Sunday, October 28, 2018

Nền Cộng Hòa và Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956


Nền Cộng Hòa và Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956


Hình minh họa.
Thiện Ý

Thấm thoát mà đã 62 năm (1956-2018), nền cộng hoà được thiết lập tại Việt Nam với bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam.
Năm nay, nhân ngày 26-10-2018, nghĩ về Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956, chúng tôi muốn gửi bài viết này đến quý độc giả người Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào với quá khứ, rằng chúng ta đã chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù hợp với ý nguyện của toàn dân và tin tưởng mãnh liệt ở tương lại, rằng nhất định chúng ta sẽ thiết lập được một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng hoà đã được xác lập 62 năm qua tại Việt Nam. Nội dung bài viết lần lượt trình bày:
I - BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HÒA TẠI VIỆT NAM
Như quý độc giả đã biết, sau Thế Chiến II, chủ nghĩa thực dân cũ đã bước vào thời kỳ suy tàn, xu thế giải thực đã buộc các đế quốc từng có nhiều thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan… đã phải lần lượt trao trả độc lập cho các nước bị trị. Điển hình là một số nước trong vùng Đông Nam Á như Ấn Độ và Hồi Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc lập năm 1947; Indonesia được Hà Lan trao trả độc lập năm 1949; Triều Tiên được Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao Miên Pháp trao trả độc lập năm 1953…
Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia và học giả nghiên cứu chính trị và lịch sử, thì chẳng cần cuộc kháng chiến gian khổ 9 năm do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động và chủ đạo tiến hành (1946- 1954) làm hao tổn quá nhiều xương máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước không cần thiết theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh cộng sản, để có được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử(7-5-1954), thì thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác. Chẳng qua Ông Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến này, chỉ là lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để “cướp chính quyền”; sau đó áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS tại Việt Nam, thực hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ, nhuộm đỏ tòan cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga-Tàu.
Thật vậy, trên thực tế, trước áp lực của xu thế giải thực, thực dân Pháp đã phải lùi từng bước, trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các Hiệp Định Vịnh Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948, “đề cử” hoàng đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng, và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại như là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại đã ký “Thỏa Ước Elysée”. Theo đó, Pháp hứa sẽ xây dựng cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là khởi điểm của sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gồm có các binh lính và sĩ quan gốc “Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua. Chính những sĩ quan có xuất thân này, đã nắm vận mệnh quốc gia sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, và đã góp phần làm mất Miền Nam vào tay cộng sản (30-4-1975).
Thế rồi, cuối cùng thực dân Pháp cũng đã phải trao trả độc lập hòan tòan cho Việt Nam vào năm 1954. Nhưng Việt Nam có số phận không may đã rơi vào thế gọng kìm của một chiến lược quốc tế mới hậu Thế chiến II, với cuộc chiến tranh ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), nên đất nước bị qua phân theo Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954 ký kết giữa thực dân Pháp và Việt Minh cộng sản, có ý nghĩa như là Pháp (quân cướp nước) đã mất nửa thuộc địa Miền Bắc cho đảng cộng sản (phường bán nước cho quốc tế CS Nga-Tàu). Chính quyền chính thống quốc gia của Quốc trưởng Bảo Đại, với thủ tướng chính phủ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ, không ký vào Hiệp định Genève 1954, nên không có trách nhiệm thi hành, nhưng phải tiếp nhận độc lập chủ quyền quốc gia trên nửa nước Miền Nam, phải chấp nhận một thực tế bị áp đặt trái với ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Vì vậy trên nguyên tắc quốc gia Việt Nam vẫn là một, chỉ tạm thời chia cắt để chờ cơ may thống nhất đất nước.
Hệ quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào tay đảng CSVN thiết lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản”, trên đó xây dựng chế độ độc tài tòan trị cộng sản, với quyền thống trị độc tôn, độc quyền của đảng CSVN, một công cụ chiến lược của hai tân đế quốc đỏ Nga-Tầu. Nửa nước Miền Nam Việt Nam được trao trả cho chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Hòa trên đó xây dựng chế độ tự do dân chủ, tức Việt Nam Cộng Hòa, với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh Thế giới Tự do trên nguyên tắc, song trên thực tế đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ chiến lược một thời của mình; dù chỉ là một công cụ ngay tình(bị ép buộc) khác với đảng cộng sản Việt Nam đã là công cụ tri tình (tình nguyện, chủ động thực hiện nghĩa vụ công cụ) cho cộng sản quốc tế Nga-Tầu. Vì đảng CSVN đã tình nguyện làm một công cụ bành trướng của cộng sản quốc tế, đứng đầu là Nga-Tầu lúc đó, nên đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn kéo dài 21 năm để thôn tính Miền Nam Việt Nam (1954-1975) và cộng sản hóa cả nước cho đến nay đã 43 năm rồi (1975-2018).
