tình truyền thông Việt cộng” như thế nào.
   2.- Các phương tiện, hình thức và kỹ thuật truyền thông.
        a) Các phương tiện truyền thông:
         Thông tin và tuyên truyền được thực hiện qua các phuơng tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền thanh, truyền hình, internet. Ngoài ra, các truyền đơn, truyền khẩu, thuyết trình, hội luận, điện thoại…với mục đích truyền đạt thông tin, tuyên truyền cũng có thể coi là những phương tiện truyền thông khác.
       b) Các hình thức và kỹ thuật truyền thông:
         Theo nhận định của chúng tôi, có 3 hình thức truyền thông: trắng, xám và đen.
-       Truyền thông “trắng” là qua các phương tiện truyền thông minh danh, nói rõ lập trường, quan điểm, lập luận để thuyết phục nhằm thành đạt mục đích và lợi ích thực sự, một cách chủ quan không che dấu của chủ thể muốn thành đạt nơi các đối tượng tiếp thụ qua các phương tiện truyền thông.
                 Kỹ thuật truyền thông “trắng” là căn cứ trên các sự kiện, tài liệu, tin tức, biến cố có thật cũng như giả tạo để dùng ngôn từ lập luận, biện minh hầu thuyết phục, hướng dẫn, lôi kéo quần chúng tin tưởng đó là chính nghĩa, là sự thật, rồi ủng hộ, làm theo, giúp chủ thể truyền thông thành đạt mục đích và lợi ích thực sự của mình.
-        Truyền thông “xám” là qua các phương tiện truyền thông, minh danh, không nói rõ lập trường (ai muốn hiểu sao thì hiểu) , quan điểm, mục đích và lợi ích nửa thực nửa hư, lập luận làm ra vẻ khách quan để che dấu lập trường, quan điểm, mục đích và lợi ích thực sự của mình ( mà nếu dùng truyền thông “trắng” sẽ không hay khó thành đạt)
                  Kỹ thuật truyền thống “Xám” tương tự như truyền thông “trắng”, chỉ khác là cách lập luận, biện minh trên các sự kiện, tài liệu, tin tức, biến cố có thật cũng như giả,  sao cho quần chúng thấy tính khách quan hai chiều (khác với tính chủ quan, một chiều của truyền thông “trắng”), để dễ tin tưởng đó là chính nghĩa, là sự thật, rồi ủng hộ và làm theo.
-       Truyền thông “đen” là qua các phương tiện truyền thông giả danh đối phương, đứng trên lập trường, quan điểm, mục đích và lợi ích của đối phương, rồi cũng căn cứ trên các sự kiện, tài liệu, tin tức, biến cố có thật cũng như giả tạo để dùng ngôn từ lập luận, biện minh hầu thuyết phục, hướng dẫn, lôi kéo quần chúng tin tưởng đó mới là chính nghĩa, là sự thật, rồi ủng hộ, làm theo, giúp chủ thể truyền thông “đen” thành đạt mục đích và lợi ích  thực sự của mình mà nếu dùng truyền thông “Trắng” khó hay không thể đạt được, hay chỉ đạt được phần nào qua truyền thông “Xám”.
                  Kỹ thuật truyền thống “đen” cũng tương tự như truyền thông “trắng”, chỉ khác ý đồ của chủ thể truyền thông “đen” là dùng ngay lập trường, quan điểm, cách lập luận, biện minh trên các sự kiện, tài liệu, tin tức, biến cố có thật cũng như giả của đối phương để “đánh phá đối phương” theo kiểu “gậy ông đập lưng ông”, sao cho quần chúng “hoài nghi, chống lại đối phương”, và quay ra tin tưởng, ủng hộ và làm theo ý đồ của chủ thể truyền thông “đen” (mà truyền thông trắng và xám không thể đạt được)
         Tựu chung ba hình thức truyền thông trên có thể giống nhau đôi chút về kỹ thuật truyền thông, chỉ khác nhau về ý đồ muốn thành đạt của các chủ thể truyền thông (cá nhân hay cơ quan truyền thông).
         Để dễ hình dung sự khác biệt này, chúng tôi xin đưa  ra biểu tượng: Truyền thông “trắng” như một ly nước trong, truyền thông “xám” như một ly cà phê sữa và truyền thông “đen” như ly cà phê đen. Ly nuớc trong (truyền thông “trắng”) khó hay không thể đầu độc một đối tượng bằng một độc chất có mầu.Ly cà phê sữa (Truyền thông “xám” ) tuỳ theo ý đồ của người pha chế (chủ thể truyền thông “xám”) cho nhiều sữa để có mầu lạt hay nhiều cà phê ít sữa để có mầu đậm, để dễ đầu độc một đối tượng bằng một độc chất có mầu. Ly cà phê đen (truyền thông “đen”) chủ thể truyên thông muốn triệt hạ đối phương chỉ cần “một giọt độc chất” là có thể đạt ý đồ, đối tượng khó nhận ra vì độc chất đã bị mầu đen cà phê che lấp.
        Trong giai đoạn chiến tranh Quốc- Cộng vừa qua (1954-1975), cộng sản Bắc Việt đã xử dụng hệ thống truyền thông “trắng” là các đài phát thanh từ Trung ương Hà Nội đến các tỉnh thành và các trạm, các tổ thông tin làng xã để thông tin tuyên truyền công khai lừa mị, thuyết phục, động viên, kết hợp với các biện pháp kềm kẹp, khủng bố tinh thần nhân dân Miền Bắc, để tự nguyện hay ép buộc nhân dân tham gia vào cái gọi là “Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước ” mà thực chất là để xâm lược Miền Nam Việt Nam, làm nhiệm vụ quốc tế cộng sản để mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc Đỏ Liên Xô và Tầu cộng.Đồng thời, cộng cụ xâm lược của Cộng sản Bắc Việt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời tháng 12-1960 và cái chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam thành lập sau đó cũng có “Đài Phát Thanh Giải Phóng” làm nhiệm vụ truyền thông “trắng” .v.v…
        Trong khi đó, tại Miền Nam, vùng đất tự do của nhân dân Miền Nam, chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hoà(VNCH) cũng đã xử dụng một hệ thống truyền thông “trắng” là các đài phát thanh, truyền hình từ trung ương Thủ đô Sàigòn đến các tỉnh thành và các trạm thông tin phát thanh khắp các quận huyện làng xã để thông tin, tuyên truyền cho Chính Nghĩa Quốc Gia, vạch trần và tố cáo trước nhân dân và công luận thế giới ý đồ xâm lược Miền Nam bằng bạo lực chiến tranh,vi phạm Hiệp Định Geneve 1954, hầu huy động sức mạnh toàn dân và hậu thuẫn quốc tế  để tiến hành chiến tranh tự vệ, đánh bại cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt, vốn là  công cụ bành trướng của cộng sản quốc tế thời bấy giờ.
      Tất nhiên, truyền thông “trắng” của cả hai bên chỉ có tác dụng giới hạn trong nội bộ và quần chúng trong vùng ảnh hưởng mỗi bên. Vì vậy, ngoài hệ thống truyền thông “trắng” là các đài phát thanh dân sự, quân sự , trạm thông tin, chính quyền Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam còn xử dụng rất sớm hình thức truyền thông “đen”, rồi truyền thông “xám” trên mặt trận truyền thông. Các chương trình truyền thông “Xám”“đen” này đã do khối Tình Báo Tâm Lý Chiến thuộc Nha Tâm Lý Chiến thời Đệ Nhất VNCH và Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thời Đệ Nhị VNCH thực hiện. Vì vậy chúng tôi tạm gọi là những hình thức của “Đặc tình truyền thông Việt quốc để dễ đối chiếu  và thấy tác hại của “Đặc tình truyền thông Việt cộng” hiện nay.
     c)- Nguyên lý của truyền thông “xám” và “đen”: là giả danh có mức độ (xám) hay giả danh hoàn toàn (Đen) đối phương để đánh phá đối phương bằng chính lập trường, quan điểm và lập luận của đối phương, làm cho đối phương lầm tưởng là “của ta” mà dễ tin tưởng và chấp nhận ý đồ “của địch”, nhằm phân hoá nội bộ đối phương, tạo ra hay khoét sâu mâu thuẫn nội bộ,làm cho đối phương không còn tin nhau, chống phá lẫn nhau trong tổ chức, phá đổ sự đoàn kết thống nhất, gây hoang mang, giao động tâm lý dẫn đến băng hoại niềm tin vào lý tưởng, mất tinh thần chiến đấu của quân đội  và quần chúng vốn ủng hộ đối phương.
       Nguyên lý “đặc tình truyền thông” trên đã được chính quyền quốc gia VNCH vận dụng trong giai đoạn chiến tranh Quốc –Cộng vừa qua,với đài phát thanh “đen” đầu tiên là “Gươm Thiêng Ái Quốc”, thực hiện các chương trình phát thanh “đen” mỗi ngày vào các giờ nhất định.
      Để thực hiện Chương trình phát thanh “đen” này, các bài viết, văn từ, lập luận y như các đài phát thanh “trắng” của Việt cộng với lập trường cộng sản kiên định, quan điểm không chống Đảng Cộng Sản, chỉ chống bè lũ Lê Duẩn, Trường Chinh đi sai đường lối “cách mạng vô sản” của Đảng, vẫn tôn vinh thần tượng Hồ Chí Minh và tố cáo bè lũ này đã tìm cách cô lập, áp chế “Bác Hồ”, lũng đoạn, gây phân hoá làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của Đảng….Và các xuớng ngôn viên nam, nữ đều nói tiếng Bắc, dọng chuẩn Hà Nội ( Nếu ai từng nghe trước đây ở Việt Nam cũng biết và có thể xác định)
        Theo chỗ chúng tôi được biết, để hổ trợ tăng cường tác dụng cho “Chương trình phát thanh đen” này, một chiến khu giả được tạo dựng trên một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa ở Miền Trung, trang trí cờ đỏ sao vàng và hình lãnh tụ cộng sản quốc tế Karl Marx, Lenine và lãnh tụ Cộng đảng Việt Nam Hồ Chí Minh, với các “kháng chiến quân” ăn mặc như cán bộ, bộ đội CS trang bị vũ khí nhãn hiệu khối CS như  súng AK, nón cối, nón tai bèo và dép dâu như những cán binh cộng sản thứ thiệt.
         Biệt kích Việt Nam Cộng Hoà đột nhập và bắt cóc một số cư dân vùng ven biển thuộc các địa phương phía Bắc vĩ tuyến 17, bịt mắt đưa về chiến khu cho học tập một vài tuần chủ trương, đướng lối kháng chiến của “Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc”, rồi lại bịt mắt đưa thả trở lại địa phương, trở thành những cái “loa tuyên truyền sống”cho “Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc”. Đồng thời, những chiếc Radio nhỏ khi mở ra chỉ nghe được đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” cũng được máy bay của biệt kích VNCH thả xuống Miền Bắc, nhất là các tỉnh vùng ven biển Miền Trung bắc vĩ tuyến 17, lằn ranh chia đôi đất nước theo Hiệp Định Geneve 1954.
         Sau khi nhóm tướng tá quân lực Việt Nam Cộng Hoà, với sự ngầm cho phép và hổ trợ của Hoa Kỳ, đã thành công trong việc lật đổ và sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố vấn Ngô Đình Nhu, Đệ nhất Việt Nam Cộng Hoà cáo chung. Sau đó Hoa Kỳ đã đưa quân vào Việt Nam trực tiếp tham chiến. Vì sự hiện diện của quân đội Mỹ, Việt cộng đã phất cao ngọn cờ “chống ngoại xâm”, với khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc”, đẩy mạnh chiến tranh, đưa cuờng độ chiến tranh ngày một lên cao.
