Tuesday, November 27, 2018

THÁNG 11 NGHĨ VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946.



THÁNG 11 NGHĨ VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946.

Thiện Ý

Trong bài trước, chúng tôi đã viết về nền cộng hoà được xác lập và thực hiện đầu tiên tại Việt Nam là bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam. Mặc dầu trước đó, tại Việt Nam đã có một bản Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng thông qua ngày 9/ 11/ 1946, tuy có xây dựng trên nền tảng cộng hòa thật, theo đúng ý nghĩa chân chính của từ ngữ cộng hòa, nhưng chưa bao giờ được thực thi, nên chưa có giá trị pháp lý và thực tế, mà chỉ mang ý nghĩa lịch sử và chính trị. Vì sao?
Bài viết lần lượt trình bày:
-         Bối cảnh lịch sử và sự hình thành Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946.
-         Nội dung Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946
-         Nhận định và so sánh giá trị lập hiến của Hiến pháp 1946 với các bản Hiến pháp sau đó của đảng cộng sản Việt Nam.

I/- BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA  1946.

1.- Bối cảnh lịch sử.
     Theo sử liệu tổng hợp, thì ngày 11-3-1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20, Nhật đã trao trả độc lập cho vua Bảo Đại. Sau đó chính phủ quốc gia Trần Trọng Kim được thành lập.

Tháng 8 năm 1945, lợi dụng tình hình tranh tối tranh sáng, sự rụt rè của chính quyền quốc gia Trần Trọng Kim và sự phân tán của các chính đảng quốc gia,  đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN)  nhờ tính tổ chức cao và kinh nghiệm đấu tranh lật đổ, đã cướp được chính quyền từ tay chính quyền chính thống quốc gia Trần Trọng Kim mới tiếp nhận độc lập từ tay Nhật chưa đầy 6 tháng, ép của Vua Bảo Đại thoái vị. Việt Minh cộng sản gọi cuộc cướp chính quyền không đổ máu này là “Cách mạng Tháng 8” như là cuộc “Cách mạng Tháng 10 Nga” của đảng cộng sản Bolsevick Nga lật đổ chế độ Nga Hoàng cướp chính quyền năm 1917, thành lập nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Xô-Viết” (gọi tắt là Liên Xô).

Nhưng vì thế lực của đảng CSVN vào thời khoảng này còn yếu kém so với các chính đảng quốc gia; và cũng vì quốc tế đang coi chủ nghĩa cộng sản là một hiểm họa toàn cầu của nhân loại cần ngăn chặn loại trừ;  nên lãnh tụ cộng đảng Việt Nam Hồ Chí Minh buộc lòng phải đứng ra thành lập một chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng và sau đó đẻ ra một Quốc hội Liên hiệp Quốc-Cộng tiền định ngụy dân tộc,ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ (1)
Sau khi cướp được chính quyền không đổ máu, bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân biểu tình khắp nơi, ngày 02/ 09/ 1945, lãnh tụ Cộng đảng Việt Nam Hồ Chí Minh  đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp đầu tiên của chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt, một trong sáu nhiệm vụ đó là xây dựng hiến pháp.

2.- Sự hình thành Hiến Pháp 1946.