          Để đáp ứng tình hình mới, trên lãnh vực quân sự,QLVNCH cũng được tăng cường về số lượng, trang bị vũ khí và trên mặt trận truyền thông “trắng” cũng được phát triển, thêm nhiều đài phát thanh, truyền hình đến các tỉnh thành và tối tân hoá các phương tiện truyền thông.
         Riêng về truyền thông “đen”, ngoài đài Gươm Thiêng Ái Quốc, đã có thêm một số đài  “đen” khác như: “Đài Cờ Đỏ” đứng trên lập trường, quan điểm của phái cộng sản Việt Nam thân Mạc Tư Khoa  chống phái thân Tầu cộng Bắc Kinh, để khoét sâu mâu thuẫn Nga-Hoa trong nội bộ Cộng Đảng Việt Nam. “Đài Tiếng nói Kháng Chiến Nam Bộ” đánh vào mâu thuẫn giữa nhóm kháng chiến chống Pháp và nhóm kháng chiến chống Mỹ , rằng có sự khác biệt về ý nghĩa  giữa cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ... “Đài Giải Phóng” (giả) gây phân hoá và hoang mang giao động tinh thần chiến đấu của cán binh cộng sản đang chiến đấu tại Miền Nam, khai thác mâu thuẫn giữa bộ đội chính quy Cộng sản Bắc Việt với quân chủ lực Miền Nam…
         Cũng trong thời kỳ cường độ chiến tranh lên cao, một đài truyền thông “Xám” được hình thành duới tên là Đài Tiếng Nói Tự Do, gọi tắt là VOF (Voice Of Freedom). Đến giai đoạn gần kết thúc chiến tranh, một đài truyên thông “xám” khác ra đời, đó là Đài Mẹ Việt Nam”, đánh vào tình tự dân tộc, ngầm cổ vũ cho tinh thần “Hoà giải và hoà hợp dân tộc” theo tinh thần bản Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình cho Việt Nam.
         Ngoài hình thức truyền thông “trắng” dân sự thuộc Bộ Thông Tin, truyền thông “trắng” quân sự và hai hình thức truyên thông “Xám” và truyền thông “Đen”được đặt duới sự quản trị và thực hiện của “Khối Tình Báo Tâm Lý Chiến” thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH. Vì vậy chúng tôi tạm gọi hai hình thức sau này là “Đặc tình truyền thông”. Nghĩa là một dạng “Tình báo đặc biệt trên lãnh vực truyền thông”.

II/- VIỆT CỘNG ĐÃ XỬ DỤNG “ĐẶC TÌNH TRUYỀN THÔNG” NHƯ THÊ NÀO VÀ HIỆU QUẢ THỰC TẾ RA SAO?
     
          Như vậy là hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông” đã từng được chính quyền Việt Nam Cộng Hoà xử dụng trong giai đoạn chiến tranh Quốc- Cộng vừa qua, nay Việt cộng đã xử dụng cả hai hình thức và kỹ thuật đặc tình truyền thông “xám”“đen” thì chắc chắn không phải là sáng kiến của họ.
         Hình thức và kỹ thuật này là sáng kiến của ai,được vận dụng từ khi nào và có phải là sáng kiến của Việt  Nam Cộng Hoà hay không, điều đó không quan trọng, chỉ biết rằng trước đây Việt Quốc đã xử dụng có hiệu quả và hiệu quả ấy đã kiểm chứng được qua lời khai của cán binh cộng sản hồi chánh hay bị bắt làm tù binh. Nay Việt Cộng cũng xử dụng, đã có được hiệu quả mà chúng ta có thể kiểm chứng được dễ dàng qua thực tế.
   1.- Việt cộng đã xử dụng đặc tình truyền thông để ly gián các lực lượng chống cộng như thế nào?
         a) Phương thức thực hiện và ý đồ :
        Việt cộng đã vận dụng cả hai hình thức và kỹ thuật đặc tình truyền thông “xám”“đen” đễ ly gián các lực lượng chống cộng, phân hoá các tổ chức Cộng Đồng, các chính đảng Quốc gia, các tổ chức, cao trào đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền, các đoàn thể tôn giáo, văn hoá, xã hội tại hải ngoại cũng như trong nước và giữa hải ngoại với trong nước,giữa người quốc gia chống cộng với nhau và với người cộng sản phản tỉnh có chung mục tiêu đấu tranh chống độc tài toàn trị,dân chủ hoá Đất nước trong một thể chế dân chủ đa nguyên.
         Ý đồ mà Việt cộng muốn thành đạt là quấy phá làm rối loạn hậu phương chống cộng (hải ngoại), phá nát sức mạnh đoàn kết thống nhất của các tổ chức chống cộng (Cộng Đồng, Chính đảng…) hay các tổ chức có lập trường, quan điểm chống cộng và hành động yểm trợ vật chất, tinh thần  và tham gia các hoạt động chống cộng (Các Giáo hội, các hội đoàn ái hữu,  văn hoá, xã hội, nghề nghiệp..). Phá nát về mặt tổ chức, bôi đen các lãnh tụ chống cộng có uy tín và khả năng quy tụ, cũng như phá đổ niềm tin giữa các cá nhân, làm cho không còn ai tin ai, không còn biết ai là thù ai là bạn, làm mờ và làm mất “lằn ranh Quốc-Cộng”, dẫn đến tâm lý hoang mang, chán nản, bỏ cuộc trong quần chúng và các cá nhân tích cực trong các tổ chức, lực lượng chống cộng.
         Hậu quả là nhiều người sẽ mất  niềm tin vào hàng ngũ những người lãnh đạo chống cộng (vì bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” bôi đen biến thành những kẻ xấu, chẳng ra gì), mất niềm tin vào sự tất thắng của chính nghĩa Quốc gia (đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hoá đất nước, nhưng nội bộ đối xử với nhau phản dân chủ,chống phá lẫn nhau làm suy yếu lực lượng chống cộng…),dẫn đến một số người bỏ cuộc, không chống cộng nữa, chọn cuộc sống an phận, vì mất niềm tin cũng có mà vì sợ bi khủng bố tinh thần,hay không muốn bị phiền hà, bị chụp mũ, bôi bẩn, lăng mạ …( Đó là nguyên nhân của thực trạng ngày càng ít người tham gia các sinh hoạt cộng đồng, hoạt động chống cộng ở hải ngoại)
        Để thành đạt ý đồ trên,qua các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình, truyền khẩu, nhất là tận dụng không gian ảo internet dễ ẩn nấp để chuyển tải các bài viết luôn thể hiện các đặc tính chống cộng của phe quốc gia, người quốc gia chống cộng tạo thế và vỏ bọc đánh phá phe quốc gia và người quốc gia như sau đây:
     * “Đặc tình truyền thông Việt cộng” cũng xác định một lập trường, quan điểm chống cộng kiên định. Thể hiện lập trường chống cộng cực hữu, cực đoan hơn cả người quốc gia chống cộng thứ thiệt (tuyên truyền “đen”), “bảo hoàng hơn cả nhà vua” như tục ngữ Phương Tây thường nói; hay trung dung để có vẻ khách quan tạo niềm tin dễ hơn cho người đọc, người nghe (tuyên truyền“xám”) vô tình tiếp tay cho Việt cộng đánh phá các cá nhân và các tổ chức chống cộng thực sự mà Việt cộng muốn triệt hạ.
     * “Đặc tình truyền thông Việt cộng” cũng khẳng định mục tiêu chống cộng và  xác tín mạnh mẽ  lý tưởng đấu tranh của chính quyền quốc gia,người Việt Quốc gia là đúng đắn, là chính nghĩa và là chân lý tất thắng của thời đại. Bài bác, phủ định lý tưởng cộng sản là sai lầm, gây hậu quả nghiêm trọng, lâu dài và toàn diện cho đất nước và dân tộc, là ngụy nghĩa và phi chân lý tất bại….Việt cộng tự nhục mạ mình để lấy niềm tin (khổ nhục kế), làm vỏ bọc hầu thành đạt ý đồ phân hoá làm suy yếu các lực lượng chống cộng.
     *“Đặc tình truyền thông Việt cộng” cũng  Ca ngợi Quốc gia tối đa, chửi Cộng sản hết lời:
- Ca ngợi những việc làm tốt đẹp ích quốc lợi dân của chính quyền quốc gia và các nhà lãnh đạo quốc gia trong quá khứ, được nhiều người ngưỡng mộ, biết  tiếng .Nếu có những bất đồng trong sự đánh giá công, tội của chính quyền quốc gia và những nhà lãnh đạo trong quá khứ, thì “Đặc tình truyền thông Việt cộng” khai thác triệt để mâu thuẫn này để phân hoá; Tôn vinh quân đội quốc gia với các tướng sĩ anh hùng, được nhiều người ngưỡng phục (như các vị Tướng QLVNCH tuẫn tiết trong biến cố 30-4-1975…).
        Đây chỉ là những động tác giả nhằm vuốt ve phe quốc gia bằng những sự kiện ai cũng biết, có ca ngợi, tôn vinh những người tốt việc tốt của chính quyền quốc gia, quân đội quốc gia và người quốc cũng không có lợi gì thêm cho phe quốc gia, mà chỉ có lợi cho Việt cộng có vỏ bọc quốc gia ẩn núp an toàn  để “đánh phá, giết người quốc gia và các tổ chức chống cộng của phe quốc gia” mà thôi.
- Tố cáo những việc làm phản dân hại nước của đảng và chính quyền cộng sản và nguyền rủa, thoá mạ nặng nề đời tư cũng như công của các lãnh tụ cộng sản vốn gây nhiều tội ác với nhân dân làm hại đất nước và dân tộc mà ai cũng biết, đã và đang bị người quốc gia ở hải ngoại , cũng như nhân dân trong nước căm hận, như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng …đã chết hay những lãnh tụ cộng sản đương thời như Đỗ Mười,Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng ….Đây cũng chỉ là một dạng của “Khổ nhục kế” , có tố cáo, lên án những sai lầm chủ trương chính sách, những hành động tội ác tầy trời của đảng, chế độ cộng sản và cá nhân các lãnh tụ cộng sản Việt Nam đã chết hay còn sống, là điều ai cũng biết,đã đạt mức tột trần, có nói ra, nói thêm cũng chẳng có hại gì thêm cho Việt cộng mà chỉ giúp Việt cộng có thế ẩn núp an toàn, đánh phá hữu hiệu phe Việt Quốc, chỉ có hại cho Việt Quốc, có lợi cho Việt cộng.
         * Nói chung, tất cả những việc làm trên, Việt cộng tạo thế và vỏ bọc chống cộng cho những kẻ có nhiệm vụ thực hiện các hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông”.