Ngày 20/ 9/ 1945, Chính phủ Lâm thời ra sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp (2). Ngày 9/ 11/ 1946, sau 10 ngày làm việc, tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng, khoá.1, Quốc hội đã thông qua bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 19/ 12/ 1946 Việt Minh cộng sản phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Do hoàn cảnh chiến tranh hiến pháp 1946 không được công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện Nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, chính phủ và quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng sau đó do Việt Minh (mặt nạ của đảng CSVN) độc chiếm, lũng đoạn, dưới sự chủ đạo kháng chiến chống Pháp của lãnh tụ cộng đảng Hồ Chí Minh và đảng CSVN.
Thế nhưng, Việt Minh cộng sản luôn dùng Hiến pháp 1946 để “ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa” để che dấu bộ mặt cộng sản trước nhân dân (vốn sợ chủ nghĩa cộng sản tam vô: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo)) và trước thế giới (vốn coi chủ nghĩa cộng sản là hiểm họa toàn cầu). Thực tâm Ông Hồ và đảng CSVN không bao giờ muốn thực hiện bản Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946 tại Việt Nam. Điều họ muốn là phải thực hiện một bản Hiến pháp Xã hôi Chủ nghĩa rặp khuôn bản Hiến pháp Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-Viết 1936 của đảng cộng sản Liên-Xô. Điều muốn này của ông Hồ và đảng CSVN đã được thực hiện sau khi cướp được chính quyền trên một nửa nước Miền Bắc qua Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam, với các bản hiến pháp 1959, 1980, 1992…
Qua nội dung các bản Hiến pháp này của đảng CSVN, dù hình thức Hiến pháp 1959 vẫn giữ bảng hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa” của Hiến pháp 1946, để che đây bộ mặt “ngụy dân tộc” để tiến hành cuộc chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam dưới ngọn cờ chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc.Thế nhưng sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam bằng bạo lực quân sự, đã lộ nguyên hình là chế độ độc tài toàn trị cộng sản mệnh danh “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa”, vẫn còn chút “ngụy cộng hòa” (chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân). Vì thực chất cũng như thực tế chế độ mệnh danh “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” từ quá khứ đến hiện tại chỉ là một “chế độ độc tài Đảng trị hay toàn trị cộng sản”, với chủ quyền tuyệt đối thuộc về đảng CSVN; độc lập, tự do, dân chủ, nhân quyền chỉ là bánh vẽ, biến thành ân huệ của nhà cầm quyền CSVN ban phát cho người dân nào chỉ biết phục tùng mệnh lệnh của “Đảng và Nhà nước ta” mà thôi ! Kẻ nào giám chống lại sẽ bị đàn áp dã man bởi các  công cụ “chuyên chính vô sản (cộng sản)” là mật vụ, công an, quân đội, tóa án, nhà tù, pháp trường…

II/- NỘI DUNG HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946

Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là một văn bản lập hiến tương đối ngắn, gọn, song khá đầy đủ những điều cơ bản hiến định. Nội dung Hiến pháp gồm có lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.
Lời nói đầu khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của bản Hiến pháp này:
   1.-"Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai
        cấp, tôn giáo.”
   2.-"Bảo đảm các quyền tự do dân chủ”.\.
   3.-"Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân."

Chương I quy định chính thể của Việt Nam là Dân chủ xây dựng trên nề tảng Cộng hòa (Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân).
Chương II quy định nghĩa vụ và quyền lợi công dân, xác nhận sự bình đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.
Chương III quy định về nghị viện nhân dân.(Quốc hội)
Chương IV quy định về chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc
Chương V quy định phương diện hành chính, bộ, tỉnh, huyện, xã; quy định về cơ quan hành chính (ủy ban hành chính và hội đồng nhân dân) các cấp.
Chương VI quy định về cơ quan tư pháp bao gồm toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có quyền phúc quyết hiến pháp của dân.

III/- NHẬN ĐỊNH VỀ BẢN HIẾN PHÁP  1946
     
Nhận định tổng quát của chúng tôi: về hình thức và nội dung, Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946 mang tính tiến bộ, hiện tại vẫn còn phù hợp, nếu được thực thi tại Việt Nam sau khi tu chỉnh để hoàn chỉnh, thích dụng với trình độ dân trí và trào lưu dân chủ thời đại, đáp ứng được khát vọng tự do dân chủ bấy lâu nay của quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Bởi vì, đây đúng là một bản hiến pháp dân chủ xây dựng trên nền tảng cộng hòaChủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân” và quy định tương đối đầy đủ ngắn gọn, các dân quyền cơ bản: dân chủ, dân sinh, nhân quyền ; với các cơ chế tổ chức guồng máy công quyền quốc gia theo nguyên tắc tam quyền phân lập (Lập pháp-Hành pháp-Tư pháp độc lập nhưng không biệt lập) bảo đảm được các quyền tự do dân chủ của người dân. Sở dĩ có được các ưu điểm này, có lẽ là nhờ trong Ban Dự thảo Hiến pháp có một số thành viên là các nhà luật học, trong đó chúng tôi thấy có tên của Tiến sĩ Nguyễn Cao Hách, sau năm 1954 đã là một trong các Giáo sư Khoa Trưởng Đại học Luật khoa Sài gòn, nay đã quá vãng.

Theo đánh giá của nhiều người thì đây là một văn bản Hiến pháp tiến bộ nhất so với các bản Hiến pháp sau đó cho đến Hiến pháp “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” hiện hành.
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng ở trong nước cho rằng Hiến pháp 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền - "những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ". Điều đó, theo ông được thể hiện ở 5 điểm:
1.    Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân (tức Quốc hội) không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
2.    Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
3.    Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
4.    Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.
5.    Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các cơ quan khác không có quyền can thiệp.
Ts. Dũng đánh giá "Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới".
Giáo sư Trần Ngọc Đường, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội CSVN (năm 2006), đã từng nhận xét đúng khi cho rằng các điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là:Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân; Tư tưởng pháp quyền; Những quy định về quyền con người và đảm bảo quyền công dân; Cơ chế bảo hiến; Sửa đổi hiến pháp.v.v. Nhưng không đúng và chủ quan khi cho rằng Hiến pháp 1946 dựa trên Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam.
Đúng ra phải như nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Đại học Saarland, Cộng hòa Liên bang Đức quốc :Rằng đây là bản hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần "tam quyền phân lập": lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp, và hiến pháp của các nước cộng hòa khác. Điều 1 của Hiến pháp 1946 ghi rõ: "Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa". Nó không hề có một điều khoản nào quy định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà 1959 hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam.(1980-1992-2013) . Ông cho rằng thực tế Hiến pháp 1946 đã có những yếu tố nhất định thể hiện cơ chế phân công quyền lực, kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, thì cho rằng Hiến pháp năm 1946 là "bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất Đông Nam châu Á lúc bấy giờ" và "đã có thể là một bản khế ước tốt để ràng buộc và khống chế công bộc với lợi ích của ông chủ nhân dân". Ông tỏ ý tiếc rằng sáu mươi năm sau Việt Nam "đã không có cơ hội đi xa hơn trong chủ nghĩa lập hiến." Theo ông, Hiến pháp 1946 vẫn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam và "vẫn còn nguyên giá trị cho một xã hội dân chủ pháp quyền ở Việt Nam".
IV/- KẾT LUẬN:

Hiến pháp Viết Nam Dân Chủ Cộng Hòa được hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, nên chưa được ban hành và thực thi, nên không có giá trị pháp lý cũng như thực tế, mà chỉ có ý nghĩa lịch sử và chính trị. Bản Hiến pháp này được các nhà lập hiến soạn thảo trên nền tảng cộng hòa đúng theo ý nghĩa chân chính của từ ngữ “cộng hòa”(chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân), với cơ cấu tổ chức chính quyền dân chủ được thiết định thể hiện và bảo đảm được các quyền tự do dân chủ của người dân buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng, bảo vệ và hành xử (nguyên tắc tam quyền phân lập) .

Tiếc rằng cho đến nay bản Hiến pháp này chưa có cơ may được thực hiện. Vì trước cũng như sau khi cướp được chính quyền, trong nhiều thập niên qua, đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ, ngụy dân tộc” để thực hiện một chế độ độc tài toàn trị cộng sản “Phản cộng hòa, phản dân chủ, phản dân tộc”. Hệ quả tàn hại nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước như thế nào không cần nói ra thì quốc dân Việt Nam từng là nạn nhân đều đã biết rõ qua thực tiễn.

Vì vậy, từ lâu đã có nhiều ý kiến, nhất là ý kiến của chínhnhững người cộng sản phản tỉnh”, đề nghị đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tu chỉnh Hiến pháp hiện hành dựa trên Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946. Đây như là một thông điệp, rằng đã đến lúc, tuy có quá trễ, những chưa quá muộn, đảng CSVN cần “phản tỉnh tập thể”, được thể hiện qua “một quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa” chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay qua chế độ dân chủ pháp trị theo đúng ý nguyện của toàn dân, vì lợi ích quốc gia dân tộc và tương lai của các thế hệ dân Việt mai sau. Tổng bí thư đảng CSVN kiêm Chủ tịch nước “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Nguyễn Phú Trọng và các đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam nghĩ sao? – Bao giờ Việt Nam mới có một chế độ dân chủ pháp trị, với một bản Hiến pháp dân chủ xây dựng trên nền tảng cộng hòa từng được Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xác lập năm 1946, mà chưa thực hiện được?