         Nghĩa là cán bộ đặc tình truyền thông của Việt cộng,cố tạo cho mọi người tin họ là những người quốc gia chân chính, lập trường chống cộng kiên định, trung thành với mục tiêu chống cộng vì lý tưởng tự do dân chủ. Từ vị thế và vỏ bọc chống cộng này, tuỳ tình hình mà pha chế nồng độ đi từ “xám” (chất chống cộng mờ nhạt như mầu cà phê sữa) đến “đen” (chống cộng triệt để như mầu cà phê đen), rồi nhân danh lợi ich chống cộng để thành đạt ý đồ phá nát các tổ chức chống cộng và triệt hạ uy tín của những lãnh tụ chống cộng hay cá nhân có sức lôi cuốn, qui tụ quần chúng chống cộng bằng cách chụp cho các đối tượng cá nhân cũng như đoàn thể chính trị, văn hoá, xã hội, tôn giáo những cái mũ phổ biến như: “hoà giải và hợp”, “Việt gian cộng sản”, “Nằm vùng”, Tay sai cộng sản”, “Trá hàng, cò mồi (là “mũ” dành riêng cho những cá nhân gốc đảng viên cộng sản “phản tỉnh”, những nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước đào thoát hay có cơ may ra hải ngoại…) hay “dân chủ cuội” để kiếm tiền hổ trợ từ hải ngoại (để tầm thường hoá những người đấu tranh cho dân chủ trong nước…)
         Gây phân hoá các tổ chức chống cộng và các đoàn thể có lập trường chống cộng, gây bất ổn triền miên trong các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại bằng cách dùng “Đặc tình truyền thông”, bằng tự tạo ra hay khai thác triệt để những mâu thuẫn tự phát hay do Việt cộng nằm vùng gợi ý, thúc đẩy để có mâu thuẫn từ nội bộ các tổ chức chống cộng và các đoàn thể chống cộng, mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, mâu thuẫn giữa các đoàn thể với nhau, để không còn ai tin ai, không còn biết ai là người chống cộng thật, chống cộng giả, nhìn đâu và nhìn ai cũng tưởng là Việt cộng quay qua đánh phá lẫn nhau với mức độ và cường độ có khi mạnh mẽ hơn cả mức độ, cuờng độ chống cộng, đến quên cả mục tiêu chính yếu, cao nhất của người Việt Quốc gia chân chính là “Chống cộng để dân chủ hoá cho Quê Mẹ Vệt Nam”.
        Điều nghịch lý là chính những hành động đánh phá lẫn nhau này đã gây tác hại đúng như ý đồ của Việt cộng, nhưng những người hành động thì lại luôn biện minh là vì lợi ích chống cộng cần triệt hạ những tên “Việt gian cộng sản”, “tay sai cộng sản nằm vùng”, “hoà giải và hoà hợp”…Trong khi thực sự những người này hay đoàn thể nọ đều là những người, những đoàn thể chống cộng thứ thiệt. Và như thế vô hình chung đã giúp Việt cộng thành đạt ý đồ thực hiện “Đặc tình truyên thông” của họ. Và như thế, người quốc gia, các lực lượng chống cộng đã như tự chặt tay, chặt chân mình, tự phá hủy sức mạnh và tiềm năng chống cộng để thắng cộng của mình mà không biết; hoặc biết mà vẫn cứ làm vì coi lợi ích cá nhân, lợi ích bè phái trên lợi ích của công cuộc chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam.
   b) Tổ chức và nhân sự thực hiện:
        * Tổ chức: Nếu trong giai đoạn chiến tranh Quốc Cộng trước đây, các hoạt động đặc tình truyền thông “xám”“đen” của chính quyền Quốc gia được giao cho Khối Tình Báo Tâm Lý Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị  thực hiện, thì nay được biết các hoạt động tương tự này của Việt cộng,Cục Tình Báo Đối Ngoại của Việt cộng chịu trách nhiệm về mặt tổ chức, tuyển dụng và điều động nhân sự thực hiện sách lược đánh phá phe Quốc gia bằng “Đặc tình truyền thông”.
         Bộ phận trung tâm đầu não chuyên trách  “Đặc tình truyền thông Việt cộng” xuất phát từ Việt Nam, với các cây viết chuyên nghiệp được huấn luyện kỹ càng về kỹ thuật tuyên truyền “Xám” “Đen”.Từ trung tâm này điều động mạng lưới “Đặc tình truyền thông” khắp nơi ở hải ngoại (địa bàn hoạt động chủ yếu), thông qua bốn trạm trung chuyển: một ở Châu Âu (Anh Quốc), một ở Úc châu, một ở Canada và một ở Hoa Kỳ (California);phối hợp chặt chẽ để nắm tình hình vận dụng vào thực tế các đia phương tập trung đông người Việt chống cộng, qua các tổ tình báo ở các Đại sứ quán hay Lãnh sự quán Việt cộng.
        * Nhân sự thực hiện:Những nhân sự thực hiện các hoạt động “Đặc tình truyền thông Việt cộng” thường được tuyển chọn, huấn luyên từ hai nguồn:
-       Một là từ số cán bộ đảng viên cộng sản đã từng bị ở tù về các tội hình sự, kinh tế, tham ô, có khả năng viết và nói, ngay trong nhà tù đã được cài vào các “buồng giam” hay các “Đội  lao động cải tạo” làm công tác “Đặc tình trại giam”. Những ai từng ở tù cộng sản đều biết rõ nhiệm vụ của những “đặc tình trại giam” này, thường gọi là những tên làm “Ăng-ten” (Anteners).Những tên này được quyền nói xấu các lãnh tụ, chửi chế độ để làm vỏ bọc, cò mồi bắt phản động ngay trong nhà tù,  hay  “Nhẩy Sô” (Cachot: Biệt giam, tiếng Pháp). Đó là những tên “Đặc tình” đóng vai tù “phản động” vì tham gia các tổ chức chống cộng(khác tội danh thực), cho nhốt chung với một tù nhân phản động thứ thiệt trong một “Cachot” để khai thác, “mớm cung”, rồi cũng được gọi đi “Làm việc” (tức hỏi cung)với chấp pháp (cán bộ hỏi cung) mà thực sự là gặp chấp pháp để viết báo cáo những gì người tù phản động đã tâm sự vì nghĩ rằng y hay y thị là “chiến hữu” nên đã nói thật những điều muốn che dấu với chấp pháp Việt cộng.
-       Hai là từ một số rất ít những người gốc quốc gia, trong nhà tù cộng sản đã được tin dùng làm “Đặc tình trại giam”, được thả về có cam kết khi ra hải ngoại tiếp tục làm “Đặc tình truyền thông” cho Việt cộng.
            Cả hai nguồn nhân lực trên, tùy khả năng và thành tích công tác thực tế, một số có quy chế ăn lương và công tác phí hàng tháng hay theo kết quả vụ việc; một số không lương nhưng được bằng khen thưởng mỗi khi có thành tích xuất sắc, được tài trợ từng vụ việc và ưu đãi mỗi khi có dịp trở về thăm quê hương.(Tương tự như những kẻ “Ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” trong giai đoạn chiến tranh Quốc-Cộng 1954-1975)
         Ngoài hai nguồn nhân sự trên, chủ động thực hiện công tác “Đặc tình truyền thông”như những “cò mồi”,  đã lôi kéo được sự hổ trợ vô tình của chính những người quốc gia chống cộng, khi xử dụng chính những hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng” để giải quyết mâu thuẫn cá nhân(tư thù), hoặc do những bất đồng về quan điểm, phương thức chống cộng giữa cá nhân hay với các tổ chức chống cộng, đã chụp các mũ thích hợp lên đầu chiến hữu, đồng đội, cùng với các ngôn ngữ bình dân, thiếu văn hoá, để nhục mạ, xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm con người.
         Đây là những cách phổ biến đã và đang được một số người chống cộng tại hải ngoại xử dụng để “khủng bố tinh thần”lẫn nhau mỗi khi có mâu thuẫn, bất đồng, để đối phương sợ hãi phải im tiếng (rồi chán nản bỏ cuộc)
        Những căn cứ để chụp mũ lẫn nhau này, có thể là lấy từ các nguồn “Đặc tình truyền thông chính qui Việt cộng” chế biến, trong đó lẫn lộn các sự kiện giả chân về một đối tượng bị tấn công; và cũng có thể bằng sự tự bịa đặt hoàn toàn các sự kiện cho phù hợp với nhãn hiệu muốn truy chụp cho đối tượng muốn triệt hạ để thủ thắng trong các mâu thuẫn, xung đột cá nhân hay tập thể.
   c)Địa bàn và phương tiện hoạt động.
      Đặc tình truyền thông Việt cộng đã và đang hoạt động trên địa bàn thực là các cộng đồng có đông người Việt quốc gia chống cộng; và không gian ảo là mạng lưới internet toàn cầu.
     Trên địa bàn thực, Việt cộng đã và đang từng bước chiếm lĩnh các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí,phát thanh, truyền hình. Chiếm lĩnh từng bước, đi từ cài người vào các tờ báo, các đài phát thanh, truyền hình có sẵn, đến ngầm hổ trợ tài chánh môi khi các cơ quan truyền thông này gặp khó khăn, hoặc tìm cách mua lại nếu tờ báo hay đài phát thanh, truyền hình gặp khó khăn tài chánh không thể vượt qua; hay chủ nhân chán nản muốn đổi nghề, hay mệt mỏi muốn về hưu rồi.
         Đây là một thực tế đã xẩy ra ở nhiều Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia chống cộng ở hải ngoại. Muôn nhận ra chỉ cần chú ý đến những Đài phát thanh truyền hình, những tờ báo nào, có chủ trương phi chính trị, chỉ làm thương mại và truyền thông thuần túy. Với chủ trương này, trong tư thế sở hữu chủ là người quốc gia nhiều người biết tiếng hay vô danh không biết là người quốc gia hay người của Việt cộng đóng vai thương gia, làm ăn kinh tế. Mặc dầu có qui tụ một số cây viết , biên tập viên là người quốc gia thực sự có tiếng(làm vỏ bọc, dễ ẩn núp), song không có những bài bình luận, bài viết đề tài chống cộng, không loan tải tin tức, hình ảnh và các bài viết chống cộng, chỉ có những bài văn hoá, khoa học kỹ thuật, xã hội, luật pháp và đời sống, thương mại.Thỉnh thoảng có đăng tải những bài có tính chống cộng nhẹ nhàng, vô thưởng vô phạt, tỉ như các tin tức hay bài viết về các vụ án lớn liên quan đến các quan chức cộng sản tham ô…ai cũng biết, có chuyển tải cũng chẳng hại gì thêm cho Việt cộng mà còn tạo thêm võ bọc cho kẻ chủ mưu ẩn núp trong tờ báo,đài phat thanh, truyền hình thực hiện “Tuyên truyền xám”.
         Để đạt tác dụng “truyền thông xám Việt cộng”, các cơ quan truyền thông này thường hay khai thác nhiệt thành những sự kiện, biến cố gì bất lợi cho người quốc gia và phe quốc gia chống cộng (Những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, phương thức chống cộng cá nhân và các, đoàn thể chống cộng…).
        Tất nhiên, cái đích sau cùng của tiến trình lấn chiếm địa bàn truyền thông của người quốc gia là một ngày nào đó thuận lợi, Việt cộng sẽ công khai biến các tờ báo, các đài phat thanh truyền hình này thành các ơ quan “truyền thông trắng của Việt cộng”, làm nhiệm vụ tương tự như đài truyền hình đối ngoại VT-4 từ Hà nội hiện nay.
         Sự thể này rất có thể xẩy ra, vì hải ngoại nói chung, Hoa Kỳ nói riêng là một nước tự do, dân chủ pháp trị bất cứ ai kể cả Việt cộng vẫn có thể làm chủ các phương tiện truyền thông. Nếu muốn ngay bây giờ và bất cứ lúc nào, Việt cộng cũng có thể công khai ra báo, mở đài phát thanh, truyền hình tại bất cứ đâu, kể cả ngay tại các trung tâm có đông người Việt Quốc Gia chống cộng. Đây là vấn đề cần được chúng ta, những tổ chức chống cộng và người Việt Quốc gia quan tâm và có đối sách hữu hiệu.