Thiện Ý
Houston, ngày 9-11-2018

Chú thích:
 (1)- Theo tài liệu lịch sử, thành phần Quốc hội Liên hiệp Quốc-Cộng: cho thấy các chính đảng quốc gia được chia cho 70 đại biểu trên tổng số 403 còn lại là của đảng CSVN  và các tổ chức ngoại vi hay những cá nhân không đảng phái do đảng CSVN chọn lựa và khống chế.
Cụ thể tổng số đại biểu Quốc hội là 403, trong đó có 333 đại biểu được bầu (trá hình tiền định do đảng CSVN lựa chọn đưa vào) bao gồm Việt Minh 120 ghế, Đảng Dân chủ Việt Nam 46 ghế, Đảng Xã hội Việt Nam 24 ghế, không đảng phái 143 ghế. Số đại biểu không qua bầu cử là 70 người gồm 20 đại biểu thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) và 50 đại biểu thuộc Việt Nam Quốc dân Ðảng (Việt Quốc). Việc có các đại biểu đặc cách không qua bầu cử này là theo thoả thuận trước cuộc bầu cử đạt được ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Việc này thể hiện chủ trương của Việt Minh về “hoà hợp dân tộc”, để che đậy bộ mặt cộng sản hầu tập trung được các lực lượng kháng chiến quốc gia chống thực dân Pháp.
(2).-Theo tài liệu lịch sử : Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3 năm 1946 gồm có 11 thành viên: Tôn Quang Phiệt,Trần Duy Hưng, Nguyễn Thị Thục Viên, Đỗ Đức Dục (Dân chủ Đảng), Cù Huy Cận (Dân chủ Đảng), Nguyễn Đình Thi (Việt Minh), Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ (4 vị thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng). Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo hiến pháp. Đa số cũng thuộc đảng CSVN (6/5).
Bản hiến pháp được Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu. Sau đó, Quốc hội ra nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc hội "cùng với chính phủ ban bố và thi hành hiến pháp khi có điều kiện". Tuy nhiên, Kháng chiến chống Pháp bùng nổ vào ngày 19 tháng 12 năm 1946 đã làm việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân (Quốc hội) không có điều kiện để thực hiện. Do tình hình chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chính thức công bố và chưa từng có hiệu lực về phương diện pháp lý.

VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.



VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG  CHẾ ĐỘ  XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