        Để thực hiện các hoạt động “Đặc tình truyền thông” trên địa bàn thực như trên, các “đặc tình truyền thông Việt cộng” nằm vùng được chỉ đạo khai thác triệt để các mâu thuẫn tự phát hay tạo ra mâu thuẫn cá nhân, bè  phái trong các cộng đồng, rồi dùng truyền đơn, truyền khẩu để phát huy tác dụng phân hoá, đánh phá, hay tạo chất liệu cho các phương tiện truyền thông đại chúng trên địa bàn thực cũng như không gian ảo khai thác bằng các hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng”.
       Trên địa bàn không gian ảo internet, dễ ẩn nấp, email, diễn đàn là phương tiện chuyển tải bài viết, tài liệu, hình ảnh có tác dụng cho “Đặc tình truyền thông Việt cộng”đến nhiều địa chỉ cá nhân, nhiều diễn đàn tập thể. Vì vậy Việt cộng đã khai thác triệt để và tối đa tác dụng của “đặc tình truyền thông” trên không gian ảo này và chẳng cần nói ra ai cũng thấy hiệu quả thực tế Việt cộngh đã gặt hái được ra sao.
   2.- Đặc tình truyền thông Việt cộng đã tạo được hiệu quả thực tế ra sao?
      Nếu trước đây các chương trình “Đặc tình truyền thông Quốc gia” đã có hiệu quả, được kiểm chứng qua các hồi chánh viên hay các tù binh cộng sản, thì nay “Đặc tình truyền thông Việt cộng” cũng đã có hiệu quả, ai cũng có thể kiểm chứng qua thực tế không mấy khó khăn.
      
·      Hiệu quả 1: đối với các Tổ chức Cộng Đồng người Việt Quốc Gia, các chính đảng và tổ chức đấu tranh chống cộng, các Giáo Hội, các hiệp hội ái hữu quân đội cũng như dân sự… đã bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” lũng đoạn, phân hoá nội bộ về mặt tổ chức, phá đổ sự đoàn kết, thống nhất và niềm tin, gây bất ổn triền miên. Hậu quả là tệ trạng bè phái chống phá, chụp mũ lẫn nhau, với mức độ và cường độ có khi cao hơn mức độ và cường độ chống cộng, đến độ quần chúng có cảm tưởng như chống nhau là chính, chống cộng là phụ, hay chống cộng mà chơi, cho vơi bớt lòng căm thù Việt cộng (dù thực tế quả Việt cộng đã gây nhiều thù hận, nhưng thù hận không giết được Việt cộng), chứ không phải chống cộng để thắng cộng, để có điều kiện thực hiện tự do dân chủ cho Đất nước.(cần nhiều yếu tố căn bản khác)
         Hiệu quả thực tế trên, ai cũng có thể kiểm chứng dễ dàng qua thực trạng xung đột,đánh phá, phân hoá, bất ổn  tràn lan khắp nơi trong các nơi có  đông người Việt quốc gia chống cộng ở hải ngoại. Cụ thể, chỉ xin đan cử một số điển hình:
-       Về Tổ chức Cộng Đồng, điển hình là Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston & Vùng Phụ Cận đã và đang bị phân hoá đến lần thứ ba kể từ ngày thành lập vào khoảng giữa thập niên 80 và lần này nghiêm trọng hơn, đã  kéo dài bất ổn nhiều tháng qua,do hai phe chống cộng chống phá lẫn nhau cường độ ngày càng quyết liệt, không khoan nhượng.
         Nguyên nhân là do mâu thuẫn cá nhân và bất đồng về quan điểm và phương thức chống cộng, vấn đề tài chánh không minh bạch của một bên được bên kia đưa ra chỉ là duyên cớ phụ để chống đối lẫn nhau.Vấn đề không minh bạch tài chánh thật ra có thể giải quyết ổn thoả theo trình tự của Nội Quy Cộng Đồng, nếu các bên tương tranh có thiện chí và nếu hai bên không bị tệ nạn bè phái lôi cuốn trở thành mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn như mâu thuẫn giữa Quốc gia và Cộng sản), coi lợi ích bè phái trên lợi ích chống cộng, nên đã vô tình thực hiện đúng ý đồ “đặc tình truyền thông Việt cộng”
         Nhưng dù bất cứ duyên cớ gì, sự chống phá lẫn nhau giữa hai phe chống cộng ở Houston thể hiện qua các bài viết và hình ảnh được phổ biến rộng rãi trên mạng internet cho thấy, nếu không có tác động trực tiếp hay gián tiếp của “Đặc tình truyền thông chính qui Việt cộng” thì các phe phái cũng đã vô tình thực hiện đúng ý đồ của “Đặc tình truyền thông Việt cộng”. Bởi vì, sự thể này đã đem lại “hiệu quả thực tế” cho “Đặc tình truyền thông Việt cộng” “Tác hại thực tế” nhiều mặt cho tổ chức Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và vùng Phụ Cận, cũng như công cuộc chống cộng chung vì dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam. Thực tế là Cộng động bị phân hoá, bất ổn kéo dài, các hoạt động chống cộng bị phân tán, lực lượng chống cộng suy yếu. Cụ thể là các ngày kỷ niệm truyền thống hàng năm của người Việt Quốc gia như ngày Quốc hận 30-4, ngày Quân Lực 19-6, Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương; ngay cả những hoạt động chống cộng qui mô lớn như các cuộc biểu tình “chống Việt cộng bán nước, Tầu cộng cướp nước” diễn ra trong năm nay (2011) phe này tổ chức thì phe kia tẩy chay không tham dự làm cho số người tham gia ít đi. Thậm chí các bên còn dùng những phương tiện truyền thông (truyền khẩu,báo chí, internet…) tìm cách giảm bớt số lượng người tham dự các hoạt động của nhau, xuyên tạc các hình ảnh không đúng thực chất của nhau bằng những ngôn từ thiếu văn hoá… Thực trạng đau lòng tương tự này, quý vị cũng có thể tìm thấy đã và đang diễn ra ở nhiều Cộng Đồng người Việt chống cộng khác ở hải ngoại.
    - Các chính đảng quốc gia và nhân sự lãnh đạo cũng đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” đánh phá và bị phân hoá ít nhiều.
          Những chính đảng Quốc gia lớn có thực lực chống cộng, có truyền thống đấu tranh cách mạng chống thực dân và chống cộng lâu dài như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng; Các chính đảng quốc gia và các tổ chức đấu tranh chống cộng thành lập trước 30-4-1975,hiện nay còn hoạt động chống cộng tiêu biểu như Tân Đại Việt hay Đại Việt Cấp Tiến, với Liên Minh Dân Chủ Việt Nam; hay thành lập sau 30-4-1975 tại hải ngoại tiêu biểu như Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, gọi tắt là Việt Tân, với Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, gọi tắt là Mặt Trận, và các tổ chức ngoại vi: Liên Minh Việt Nam Tự Do, Hội Chuyên Gia, Đoàn Thanh Niên Phan Bội Châu… Hay thành lập trong nước như  Đảng Thăng Tiến, Đảng Dân Chủ (của ông Hoàng Minh Chính, một đảng viên cộng sản phản tỉnh)và Khối 8406…Tất cả đều đã bị phân hoá do tác động ít nhiều của “Đặc tình truyền thông Việt cộng” đánh phá và do chính từ mâu thuẫn nội bộ xử dụng hình thức và kỷ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng” để đánh phá, bôi bẩn, hạ nhục nhau…
           Xin đưa ra một chính đảng quốc gia điển hình đã bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” tấn công liên tục từ lâu, là đảng Việt Tân (tên gọi tắt của Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng).Đây là một đảng chính trị do  người Quốc gia thành lập sau giai đoạn chiến tranh Quốc–Cộng (1954-1975) để tiếp tục chống cộng cho các mục tiêu và lý tưởng Quốc gia. Phó Đề Đốc Hải Quân QLVNCH  Hoàng Cơ Minh là Chủ tịch Đảng đầu tiên của đảng Việt Tân.
        Theo nhận định của chúng tôi,và có lẽ cũng của nhiều người, đảng Việt Tân đã bắt chước cách tổ chức và sách lược đấu tranh của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
        Về tổ chức, Đảng Việt Tân muốn đóng vai trò “TRung tâm”,chủ đạo trong cuộc đấu tranh chống cộng, như đảng Cộng Sản Việt Nam đã đóng vai trò chủ đạo trong cuộc kháng chiến chống pháp 9 năm (1945-1954). Để đóng được vai trò này, đảng Việt Tân lúc đầu dấu mặt, tạo ra Mặt Trận Thống Nhất Giải Phóng Dân Tộc, thường gọi tắt là Mặt Trận, để qui tụ các lực lượng và quần chúng chống cộng dưới sự lãnh đạo ngầm của đảng Việt Tân, y như ý đồ của Cộng đảng Việt Nam cũng dấu mặt khi thành lập Mặt Trận Việt Minh để thu hút các tổ chức chính đảng quốc gia khác và quần chúng để chống pháp dưới sự lãnh đạo của Cộng Đảng Việt Nam.
       Thế nhưng về chủ trương này, Việt cộng thành công, Việt Tân thất bại. Vì thực tế trong kháng chiến chống Pháp, Việt cộng quả đã chủ đạo được cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thành công, còn Việt Tân thì Mặt Trận không những không qui tụ được thêm, mà đã phân hoá  bể ra rất sớm do mâu thuẫn trong hàng ngũ lãnh đạo Mặt Trận và những hành động sai lầm về lãnh đạo, bất minh về tiền bạc của chính một số các lãnh đạo hàng đầu, đã làm mất uy tín, mất niềm tin của quần chúng và các tổ chức chính trị chống cộng khác lúc đầu đã ủng hộ nhiệt thành Mặt Trận. Từ đó, mọi nỗ lực của Mặt Trận muốn nắm quyền chủ đạo các Cộng Đồng Việt Nam chống cộng ở hải ngoại đã không thành, còn bị coi là đối tượng cho các mũi nhọn tấn công của các phe phái và cá nhân chống cộng khác.
       Thành ra, vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80, dù Mặt Trận có cố gắng thành lập chiến khu ở biên giới Lào- Thái Lan, rồi tổ chức hai cuộc hành quân Đông Tiến I và Đông Tiến II đưa đến sự hy sinh của chính người sáng lập là Đề Đốc Hoàng Cơ Minh,Chủ Tịch đảng kiêm Chủ tịch Mặt Trận,cùng nhiều chiến hữu khác, vẫn không đủ lấy lại uy tín và niềm tin trong các lực lượng và quần chúng chống cộng ở hải ngoại. Trong khi mục tiêu các cuộc Đông Tiến đã không thành, còn để lộ sự yếu kém của đầu não Mặt Trận khi hoạch định chiến lược chống cộng trái chiều với chiến lược chống cộng mới của Hoa Kỳ nói riêng, các cường quốc cực nói chung.Một chiến lược hậu Chiến Tranh Lạnh, hoàn toàn khác với chiến lược chiến tranh Ý Thức Hệ giữa Tư Bản và Cộng Sản trước 30-4-1875.(Chiến lược toàn cầu hoá)
      Đến khi Việt Tân muộn màng nhìn ra được Chiến Lược chống cộng quốc tế mới, đưa Việt Tân ra công khai hoạt động, mặc nhiên khai tử tổ chức Mặt Trận cùng một tổ chức ngoại vi khác là Liên Minh Việt Nam Tự Do, hoạch định lại chiến lược chống cộng phù hợp, không còn chủ trương dùng bạo lực quân sự để “Giải phóngViệt Nam” khỏi ách cộng sản, thay vào chủ trương chống cộng bằng đấu tranh chính trị hợp pháp hay bất hợp pháp trong lòng chế độ cộng sản, thông qua đối thoại, vận động quần chúng đấu tranh đường phố kết hợp với đấu tranh nghị trường (Nếu đưa cài được người vào các cơ quan dân cử cũng như công cử  trong guồng máy Đảng và nhà nuớc Việt cộng).
     Nhưng chính những chủ trương thức thời trên, Việt Tân đã bị phân hoá ngay trong nội bộ đảng, khuynh hướng thiểu số bảo thủ tách ra nhập vào khuynh hướng chống cộng bảo thủ chung, Việt Tân tiếp tục hoạt động theo chủ trương mới, nên đã và đang tiếp tục bị khuynh hướng chống cộng bảo thủ tấn công quyết liệt.
         Lý do bị chống đối, vì khuynh hướng bảo thủ cho rằng Việt Tân đã đi theo con đường “Hoà Giải Hoà Hợp với Việt Cộng”, gán ghép thêm cho Việt Tân là “Cánh Tay Nối Dài Của Việt Cộng”, là một “Đảng đối kháng, đối lập, chống cộng cuội (giả)” để thực hiện ý đồ “nằm vùng” của Việt cộng… Mặc dầu thực tế Mặt Trận trước đây, rồi đảng Việt Tân sau này đã có những hoạt động chống cộng nổi cũng như chìm nhiều nơi ở hải ngoại cũng như trong nước nổi bật hơn các chính đảng Quốc gia khác. Thời gian gần đây, Việt Tân đã bán công khai hoạt động trong nước, một số đảng viên bị bắt, kết án tù đầy…Và bị nhà cầm quyền Việt Cộng coi “Việt Tân là một tổ chức khủng bố”. Thế nhưng tất cả vẫn không đủ sức thuyết phục để chấm dứt được các hình thức chống đối, lăng mạ Việt Tân của một số người….và ngược lại khách quan cũng chưa ai đưa ra được bằng chứng xác thực, khả tín để thuyết  phục được những người không tin “Việt Tân là cánh tay nối dài của Việt cộng” hay là một “Chính đảng nằm vùng của Việt cộng”. Như vậy là Việt Tân đã và đang phải gánh chịu hiệu quả của “Đặc tình truyền thông Việt cộng” một cách điển hình nhất.
         Vì qua cơ cấu tổ chức, tinh thần đấu tranh và các hoạt động chống cộng kiên trì thể hiện trên thực tế của các đảng viên trong nhiều năm qua từ hải ngoại vào trong nước của các đảng viên Việt Tân, so với các luận điệu suy đoán thiếu căn cứ thực tế có tính truy chụp cho đảng này, người ta cho rằng Việt Tân là một trong những chính đảng quốc gia có thực lực, có nhân lực đấu tranh kiên trì và có sách lược nhất và là mối nguy hiểm đối với Việt cộng, nên đã và đang bị Việt cộng bằng mọi cách đánh phá,triệt hạ, trong đó có vũ khí “Đặc tình truyền thông Việt cộng” chụp cho Việt Tân cái mũ “ Tổ chức khủng bố” và những người quốc gia chống cộng cực đoan chụp cho cái mũ “hoà giải hoà hợp” với Việt cộng, là “cánh tay nối dài của Việt cộng”.v.v…Nghĩa là Việt Tân một chính đảng Quốc gia đã và đang phải “lưỡng đầu thọ địch”, bị cả Việt cộng (Thù) lẫn Việt quốc (Bạn) là thành phần chống cộng bảo thủ, cực đoan tấn công, mà kẻ thủ lợi là Việt cộng, bất lợi cho phe Việt Quốc.
       
           - Các Giáo Hội và các nhà lãnh đạo Giáo hội cũng đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” đánh phá, phân hoá, như Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài….. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng bị bị chụp mũ lăng nhục như Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Phan Văn Lợi, Cụ Lê Quang Liên và mới nhất là Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khải, người mới có cơ hội thoát khỏi Việt Nam và đang đi nhiều nơi ở Hoa Kỳ có đông người Việt Quốc gia tỵ nạn cộng sản để nói lên những sự thật vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…của nhà cầm quyền Việt cộng.
         -  Các đoàn thể đấu tranh, các hiệp hội ái hữu quân đội cũng như dân sự, các cá nhân lãnh đạo, điều hành… đều đã bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” lũng đoạn, đánh phá, phân hoá có mức độ khác nhau.Điển hình như “Tập Thể Chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà” đã bị đánh phá rất sớm, sau khi tổ chức này thành lập cách nay ít năm, một số nhân vật lãnh đạo tổ chức này cũng đã bị chụp mũ, đánh phá tơi bời.
      * Hiệu quả 2: đối với các cá nhân gốc quốc gia chống cộng ở hải ngoại,  các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước gốc dân thường hay cựu đảng viên cộng sản phản tỉnh, hầu hết  đều là đối tượng tấn công của Đặc tình truyền thông Việt cộng”, được sự tiếp tay vô tình của chính những người quốc gia chống cộng  xử dụng các hình thức, kỹ thuật truyền thông “xám”“đen” để giải quyết  mâu thuẫn cá nhân,  bất đồng quan điểm chống cộng.
          - Đối với những khuôn mặt chống cộng gốc người quốc gia nổi bật qua các hoạt động chống cộng ở hải ngoại.
          Một điển hình chúng tôi được biết như Cố Dân biểu Quốc hội VNCH Nguyễn Văn Kim, lúc sinh thời ở Houston. Một đảng viên gốc Đại Việt, được nhiều người mô tả là một người “Chống cộng full time” , vì đã dành toàn thời gian cho các hoạt động chống cộng. Ông đã cho tôi xem các hình ảnh về tận biên giới Thái-Lào thăm dò lập chiến khu, đi diễn thuyết và viết sách, tài liệu chống cộng, ra báo Nhân Quyền, ít lo cho vợ con, gia đình. Vậy mà ông đã từng nói với tôi và có lẽ nhiều người cũng đã biết, Dân Biểu Nguyễn Văn Kim từng bị truy chụp là “Cán bộ Việt cộng nằm vùng”!
      Một điển hình khác, một người Việt quốc gia chống cộng nổi tiếng khác là chiến sĩ Võ Đại Tôn, cựu Đại tá QLVNCH, sau 30-4-1975, bí mật trở về nước chống cộng bị bắt cầm tù, rồi được Hoa Kỳ và quốc tế can thiệp Việt cộng phải trả tự do, trở ra hải ngoại. Sau khi ông thành lập tổ chức Quang Phục Việt Nam công bố một Bạch Thư  nội dung đưa ra một sách lược đấu tranh mới phù hợp với thực trạng đất nước và những biến chuyển tình hình thế giới… thì đã bị chụp ngay cho cái nũ “Chủ trương hoà giải hoà hợp”, và nguỵ biện như là Ông đã bị “Việt cộng cấy sinh tử phù”, đưa trở ra hải ngoại để “nằm vùng”  làm công tác “hoà giải hoà hợp củaViệt cộng” ( dù thực tế chỉ là ảo, Việt cộng chưa bao giờ chính thức đưa ra chủ trương này, chỉ lừa mị để chiêu hồi người quốc gia ngừng đấu tranh chống cộng về hợp tác với chế độ(Chúng tôi đã có một số bài viết về thực chất  “hoà giải và hoà hợp dân tộc” kiểu Việt cộng). Thế mà một số  người quốc gia và cả Việt cộng đã dùng “Đặc tình truyền thông” để triệt hạ những mgười quốc gia , những tổ chức chống cộng thực sự  bằng cái mũ này.)
     Từ hai điển hình trên, mọi người có thể kiểm chứng thêm nhiều cá nhân gốc người quốc gia có hoạt động chống cộng nổi bật ở hải ngoại, hầu như ai nổi bật một chút cũng đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” triệt hạ và được sự tiếp tay vô tình của chính một số kẻ gốc quốc gia nhục mạ tàn tệ, bằng các hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng”.để giải quyết mâu thuẫn cá nhân hay bất đồng quan điểm và đường lối chống cộng.
         Chính cá nhân chúng tôi mới đây cũng đã bị chụp mũ “Thư ký quốc hội Việt cộng” sau 30-4-1975, “từng đi về Việt Nam nhiều lần nhận chỉ thị”, trong khi chúng tôi đã bị Việt cộng bỏ tù vì tham gia thành lập và họat động trong Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam (1977), rồi bị bắt cầm tù, nghĩa là một người chống cộng từ trước năm 1975, sau năm 1975, từ trong nước ra hải ngoại được nhiều người biết đến ở trong tù cũng như ngoài đời, viết sách, viết báo luôn đề bút hiệu kèm tên thật….Sự chụp mũ này, chỉ là vì nỗ lực đứng ra hoà giải xung đột phe phái trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Vùng Phụ Cận của chúng tôi, đã không làm hài lòng những kẻ nặng óc bè phái, không muốn Cộng Đồng ổn định, đoàn kết, thống nhất, uy tín và vững mạnh để có thế và lực chống cộng hữu hiệu.

   - Đồi với những cựu đảng viên công sản phản tỉnh và những nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước hay đào thoát hoặc có cơ hội ra hải ngoại, hầu hết đều đã bị “Đặc tình truyền thông Việt Cộng”  đánh phá, nhục mạ, triệt hạ.
     Điển hình cho những cựu đảng viên cộng sản phản tỉnh có cơ may đào thoát ra nước ngoài là các ông Bùi Tín,Nguyễn Thư Hiên, nếu chúng tôi không lầm, đã sống ở Paris Pháp quốc từ ngày đào thoát và ông Nguyễn Cần ở Mạc Tư Khoa  từ ngày ở lại Nga tỵ nạn chính trị từ vài thập niên trước đây. Tất cả những cựu đảng viên cộng sản này, một thời ở trong nước từng nắm những chức vụ quan trọng trong guồng máy đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam. Để chứng tỏ sự phản tỉnh của mình, các cựu  đảng viên này đã công khai từ bỏ đảng tịch, viết sách, nhiều bài phê phán, tố cáo, lên án chủ trương chính sách và hành động cai trị sai lầm, tàn bạo của đảng và chế độ cộng sản Việt Nam,từ quá khứ đến hiện tại, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông…Nói chung, khách quan  là có tác hại ít nhiều cho chế độ và Cộng đảng Việt Nam. Vì thế các cựu đảng viên nay đã bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” tìm cách triệt hạ bằng cách tạo sự nghi ngờ về lập trường chống cộng, qua việc khai thác những quan điểm chống cộng khác với quan điểm chống cộng truyền thống của người Quốc gia, biến các ông này cũng như những cựu đảng viên cộng sản khác chỉ là “Trá hàng, nằm vùng”, để dùng tay người quốc gia giết người “cộng sản phản tỉnh” thật, tương tự như dùng “Người quốc gia giết người quốc gia” bằng “Đặc tình truyền thông” như Việt cộng đã và đang làm một cách có hiệu quả thực tế.
      Điển hình mới nhất là Luật sư Lê Thị Công Nhân, một người trẻ đã có nhiều thành tích đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị, đòi tự do, dân chủ, nhân quyền ngay trong lòng chế độ, phải vào tù ra khám, được nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại ngưỡng phục, ca ngợi như một nữ anh thư Việt Nam, một chiến sĩ dân chủ trẻ tuổi kiệt xuất.Đồng thời được công luận quốc tế, các chính phủ dân chủ và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế quan tâm, hổ trợ và bảo vệ.