Thiện Ý

Tin tổng hợp giới truyền thống quốc tế và Việt Nam cho hay Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đề nghị kỷ luật Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học-Công nghệ-Môi trường, vì cho rằng ông “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khi xuất bản những cuốn sách có nội dung trái với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng.
Ngay sau khi Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đề nghị xem xét kỷ luật giáo sư Chu Hảo, Giám đốc kiêm Tổng Biên tập NXB Tri Thức, vì những căn cứ trên, giới trí thức phản ứng mạnh bằng cách tuyên bố công khai từ bỏ đảng, thậm chí từ chức. Các trí thức trong số 13 người vừa tuyên bố bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam nói với VOA rằng họ “quá bức xúc” vì Đảng “không còn phục vụ lợi ích của nhân dân, dân tộc”, Đảngđã chọn sai đường”, và họ dự báo rằng con số thoái đảng “sẽ gia tăng sau hiệu ứng Chu Hảo”.
Trước sự kiện trên, người viết tự hỏi “Vai trò của trí thức trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa tại Việt Nam” bao lâu nay là gì vậy?
Để trả lời câu hỏi tự đặt ra này, chúng tôi lần lượt trình bày: (1) Ý nghĩa từ ngữ trí thức và giai cấp trí thức, (2) vai trò của trí thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (3) Nhận định về hiện tượng một số nhà trí thức đồng loạt từ bỏ đảng CSVN.
I/- Ý NGHĨA TỪ NGỮ TRÍ THỨC VÀ GIAI CẤP TRÍ THỨC.
Theo từ điển Hán-Việt của học giả Đào Duy Anh, trí thức (Intellectual) là những người có “tri thức”(Knowledge). Nghĩa là “những điều người ta vì kinh nghiệm hoặc học tập mà biết, hay vì cảm xúc hoặc lý trí mà biết”. Còn giai cấp trí thức (Intellectuals class) là “những người trong xã hội thuộc về hạng có tri thức, đã từng chịu giáo dục khá cao”. Nghĩa là những người mà xã hội thường gọi là trí thức khoa bảng đỗ đạt các văn bằng cao như cử nhân, tiến sĩ , luật sư, bác sỹ, kỹ sư…chẳng hạn.
Trong xã hội dưới chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam xưa, giai cấp trí thức là những người có học thi đỗ đạt ra làm quan lớn nhỏ trong hệ thống công quyền quốc gia và được sắp xếp thứ bậc là giai cấp đứng đầu trong xã hội “Sĩ, nông, công, thương, binh”. Không biết có phải vì thế trong dân gian với có câu phiếm “Nhất sĩ, nhì nông, hết gạo chậy rông thì nhất nông, nhì sĩ” chăng?
Trong xã hội ngày nay dưới các chế độ dân chủ pháp trị thì các nhà trí thức không nhất thiết tham gia vào guồng máy công quyền mà có tự do chọn lựa ngành nghề trong xã hội thích hợp theo khả năng văn bằng.Nhưng trong xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung, Việt Nam nói riêng, thì vai trò của trí thức có khác.
II/- VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
Trong chế đô độc tài toàn trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giai cấp trí thức được giáo dục đào tạo theo qui hoạch, để phục vụ cho các chủ trương chính sách cai trị vì lợi ích của đảng cầm quyền duy nhất là đảng CSVN. Nghĩa là tạo ra các trí thức “vừa hồng, vừa chuyên”, là vừa thấm nhuần chủ nghĩa cộng sản (hồng) và kiến thức chuyên môn theo ngành học (chuyên). Nhưng khác với chế độ quân chủ chuyên chế xưa, “chế độ chuyên chính vô sản” xã hội chủ nghĩa lại sắp xếp giai cấp trí thức đứng đầu các giai cấp cần phải cải tạo hay tiêu diệt nếu không thể cải tạo hay thuần hóa thành công cụ của “Đảng và chế độ CS” được. Công cuộc cải tạo hay thuần hóa thường được thực hiện triệt để trước và một thời gian nhất định sau khi “cướp được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội” theo phương trâm “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn”. Vì sao?