         Thế nhưng, chính những thành tích cụ thể trong các hoạt động đấu tranh, những bản án tù đầy đã không bóp chết được tiếng nói đanh thép, bất khuất vẫn vang lên của Luật sư Lê Thị Công Nhân. Chính vì vậy mà Việt cộng trong nhiều ngày qua đã và đang tiếp tục dùng “Đặc tình truyền thông” để triệt hạ Lê Thị Công Nhân. Nếu ai theo dõi trên mạng lưới internet sẽ thấy liên tục trong nhiều tuần qua, đã chuyển tải các bài viết nội dung bịa đặt, xuyên tạc các hoạt động đấu tranh cho tự do, dân chủ nhân quyền từ trước tới nay của Luật sư Lê Thị Công Nhân, chỉ là để “làm tiền” hải ngoại, để mua nhà sắm xe, để vinh thân trong cuộc sống. Mục đích Việt cộng muốn tầm thường hoá để đánh đổ một thần tượng, một lãnh tụ trẻ có sức thu hút và đầy triển vọng trong cao trào đấu tranh chống chế độ độc tài toàn trị, tay sai ngoại bang bằng “Đặc tình truyền thông”.Thậm chí, “Đặc tình truyền thông Việt cộng” đã xuyên tạc ngay cả việc kỹ sư Ngô Duy Quyền là chồng luật sư Lê Thị Công Nhân, tham gia các cuộc biểu tình chống Tầu cộng xâm lược, cũng chỉ như là “nghề biểu tình để câu cơm”.  Nếu cảnh giác, người đọc sẽ thấy rõ ý đồ này của Việt cộng, sẽ thấy cái phi lý: một luật sư tài sắc với một người chồng kỹ sư, nếu an phận chẳng lẽ không đủ tài năng kiếm tiền chân chính để có một cuộc sống sung túc hay sao, mà phải làm “nghề đấu tranh, biểu tình” chống chế độ, chống quan thầy Tầu cộng đầy nguy hiểm và bất trắc để kiếm tiền hổ trợ từ hải ngoại mới sống được?
        Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, một người đã có những hoạt động chống chế độ ở trong nước, đã phải vào tù, nay được Hoa Kỳ can thiệp, từ nhà tù đến thẳng Mỹ, chỉ vì công khai nhận mình là đảng viên Việt Tân, thế là bị những người quốc gia chống Việt Tân “đánh lây”, qua các bài viết và hành động chống phá mỗi khi Bà đến hoạt động ra mắt ở nơi nào.
       Đến như Luật sư Cù Huy Hà Vũ, chỉ vì một vài quan điểm trong bài tự bào chữa như một thủ thuật biện luận (không chống đảng Cộng sản, ca ngợi ông Hồ đã ban hành một Hiến Pháp dân chủ đa nguyên năm 1946…) thế mà đã có một số bài gây hoài nghi Ls. Cù Huy Hà Vũ như là một “nhà dân chủ cuội”,  đòi Cù Huy Hà Vũ phải thể hiện quan điểm chống cộng triệt để như họ. Đây là một đòi hỏi quá đáng đối với Ls. Cù Huy Hà Vũ, gốc con của một công thần của chế độ, một đảng viên CS, sinh ra, lớn lên và được giáo dục trong lòng chế độ, nhờ hấp thụ sau cùng nền giáo dục tự do,nhân bản, khai phóng ở Pháp, đã phản tình có mức độ, tất nhiên không thể có quan điểm chống cộng triệt để như họ. Chính cách đối xử chủ quan này có thể làm mất đi một nhân tố tích cực từ trong lòng chế độ, bất lợi cho công cuộc chống cộng để dân chủ hoá đất nước.
        Thật đáng buồn và lo ngại hơn, là Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, sáng lập Cao Trào Nhân Bản, một người quốc gia chống cộng có trí tuệ còn ở trong nước, phải tù đầy nhiều lần và nhiều năm, được công luận quốc tế và trong nước biết tiếng, bảo vệ, ca ngợi;từng từ chối cơ hội ra nước ngoài khi được sự can thiệp quốc tế…vậy mà trên mạng cũng đã có những bài viết theo kiểu “Đặc tình truyền thông Việt cộng”, nội dung xuyên tạc lập trường, quan điểm và phương thức đấu tranh ôn hoà để chuyển hoá chế độ độc tài toàn trị CS qua dân chủ đa nguyên. (như bài Bộ mặt thật của Nguyễn Đan Quế - Thế Nào Là Tù Cải Tạo?” của  Hàn Giang Trần Lệ Tuyền (? ? ?…) 
        Một điển hình khác là Giáo sư Nguyễn Chính Kết một thành viên lãnh đạo Khối 8406, một nhà dân chủ trong nước đã đào thoát được ra nước ngoài cách nay ít năm, nay đang định cư ở Houston, Texas, Hoa Kỳ và là đại diện Khối 8406 tại hải ngoại.Từ ngày ra hải ngoại, Gs Nguyễn Chính Kết tiếp tục các hoạt động đấu tranh chống cộng, thực hiện tôn chỉ mục đích đấu tranh của Khối 8406, phù hợp với mục đích và lý tưởng chung người Việt Quốc Gia hải ngoại: chống độc tài toàn trị Việt cộng, dân chủ hoá đất nước trong một chế độ dân chủ đa nguyên. Giáo sư Nguyễn Chính Kết cũng đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng tấn công triệt hạ bằng cái mũ “Dân chủ cuội, được Việt cộng gài ra nước ngoại làm nhiệm vụ”…..
        Tựu chung độc giả có thể duyệt lại để thấy:
*Hầu hết các Tổ chức Cộng Đồng người Việt Quốc Gia, các chính đảng và tổ chức đấu tranh chống cộng, các Giáo Hội, các hiệp hội ái hữu quân đội cũng như dân sự, cũng như tất cả các nhân sự lãnh đạo đấu tranh của các tổ chức chính trị, tôn giáo, ái hữu, xã hội, nghề nghiệp ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” tấn công và gặt hái hiệu quả như thế nào.
* Hầu hết các cá nhân gốc quốc gia chống cộng ở hải ngoại,  các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước gốc dân thường hay cựu đảng viên cộng sản phản tỉnh… tất cả cũng đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” đánh phá, bôi bẩn hạ nhục như thế nào.
     Để thấy những người quốc gia nào chủ trương giải quyết mâu thuẫn, tư thù cá nhân hay bất đồng quan điểm chống cộng theo kiểu “Đặc tình truyền thông Việt cộng”,  chỉ có lợi cho Việt cộng, mà hoàn toàn bất lợi và tác hại cho công cuộc chống cộng vì mục tiêu dân chủ hoá Quê Mẹ Việt Nam, rất cần sự đoàn kết thống nhất toàn lực chống cộng để thắng cộng trong giai đoạn chống cộng cuối cùng này.
       Vây chúng ta phải làm gì để vô hiệu hoá tác hại của “Đặc tình truyền thông Việt cộng”?

III/- LÀM THẾ NÀO ĐỂ VÔ HIỆU HOÁ TÁC HẠI CỦA “ĐẶC TÌNH
       TRUYỀN THÔNG VIỆT CỘNG”?     
      
          Một khi biết rõ các hình thức, kỹ thuật của “Đặc tình truyền thông Việt cộng” nhằm thực hiện ý đồ gì, bất cứ người Việt Nam nào có chung mục tiêu chống cộng để  dân chủ hoá đất nước…Tất cả đều có thể góp sức làm vô hiệu tác hại của “Đặc tình truyền thông Việt cộng”, nếu có quyết tâm, cảnh giác, tự giác và tự chế thực hiện đối sách “Tách đối phương, tương kính chiến hữu, chĩa mũi nhọn vào một kẻ thù.”, tạm gọi là “Đối sách 3 mặt, 7 điểm”.
      * 3 mặt trên bình diện lý luận:
     1.- Đối với địch: Tách đối phương là tách “Đặc tình truyền thông Việt cộng” ra khỏi “Truyền thông Quốc gia” . Nói nôm na là “Tát cạn áo bắt cá” ( tương tự như quốc sách Ấp Chiến Lược trước đây tách Việt cộng ra khỏi dân để dễ tiêu diệt). Nghĩa là làm cho “Trung tâm phát tuyến trung ương” từ trong nước, qua các trạm  “Trung chuyển” ở hại ngoại của Việt cộng (Như các “trạm trung chuyển”ở Châu Âu (Anh), Úc,Canada,Hoa Kỳ (California) các phương tiện tryền thông (các đài phát thanh, truyền hình, diễn đàn internet, các địa chỉ email… và các cá nhân tên thật, tên giả làm nhiệm vụ chuyển tải các bài viết, tài liệu, hình ảnh duới hình thức, kỹ thuật tuyên truyền “Đen” hay “xám”…) phải lộ nguyên hình là những công cụ thực hiện “Đặc tình truyền thông chính quy Việt cộng” (khác với những ngươi quốc gia vô tình thực hiện “Đặc tình truyền thông Việt cộng”)để nhận diện, cô lập, làm mất tác dụng phá hoại.
  2.Đối với Ta: - Tương kính chiến hữu, mỗi khi có mâu thuẫn cá nhân hay bất đồng về quan điểm, phương thức chống cộng cần giải quyết ôn hoà,trong tình chiến hữu tương kính nhau, không dùng những phương tiện truyền thông với những ngôn từ thiếu văn hoá lăng mạ nhau, không bịa đặt chụp mũ triệt hạ nhau bằng mọi cách với lòng căm thù như căm thù kẻ địch. Vì chính cách cư xử này đã giúp cho “Đặc tình truyền thông Việt cộng” lợi dụng khai thác triệt để, phân hoá nội bộ Việt quốc.
  3.- Đối với kẻ thù:- Chĩa mũi nhọn vào một kẻ thù duy nhất.
       Đó là đối phương Việt cộng và chỉ dùng các phương tiện truyền thông tấn công Việt cộng mà thôi. Nội bộ Việt quốc “không đánh nhau” theo kiểu “Đặc tình truyền thông Việt cộng” nữa.
    * 7 điểm trên bình diện thực hiện. 
       Chúng tôi đề nghị mọi người có chung mặt trận chống cộng vì tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam, cần cảnh giác, tự giác, tự chế và đồng bộ thực hiện 7 điểm sau đây:
   1/- Người Việt Quốc gia chân chính không nói, không viết, không phổ biến những bài viết, tài liệu, hình ảnh xét ra bất lợi cho công cuộc chống cộng (gây ngộ nhận, hiểu lầm, phân hoá nội bộ đoàn thể, hận thù, mất đoàn kết giưa cá nhân, chỉ có lợi cho Việt cộng hay Việt quốc lợi ít, Việt cộng lợi nhiều).
   2/- Tất cả các phương tiện truyền thông quốc gia (báo chí, truyền thanh truyền hình, nhất là các diễn đàn internet…) cần cảnh giác, tự nguyện tự giác không đăng tải hay chuyển tải những bài viết, tài liệu, hình ảnh có nội dung đả kích tôn giáo (ly gián các tôn giáo,gây mâu thuẫn nội bộ Giáo hội…), chống phá các cá nhân hay các tổ chức chính trị,văn hoá xã hội, tôn giáo, và các nhà lãnh đạo các tổ chức này, với những ngôn từ thiếu văn hoá có tính nhục mạ, khủng bố tinh thần kẻ khác, bằng hình thức, kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng” (để ly gián giữa các cá nhân và làm suy yếu các lực lượng chống cộng…)
  3/- Tuyệt đối không dùng các phương tiện truyền thông (nhất là báo chí, mạng lưới  internet…) để giải quyết các mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn nội bộ tổ chức hay đoàn thể của mình theo hình thức, kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng”. Mọi mâu thuẫn này cần được giải quyết âm thầm, tương nhương, theo những cách thức khác hữu hiệu, khả thi, mà “Đặc tình truyền thông Việt cộng” không thể lợi dụng khai thác.