Vì trên bình diện lý luận Marxist-Leninist, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Vì vậy sau khi cướp được chính quyền cần cải tạo toàn diễn xã hội cũ, trong đó có con  người cũ mà giai cấp trí thức cũ (tiểu tư sản) là ưu tiên cải tạo hay thuần hóa hàng đầu. Vì trong các giai cấp cũ, trí thức là loại cứng đầu, do có trình độ hiểu biết, sống có lý trí nên chủ nghĩa cộng sản khó  mê hoặc hơn những giai cấp khác, như giai cấp địa chủ (The landlord class), giai cấp nông dân (The peasant class), giai cấp tư sản (The capitalist class); và ngay cả giai cấp công nhân (The working class) mang danh “giai cấp vô sản” (The proletarian class). Trong cuộc đấu tranh giai cấp, công nhân hay giai cấp vô sản được chủ nghĩa cộng sản coi là lực lượng nòng cốt, tiên phong thực hiện “cuộc cách mạng vô sản” triệt để (vì không có tư sản ngoài bàn sức lao động cho tư bản, “nếu có mất thì chỉ mất cái xiềng xích, mà được toàn thề giới”…), để xây dựng “một xã hội không còn cảnh người bóc lột người” (xã hội chủ nghĩa). Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản,cướp chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vẫn theo lý luận Marx-Lenine, đảng cộng sản là “Đội tiên phong của giai cấp vô sản, là thành phần tiên tiến và ưu tú của giai cấp công nhân” v.v... Thế nhưng thực tế, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng, các nước có chung hiểm họa cộng sản nói chung đều thấy rõ “giai cấp vô sản” hay “giai cấp công nhân” cũng như nông dân và lao động nghèo đã chỉ là giai cấp lót đường cho đảng cộng sản thực hiện tham vọng độc quyền thống trị, độc quyền áp bức, bóc lột. Vì đảng CSVN khi chưa cướp được chính quyền “những giai cấp thấp cổ bé miệng” này đã phải hy sinh nhiều nhất kể cả sinh mạng. Nhưng sau khi nắm quyền thống trị rồi, các giai cấp được “uống nước đường”, cho đi “tàu bay giấy” này lại là giai cấp đã bị áp bức, bóc lột nhất bởi một tập đoàn thống trí mới, để phục vụ cho quyền và lợi ích trên hết và trước hết của một giai cấp mới: giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức, có quyền,lắm bạc nhiều tiền, sống vinh thân, phì gia một cách “vô tư”…gây phẫn nộ toàn xã hội, nhưng nếu giám phản kháng sẽ bị các lực lượng “chuyên chính vô sản”(!) đàn áp thẳng tay, không thương tiếc.
Đó chính là thực tế Việt Nam sau khi đảng CSVN cưỡng chiếm được Miền Nam bằng bạo lực quân sự vào ngày 30-4-1975, cộng sản hóa Miền Nam, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thật vậy,vận dụng lý luận của chủ nghĩa cộng sản  Marx- Leninne, để tiến hành công cuộc “đi lên chủ nghĩa xã hội” tại Việt Nam, Nghị quyết của Đại hội IV năm 1976 của Cộng đảng Việt Nam đã đưa ra “Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước” như một định thức chỉ đạo là “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…”.
Để thực hiện dịnh thức trên, đảng và nhà cầm quyền CSVN đã tiến hành các cuộc cải tạo các mặt như thế nào nhân dân trong nước, nhất là nhân dân Miền Nam từng sống dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) đều đã biết.Riêng các trí thức cả hai miền Bắc Nam sau ngày thống nhất, hiển nhiên không cần nói ra thì ai cũng đã biết chính sách cải tạo giới trí thức như thế nào. Riêng người viết cũng đã từng được học tập cải tạo tư tưởng qua các lớp họp tập chính trị ngắn ngày dành cho giới trí thức và còn được học toàn thời gian dài ngày về chủ nghĩa cộng sản Marx-Lenine. Nhưng kết quả thực tế đã không cải tạo được người viết để có cơ hội tiến thân trong chế độ mới(1). Trái lại người viết đã chấp nhận là kẻ “Phản động” chống lại đảng và chế độ để vào tù (2).
III/- NHẬN ĐỊNH:
Trước hiện tượng một số nhà trí thức đồng loạt từ bỏ đảng sau khi Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đề nghị kỷ luật Giáo sư Chu Hảo,một công thần của chế độ, một trí thức lớn xã hội chủ nghĩa từng lập nhiều công trạng với đảng và nhà cầm quyền CSVN, chúng tôi có vài nhận định sau đây:
1.- Trong chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam bao lâu nay giới trí thức chỉ là những “công cụ tri thức” của đảng Cộng sản Việt Nam, là “chất xám” sau khi được “cải tạo” thành chất “vừa hồng, vừa chuyên”, để sử dụng vào “công tác tư tưởng” trên mọi lãnh vực đời sống xã hội.
2,- Giáo sư Chu Hảo bị Đảng kỷ luật đưa đến phản ứng của 13  nhà trí thức lớn cùng tuyên bố ra khỏi đảng, đều là những nhà trí thức xã hội chủ nghĩa “vừa hồng vừa chuyên”, khác với số đông các nhà trí thức khác tại Việt Nam “không vào đảng CS” vì có “chuyên” mà “không hồng”. Vì ở cái tuổi giáo sư Hảo sinh năm 1940 cũng như các vị trí thức cùng trang lứa, sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa Miền Bắc sau 1954, đều được giáo dục đào tạo theo khuôn mẫu để thành “trí thức xã hội chủ nghĩa(vừa hông vừa chuyên) nên được kết nạp vào đảng Cộng sản Việt Nam, là bước vào hàng ngũ giai cấp công nhân để làm cách mạng xây dựng chủ nghĩ xã hội.Trong suốt thời gian dài giáo sư Chu Hảo đã từng kinh qua các chức vụ lãnh đạo cao cấp trong bộ mày đảng và nhà nước XHCN. Thế nhưng trong những năm cuối đời, Ông lại như “phản tỉnh” có những hoạt động tri thức đi ngược lại với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, trái với giáo điều chủ nghĩa xã hội mà đảng đã và đang tiếp tục theo đuổi (Dù chủ nghĩa xã hội đã ở Giờ Thứ 25, mà chính Tổng Bí Thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Tọng từng tỏ ra hoài nghi không biết đến cuối Thế Kỷ này Việt Nam đã có xã hội chủ nghỉa hay chưa). Chẳng hạn, với cương vị là Giám đốc-Tổng biên tập nhà xuất bản  Tri Thức, Ông đã cho phát hành những cuốn sách của các nhà tư tưởng dân chủ Phương Tây, bị xem là “trái quan điểm” của Đảng là những sách về triết học, chính trị-kinh tế học như “Bàn về tự do” của John Stuart Mill, “Khảo Luận Thứ Hai Về Chính Quyền” của John Locke, “Nền Dân Trị Mỹ” của Alexis De Tocqueville…Những cuốn sách này vẫn được giới trí thức Việt Nam xem là “tinh hoa” tri thức mà NXB Tri Thức cố gắng mang đến cho người dân Việt Nam.
Tất nhiên, ông bị “Đảng ta” kỷ luật là vì “những bài viết, phát ngôn có nội dung trái với Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng…”. thì đúng rồi còn gì? Sau đó ông tuyên bố ra khỏi đảng, có lẽ như “giọt nước cuối cùng làm tràn ly” tư tưởng phản tỉnh hình thành từ lâu trong đầu ông chăng?
3.- Qua phát biểu với VOA của một số trong 13 vị trí thức vừa tuyên bố bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng họ quá bức xúc vì Đảng “không còn phục vụ lợi ích của nhân dân, dân tộc”, Đảng “đã chọn sai đường”, và họ dự báo rằng “con số thoái đảng sẽ gia tăng sau hiệu ứng Chu Hảo”. Nhưng chúng tôi và có lẽ nhiều người Việt Nam không cộng sản khác, thì nghĩ rằng, đảng CS V N chưa bao giờ “phục vụ lợi ích của nhân dân, dân tộc” mà chỉ phục vụ lợi ích của đảng CSVN (cụ thể là các cán bộ đảng viên CS nắm quyền) và quốc tế cộng sản (cụ thể là các đế quốc CS Nga-Tàu), phản dân tộc. Và vì vậy “Đảng ta’ đã “chọn đúng đường” chứ không “chọn sai đường” đâu.
Chúng tôi nghĩ rằng, những phát biểu này chỉ là cách “nói lái hay nói láchtheo cách nói của Tổng Bí thư đảng cộng sản Nam Tư Minovan Djilas trước đây sau khi phản tỉnh muộn màng, rằng “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, 40 tuổi mới rời bỏ cộng sản là không có cái đầu”.Trên diễn đàn này chúng tôi đã có bài phản biện, rằng “ 20 tuổi mà đi theo cộng sản là không có cái đầu, 40 tuổi mới rời bỏ cộng sản là không có trái tim”. Vì chúng tôi cho rằng 20 tuổi là tuổi bắt đầu trưởng thành có đủ đầu óc, trí khôn để tránh được tính mê hoặc, không tưởng của chủ nghĩa cộng sản.Sau đó, nếu đã lỡ theo cộng sản “vì không có cái đầu” thì sau một thời gian ngắn theo đảng CS, qua các hành động giã man tàn ác thực tiễn của CS thì phải “phản tỉnh” để từ bỏ CS càng sớm càng tốt chứ? Chẳng qua, cách nói của Tổng Bí thư đảng CS Nam Tư, chỉ là sự ngụy biện cho việc tin theo đảng cộng sản trong quá khứ là một sai lầm chính đáng, không thể tránh được của tuổi trẻ trước tính mê hoặc của chủ nghĩa cộng sản (Một xã hội không còn cảnh người áp bức bóc lột người,công bằng, làm theo năng lực, hưởng theo sức lao động bỏ ra (xã hội XHCN) tiến tới xã hội cộng sản viên mãn,  không còn giai cấp,không còn nhà nước,các quan hệ xã hội vận hành tự động, tự giác,tài hóa dư thừa, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầuị, không còn biên giới quốc gia, tiến tới thế giới đại đồng, con người được sống ấm ho tự do, hạnh phúc tuyệt vời như Thiên đường  của Thiên Chúa giáo hay Niết Bàn của Phật giáo…) !?!.
IV/- KẾT LUẬN.
    