   4/- Tuyệt đối “người Quốc gia không đánh người Quốc gia”, không dùng các hình thức và kỹ thuật “Đặc tình truyền thông Việt cộng” để “đánh lẫn nhau” mỗi khi có mâu thuẫn cá nhân hay bất đồng quan điểm, phương thức chống cộng.
        Bởi vì, người Quốc gia có cùng chiến tuyến chống cộng cho  tự do, dân chủ, nhân quyền, cần thể hiện tình chiến hữu tương thân tương kính bằng hành động cụ thể. Vì hầu hết những chiến hữu chống cộng hôm nay, đều là những chiến sĩ chống cộng trong cuộc chiến chống cộng hôm qua.
        Tất cả đều đã theo đuổi cuộc trường chinh chống cộng trong nhiều thập niên qua, chẳng lẽ đã quên niềm đau uất hận chung vì đã buộc là kẻ thua trận  trong cuộc chiến mà lý ra Việt quốc chính nghĩa phải là kẻ chiến thắng Việt cộng phi nghĩa? Chẳng lẽ tất cả đang được sống an vui hạnh phúc trong bầu không khí tự do hải ngoại, lại đã quên hết những năm tháng tù đầy trong “các trại tù cải tạo” bị đối phương đầy ải, hành hạ, xỉ nhục, để mỗi khi có mâu thuẫn, bất đồng đã trút niềm uất hận lên đầu các chiến hữu của mình thay vì Việt cộng hay sao? Chẳng lẽ những chiến hữu có chung niềm tự hào xen lẫn uất hận, tủi nhục của quá khứ mà nay không thể đoàn kết, thương yêu nhau tạo sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng trong trận chiến chống cộng cuối cùng này?
   5/- Tất cả mọi người có chung chiến tuyến chống cộng chỉ nói, viết và phổ biến các bài viết, tài liệu hình ảnh chuyển tải qua các phương tiện truyền thông chỉ nhắm vào Việt cộng và có hại cho Việt cộng, có lợi cho công cuộc chống cộng vì tự do,dân chủ, nhân quyền của Việt quốc. Nghĩa là nội bộ Việt quốc không đánh nhau nữa, mà dồn toàn tâm toàn lực đánh Việt cộng và chỉ đánh Việt cộng mà thôi.
   6/-Tất cả người Việt quốc gia chỉ nói, viết và phổ biến các bài viết, tài liệu hình ảnh qua các phương tiện truyền thông thể hiện chính nghĩa quốc gia, những ưu điểm, tốt đẹp của chính quyền và các nhà lãnh đạo quốc gia trong lịch sử xa gần, nhất là thời Việt Nam Cộng Hoà.
     Nghĩa là, không bới móc, phê phán nặng nề những khuyết điểm, yếu kém của chính quyền quốc gia cũng như các nhà lãnh đạo quốc gia trong quá khứ (chẳng có lợi gì cho hiện tại), nhất là những nhân vật còn sự bất đồng trong công luận quần chúng về việc đánh giá công tội như các vị cố Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, các vị Tướng lãnh QLVNCH còn sống hay đã qua đời…  (dù đó là sự thật và sự thật này hãy để mai này lịch sử phán  định, đem ra chỉ trích công khai trong lúc cuộc chiến chống cộng đang tiếp diễn là không cần thiết, chỉ có lợi cho đối phương Việt cộng , bất lợi cho Việt quốc, gây xào xáo nội bộ Việt quốc. Nếu có đưa ra để xét định rút kinh nghiệm cho đấu tranh chống cộng, thì chỉ trong phạm vi nội bộ các chính đảng hay các tổ chức đấu tranh…)
       Trong một số mâu thuẫn cá nhân hay đoàn thể về quan điểm và phương thức chống cộng, cần phải phê phán nghiêm túc (đúng sai, phải trái, lợi hại cho công cuộc chống cộng, với thiện chí xây dựng),để làm gương, rút kinh nghiệm, thì cần dùng lý lẽ, bằng chứng xác thực có tính thuyết phục, không nên dùng ngôn ngữ hình tượng có tính lăng mạ, áp đặt và bịa đặt những điều không có truy chụp cho nhau, xúc phạm nặng nề nhân cách và nhân phẩm của nhau.
         Đan cử về một cá nhân là Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người từng giữ vai trò nhà lãnh đạo hàng đầu chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hoà, những đã có hành động phản bội chiến hữu từng chiến đấu cho lý tưởng chống cộng bảo vệ tự do dân chủ và nay vẫn đang tiếp tục cuộc chiến chính nghĩa quốc gia, chống lại chế độ phi nghĩa Việt cộng.
        Chúng ta  phẫn nộ là điều tất nhiên về mặt cảm tính, và về mặt lý tính, chúng ta có quyền phê bình, chỉ trích lên án Tướng Kỳ, vì đã làm một việc mất tư cách, xỉ nhục Quốc thể,làm điều nghịch lý “Chính đầu hàng tà”(không thể biện minh bằng nỗ lực cá nhân cho “hoà giải dân tộc”.Vì thực tế Viêt cộng không bao giờ muốn và chưa bao giờ chính thức đưa ra và  thực hiện “hoà giải dân tộc”theo đúng ý nghĩa của cụm từ này, hoà giải chỉ là chiêu bài bịp bợm của Việt cộng để chiêu hồi người quốc gia về hợp tác với chúng. Ai cũng biết thế chẳng lẽ Ông Kỳ ngây thơ?) khi một người từng là lãnh đạo hàng đầu phe chính nghĩa (Quốc gia), nay  về bắt tay với phe tà nghĩa  (Việt cộng) với những lời lẽ “chửi” lại phe “Chính Quốc”, ca ngợi phe “Tà Cộng”.
         Tuy nhiên, về lý tính, Tướng Kỳ có quyền làm (nhưng không nên làm thế ), kể cả quyền thay đổi lập trường chính trị, kể cả việc gia nhập Cộng đảng Việt Nam nếu ông ta muốn (theo tinh thần dân chủ đa nguyên và sinh hoạt truyền thống tại các nước dân chủ.); Nhưng với tư cách người quốc gia, chúng ta có quyền bầy tỏ thái độ, lên tiếng phê bình, chỉ trích, lên án, để bảo vệ chính nghĩa Quốc gia và danh dự của người Quốc gia. Tuy nhiên, theo thiển ý, các bài viết của người quốc gia không nên xử dụng những ngôn từ thiếu văn hoá để xỉ nhục quá đáng (gọi ông Kỳ là Chó…) xúc phạm đến nhân phẩm con  người.
         Bởi vì, dù mất nhân cách, đương sự vẫn còn nhân phẩm của một con người, vừa mới chết ở tuổi ngoài 80. Bởi vì sự nguyền rủa thậm từ, với những ngôn ngữ thiếu văn hoá, xúc phạm nặng nề nhân phẩm con người, không có lợi ích thêm cho công cuộc chống cộng, chỉ có tác dụng thoả mãn sự căm tức với đương sự, không phản ánh bản chất nhân bản, nhân đạo của phe quốc gia và người quốc gia chân chính thực hiện chủ trương, mục tiêu, lý tưởng đấu tranh bằng đường lối chính trị vương đạo khác với đường lối bá đạo của Việt cộng.
         Chính bản chất nhân bản, nhân đạo và đường lối chính trị vương đạo đã và ngày một khẳng định sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia mà chúng ta theo đuổi trong nhiều thập nên qua, dù phe bá đạo Việt cộng tạm thời đang nắm chính quyền, vốn có nhiều ưu thế trong tương quan lực lượng Quốc- Cộng.
        Và cũng chính đường lối đấu tranh chính trị vương đạo của Quốc gia trong giai đoạn chống cộng để khẳng định chân lý, ai thắng ai, hay để giành chính quyền(đối với các chính đảng quốc gia, người quốc gia có mục tiêu này), sẽ tạo niềm tin trong nhân dân về bản chất nhân bản, nhân đạo cùng đường lối cai trị vương đạo mai này củaViệt quốc, khác hẳn đường lối cai trị bất nhân, bá đạo và tàn bạo bao lâu nay của Việt cộng
         Một đan cử khác về một hành vi tập thể mới đây của 36 nhà trí thức hải ngoại viết Thư ngỏ (không phải kiến nghị như một số phản ánh sai) ngày 21-8-2011 gửi cho  các nhà lãnh đạo hàng đầu cơ chế đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam hiện nay.
         Đọc danh sách 36 nhà trí thức ký tên dưới Thư Ngỏ, người ta thấy số đông là những nhà trí thức khoa bảng hàng đầu của Việt Nam Cộng Hoà trước đây, được nhiều người biết tiếng và kính nể.
      Nội dung Thư Ngỏ bầy tỏ sự tán đồng nội dung các kiến nghị của các nhà trí thức trong nước liên quan đến những vấn đề nghiêm trọng của đất nước về đối ngoại (ý đồ của Tầu cộng và hành động xâm lược lãnh thổ, biển đảo của Việt Nam…)  đối nội (chế độ chính trị và chính sách cai trị của Việt cộng đối vớ nhân dân trong nước và chính sách thu hút trí thức hải ngoại…). Để giải quyết các vấn đề này của đất nước, Thư ngỏ đề nghị đối sách 4 điểm(1- Đối với Trung Quốc; 2- Đối với ASEAN và các nước khác; 3. Đối với nhân dân trong nước; 4. Đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài)
         Mặc dầu nội dung Thư Ngỏ đề cập đến những vấn đề nghiêm trọng của Đất nước, người Việt Nam nào trong nước cũng như hải ngoại còn quan tâm đến vận mạng dân tộc đều biết; Những điểm đề nghị với các lãnh đạo tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam cũng không có gì mới, cũng chẳng trái với lập trường, quan điểm chống cộng của người Việt quốc gia chân chính, song đã bị công luận chống đối vì hình thức Thư ngỏ đã vi phạm lập trường, quan điểm chống cộng có tính nguyên tắc của Việt quốc, khi dùng hình thức Thư Ngỏ “Kính gửi” đến các nhà lãnh đạo hàng đầu cơ chế đảng và nhà nước Việt cộng (Tổng Bí Thư Cộng đảng, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ Tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao của nước “Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”)
         Bởi vì lập trường, quan điểm có tính nguyên tắc bất di bất dịch của Việt quốc bao lâu nay vẫn là: không nhìn nhận chế độ chính trị và chính quyền Việt cộng là hợp pháp và chính đáng đối với Quốc dân Việt Nam (những công dân của Tổ quốc Việt Nam), dù được coi là hợp pháp theo Công pháp quốc tế (đối ngoại). Vì rằng, chế độ ấy đã do Cộng đảng Việt Nam áp đặt, trái với ý nguyện của nhân dân, với một chính quyền không phải của dân, do dân và vì dân, mà là một chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc trường chinh chống cộng của người Việt quốc gia chính là để phủ định và lật độ chế độ bất hợp pháp và không chính đáng này.
         Hình thức Thư ngỏ  của 36 nhà trí thức hải ngoại gửi cho các nhà lãnh đạo hàng đầu đảng và nhà nước Việt cộng bị coi là mặc nhiên thừa nhận tính hợp  pháp và chính danh của chế độ và chính quyền này, nên đã bị công luận tỏ sự bất bình, chống đối là điều dễ hiểu.