Sau khi bị đề nghị thi hành kỷ luật vì vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, giáo sư Chu Hảo đã tự ý rút ra khỏi đảng CSVN, kéo theo nhiều nhà trí thức lớn, có thể coi là một hiện tượng “phản tỉnh tập thể” chưa từng có trong hàng ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Mặc dầu đa số các nhà trí thức lớn này đã phản tỉnh khi đã về hưu, sau một thời gian dài cung hiến chất sám “vừa hồng, vừa chuyên” cho đảng cộng sản Việt Nam xây vinh quang. Thế nhưng hành động rời bỏ đảng tập thể này vẫn là điều được nhiều người trân quý vì đã góp phần vào sự gia tốc tiến trình dân chủ hóa Viêt Nam. Vì các đảng viên trí thức chính là bộ não của đảng CSVN. Một khi bộ não teo dần, đảng CS V N ngày một suy kiệt, sự tiêu vong của chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Việt Nam sẽ là một tất yếu, vấn đề chỉ còn là thời gian sớm hay muộn mà thôi.

Vì vậy, đa số quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước ước mong các nhà trí thức đảng viên CS nói riêng, các đảng viên cộng sản nói chung, hãy có hành động thức thời để cứu dân cứu nước thoát họa cộng sản vong nô, phản dân tộc, đã áp đặt nhiều năm qua, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho Đất nước và Dân tộc. Trông đợi ước mong của toàn dân Việt sớm trở thành sự thật.

Thiện Ý
Houston, 2-11-2018

Ghi chú:
(1). Trong bài viết trước đây trên diễn đàn này “Vì sao tôi từ chối vào đảng Cộng sản Việt Nam”, người viết đã nói rõ lý do.Việc được nhà trường gửi cho đi học các lớp bồi dưỡng chính trị ngắn ngày hay học về chủ nghĩa cộng sản Marxist-Leninnist dài ngày, có lẽ là do chi bộ đảng nhà trường có ý định kết nạp người viết vào đảng. Vì khi đưa đề nghị kết nạp vào đảng ( tháng 1-1978) Thiếu úy công an khu vực trường học tên S. (là Trung tá Trưởng công an một quận nội thành vào năm 1992 khi gia đình tôi rời Việt Nam) đã nói tôi được quan tâm bồi dưỡng là vì “đồng chí có lý lịch tốt, (thuộc thành phần lao động nghèo, có cha đi kháng chiến chống Pháp ); có năng lực, nhiệt tình và ảnh hưởng quần chúng…”.

(2) Thế những tôi đã từ chối khéo. Vì lúc đó đang tham gia Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam, một tổ chức bị coi là “phản động” vì chống lại đảng và chế độ độc tài CS. Đúng là tôi đã “ không uống rượu mời, mà uống rượu phạt” như lời cán bộ T.A.N Đội Trưởng Đội chấp pháp (điều tra, xét hỏi) vụ án có lần nói với tôi sau khi bị bắt cầm tù. Nhưng tôi không chút hối tiếc nào, mà tự hào vì đã chọn lựa đúng theo những gì mình cho là đúng, là chân lý, lẽ phải.