         Qua một số email bầy tỏ sự bất bình chống đối, chúng tôi nhận thấy có hai cung cách khác nhau: một nghiêm túc, nhận xét, phê bình có tính khách quan, tương kính; hai nhận xét phê bình nặng tính chủ quan, bất kính qua các ngôn từ xúc phạm nhân cách và nhân phẩm của 36 nhà trí thức Việt Nam hải ngoại.
        Bởi vì, việc làm của tập thể trí thức này, chỉ là sự sai sót về mặt bút pháp ( đúng ra nên dùng hình thức Tuyên Ngôn, Tuyên Cáo hay Bản Lên Tiếng). Nhưng sự sai sót này không làm mất nhân cách và nhân phẩm của một tập thể trí thức, trong đó hầu hết ( không phải là tất cả) là những trí thức khoa bảng hàng đầu khả kính thời Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), từng có những đóng góp  ít nhiều trên nhiều lãnh vực cho chế độ dân chủ pháp trị VNCH. Họ là những người quốc gia chân chính. Nội dung thư ngỏ cho thấy, xuất phát từ lòng yêu nước, họ đã chỉ nói lên sự thao thức nằm trong mối lo âu chung của quốc dân Việt Nam về sự tồn vong, hưng thịnh của vận mạng quốc gia dân tộc. Họ phải lên tiếng và cần lên tiếng. Chỉ tiếc rằng cách lên tiếng của họ như thế sai nguyên tắc chống cộng của người Việt Quốc gia. Nhưng không đến độ phải xử dụng thậm từ có tính lăng nhục, xúc phạm đến nhân cách và nhân phẩm của họ như thế. Đây là một cách thể hiện thái độ bất đồng không đúng bao lâu nay của một số người Việt Quốc gia có khuynh hướng bảo thủ và chống cộng cực đoan, rất dễ bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” lợi dụng, khai thác theo ý đồ của chúng.
         Xin trích một email thể hiện sự bất đồng trong nội bộ người Quốc gia chống cộng một cách nghiêm túc, nhận xét, phê bình có tính khách quan, tương kính:
“ Kính thưa Quý Vị Quan Tâm :
Trước hết, chúng tôi xin tán thành nội dung chính làm thay đổi chế độ của bản Kiến Nghị và ghi nhận thiện chí của Quý Vị đã can đảm ký tên vào bản Kiến Nghị.
Tuy nhiên, chúng tôi hoàn toàn không tán thành việc dùng hai chữ "Kiến Nghị" và gởi cho "ngụy quyền" CS Hànội. Bởi lý do thật đơn giản :
1.- Đối với Quốc Dân VN, tập đoàn CS Hànội là một bọn "cướp nước", Việt gian phản quốc. Chúng không bao giờ được coi là một "chánh quyền hợp pháp" đại diện cho Quốc Dân Việt Nam. Chúng ta gởi kiến nghị cho chúng tức là gián tiếp "nhìn nhận" cái vai trò lãnh đạo bất hợp pháp của chúng !
Chúng ta dứt khoát không đi van xin hay lạy lục kẻ thù CS Hànội tay sai Tàu cộng ban phát ân huệ.
2.- Do đó, thay vì gởi "Kiến Nghị", có lẽ Quý Vị ấy nên ra một "Bản Nhận Định Về Hiện Tình Đất Nước Hiện Nay của giới Trí Thức Hải Ngoại.".. thì có lẽ Chính Danh hơn !!!
Trân trọng.
GÓP GIÓ 1-9-2011”

   7/-Trên địa bàn truyền thông thực (khác với địa bàn truyền thông ảo internet) là các Cộng Đồng Người Việt Quốc gia chống cộng, người quốc gia chân chính, các chính đảng, các tổ chức chính trị, tôn giáo, xã hội phải luôn đề cao cảnh giác, phát hiện kịp thời những cá nhân đã nhiều lần, liên tục có những biểu hiện khác thường, qua lời nói, hành động, bài viết, theo kiểu “Đặc tình truyền thông Việt cộng”, nhằm gây chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, phân hoá, bất ổn Cộng đồng, hoàn toàn bất lợi cho công cuộc chống cộng. Một khi phát hiện, tìm cách theo dõi, cô lập và vô hiệu hoá các hoạt động chống phá của chúng.
    Thông thường ở từng địa phương, với thời gian theo dõi lâu dài, rất dễ phát hiện những tên “Đặc tình truyền thông Việt cộng” dù chúng khéo che đậy bằng vỏ bọc người quốc gia chống cộng cách mấy, cũng có lúc sơ hở, như cây kim bọc lâu ngày cũng bị rỉ xét. Thiết tưởng, mỗi Cộng Đồng, nhất là các chính đảng Quốc gia,  cần liên kết thành lập một bộ phận đặc trách làm nhiệm vụ “an ninh tình báo” theo dõi, nghiên cứu để triệt phá kịp thời những ổ “Đặc tình truyền thông Việt cộng” trong các Cộng Đồng người Việt Quốc Gia Chống Cộng ở hải ngoại.

        *Tóm lại,chúng ta hãy hình dung: nếu tất cả người Việt quốc gia thực hiện triệt để các điểm đề nghị trên, “Đặc tình truyền thông Việt cộng” sẽ phải lộ diện. Bởi vì trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên mang internet toàn cầu, chỉ còn thấy những bài viết, tài liệu, hình ảnh  của những tên “Đặc tình truyền thông Việt cộng”. Như thế là đã tách biệt, cô lập được đối phương “Đặc tình truyền thôngViệt cộng”, dù không tiêu diệt được đối phương (vì cuộc chiến Quốc- Cộng còn đang tiếp diễn, Việt cộng vẫn có thể làm và có quyền làm trong khung cảnh các nước dân chủ để đánh phá Việt quốc…) . Thế nhưng một khi lộ diện, mọi người sẽ biết, cảnh giác, không nghe, không đọc, không tin vào các bài viết, tài liệu hình ảnh do “đặc tình truyền thông Việt cộng” tung ra để gây ngộ nhận, mâu thuẫn, đánh phá lẫn nhau trong nội bộ Việt quốc.
         Chúng tôi thiết tưởng mọi người quốc gia chân chính hãy quyết tâm và chỉ nên nói, viết và hành động như một người quốc gia chân chính (như chúng tôi đã định nghĩa trong phần mở đầu bài viết này và đã thực hiện gần 20 năm qua ở hải ngoại thấy có hiệu quả).
       Nếu chúng ta làm được như vậy, những trung tâm, những cá nhân làm nhiệm vụ “Đặc tình truyền thông Việt cộng” sẽ lộ nguyên hình trên các phương tiện truyền thông”. Vì một khi mọi người Quốc gia chân chính đã cảnh giác, tự nguyện, tự giác, tự chế không dùng các phương tiện truyền thông, (nhất là không gian ảo internet Việt cộng dễ ẩn núp) để “đánh phá nhau” hầu  giải quyết mâu thuẫn cá nhân hay bất đồng quan điểm, phương thức chống cộng (vì chẳng giải quyết được gì, chỉ tạo môi trường thuận lợi cho “Đặc tình truyền thông Việt cộng” quấy phá, phát huy tác dụng).
         Nếu sau đó, những kẻ nào tiếp tục “đánh nhau” nhân danh người quốc gia, lợi ích chống cộng (thực tế chỉ có lợi cho Việt công) để gây bất ổn, phân hoá trong các Cộng Đồng và các tổ chức,lực lượng chống cộng, không ai khác hơn là chính Việt cộng vậy?

III/- KẾT LUẬN:
         Chẳng cần nói ra thì ai cũng biết: Nếu trong giai đoạn chiến tranh chống cộng để diệt cộng bảo vệ chế độ dân chủ VNCH và phần đất tự do Miền Nam Việt Nam trước đây, tư thế và tương quan lực lượng Quốc- Cộng nghiêng ngửa, với ưu thế về phía chính nghĩa Quốc gia, thì trong giai đoạn đấu tranh chống cộng để dân chủ hoá đất nước hiện nay, tư thế và tương quan lực lượng Quốc – Cộng là không cân sức, ưu thế về phía Việt cộng.
         Bởi vì, sau khi Việt quốc đã thất bại trọng việc đánh bại cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt, Việt cộng đã thống trị được toàn cõi đất nước, có chính quyền với các lực lượng công an, quân đội bảo vệ và thế quốc tế với tư cách là một quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc. Trong khi Việt quốc nay chỉ là một tập thể phân tán, không có tổ chức thống nhất như một pháp nhân và có hệ thống tổ chức chặt chẽ như một chính quyền, lại không có cơ quan dầu não lãnh đạo công cuộc chống cộng chung như bộ tham mưu hoạch định chiến lược, chiến thuật chống cộng chung, để được triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả và hiệu quả có thể kiểm chứng được.
         Thế nhưng, dù trong thế yếu, sở dĩ Việt quốc chúng ta tiếp tục đấu tranh chống Việt cộng để dân chủ hoá đất nước, vì chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia, của chân lý (chính nghĩa quốc gia) tât thắng phi lý (tà nghĩa cộng sản).
         Thế nhưng sự tất thắng của chính nghĩa Quốc gia mới chỉ là “điều kiện cần” trên nguyên tắc, thực tế muốn giành được thắng lợi sau cùng còn phải có thêm những “điều kiện đủ”.Trong tương quan lực lượng Quốc- Cộng hiện nay, sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia không hệ tại ở sức mạnh quân sự (chúng ta không có), mà hệ tại ở sức mạnh tổng hợp từ hai nguồn: sức mạnh quốc dân trong và ngoài nước(nội lực) và sức hậu thuẫn của chiều hướng quốc tế (ngoại lực) đã và đang có nhiều thuận lợi giúp đưa cuộc trường chinh kháng cộng đến thắng lợi sau cùng. Đó là  “những điều kiện đủ” mà nhân dân một số nước vùng Trung Đông và Bắc Phi đã thực hiện thành công qua cuộc “Cách mạng Hoa lài” của họ.
         Nhưng muốn huy động được sức mạnh tổng hợp này thừa đủ làm tiêu vong chế đô Việt cộng, Việt quốc phải chủ động tấn công và tấn công hiệu quả trên ba mặt trận:Chính trị, ngoại giao và truyền thông.  
         Đến đây một câu hỏi được đặt ra: Sau 36 năm tiến hành  giai đoạn đấu tranh chống cộng để dân chủ hoá đất nước, giai đoạn cuối cùng của cuộc trường chinh chống cộng từ nhiều thập niên qua, Việt quốc chúng ta đã chủ động  tấn công và tấn công có hiệu quả ra sao trên cả ba mặt trận chính trị, ngoại giao và truyền thông?
         Câu trả lời thuộc trách nhiệm của bộ phận lãnh đạo công cuộc chống cộng, bao gồm các chính đảng quốc gia, các tổ chức và quần chúng đấu tranh chống cộng trong cũng như ngoài nước.
         Riêng mặt trận truyền thông, thực tế cho thấy, “Truyền thông quốc gia” từ lâu đã và đang bị “Đặc tình truyền thông Việt cộng” lũng đoạn. Nếu chúng ta, các tổ chức chính trị, tôn giáo xã hội cũng như những người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản có chung mục tiêu chống cộng vì dân chủ, nhân quyền cho đất nước, không cảnh giác và  tự giác, thực hiện một đối sách hữu hiệu, chúng ta sẽ mất thế chủ động trên mặt trận truyền thông, một trong 3 mặt trận quan yếu, căn bản  bảo đảm chiến thắng sau cùng cho sự nghiệp chống cộng vì dân chủ và phát triển toàn diện cho Quê Mẹ Việt Nam./.
                   Thiện Ý
Houston, ngày 4 tháng 9 năm 2011



Thiện Ý