Trong khi đó, chính quyền chính thống quốc gia và nhân dân Miền Nam, trong thế chẳng đặng đừng đã phải làm tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ và phe Thế giới tự do; buộc lòng phải thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi cuộc chiến tranh xâm lược đó của CSBV, để bảo vệ phần đất tự do Miền Nam; trong ý hướng giữ vững độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc, để vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ lực xây dựng thành công chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa, tiến tới thống nhất đất nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị VNCH và nền kinh tế tự do phát triển phồn vinh ở Miền Nam; trên chế độ độc tài tòan trị CSBV và nền kinh tế chỉ huy nghèo nàn lạc hậu ở Miền Bắc. Nghĩa là chính quyền và nhân dân Miền Nam, muốn tiến tới tình trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay, mà sự thống nhất Hàn Quốc một cách hòa bình, với sự ưu thắng của Nam Hàn dân chủ phồn vinh trên Bắc Hàn độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Chính vì mục tiêu và lý tưởng vừa nêu, nền cộng hòa đã được xác lập tại Việt Nam, bằng bản Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956, trên đó xây dựng chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó tại Việt Nam.
II - NỀN CỘNG HÒA VÀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA 1956.
1 - Nền cộng hòa và cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Theo tự điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, cộng hòa (Republic: Cộng đồng, dân chúng) có ý nghĩa như là nền tảng cho một chế độ dân chủ, chế độ cộng Hòa (Repubican Regime) với “Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân”. Cố tổng thống Ngô Đình Diệm được coi là người khai sáng nền cộng hòa như thế tại Việt Nam.
Sử liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ý nghĩa sau đây: ngày 7 tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm đang sống lưu vong ở hải ngoại đã về nước chấp chánh theo sự ủy thác của vua Bảo Đại trong ngôi vị Thủ tướng chính phủ chính thống quốc gia Việt Nam, để chống cộng và nếu cần chống cả thực dân và phong kiến để bảo vệ tổ quốc (Như hồi ký của cựu hoàng Bảo Đại đã viết). Vì xu thế thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy trì thể chế quân chủ chuyên chế, nên với sự hậu thuẫn của 18 đoàn thể chính trị (Hội Đồng Cách Mạng Quốc gia), họp tại Dinh Độc Lập đã quyết định thiết lập chế độ cộng hòa, theo xu thế thời đại, đáp ứng ý nguyện của quốc dân, qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm là Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Để có căn bản pháp lý, ngày 26-10-1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Hiến Ước Tạm Thời Số 1, và ngày 23 tháng 1 năm 1956 đã ký ban hành Dụ Số 8 thiết lập Quốc hội Lập hiến định hướng cho chế độ cộng hòa sẽ được xác lập. Trên căn bản các văn kiện pháp lý hành chánh này, nhân dân Miền Nam lần đầu tiên được cầm lá phiếu với tư cách là công dân một nước độc lập, có chủ quyền, đi bầu người đại diện vào Quốc hội Lập hiến để thay mặt mình sọan thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên nền tảng cộng hòa đầu tiên. Trong vòng 9 tháng sau, Quốc hội do dân bầu này đã hòan thành bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa và ngày 26 tháng 10 năm 1956, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã ký ban hành bản hiến pháp đầu tiên làm căn bản thíêt lập các định chế quốc gia, với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân.
2 - Nền cộng hòa và Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956.
Như trên đã trình bầy nền cộng hòa là nền tảng của một chế độ chính trị với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây; tương tự quan niệm dân chủ Phương Đông “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”. Tiếc rằng, quan niệm dân chủ này chỉ có trong sách vở ở xã hội phong kiến, thực tế vua vẫn là tối thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về vua, chứ không phải của tòan dân. Cũng như trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc gia thuộc về đảng cộng sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chỉ là bánh vẽ lừa mị nhân dân, che mắt quốc tế.
Vì vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, cần xây dựng một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng hòa. Để thiết định chế độ dân chủ cộng hòa này, cần có một bản hiến pháp, là một văn kiện pháp lý căn bản qui định rõ quyền lợi nghĩa vụ người dân trong, tương quan với chính quyền và nghĩa vụ của các cơ quan công quyền, với các viên chức được người dân ủy quyền qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử tự do, chọn người đại diện cho dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn lương của dân, điều hành guồng máy công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, theo ý nguyện của người chủ đất nước là nhân dân, sao cho xã hội ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng lớp nhân dân có điều kiện phát triển đồng đều, “cộng đồng đồng tiến”, có đời sống tự do, ấm nó để mưu cầu hạnh phúc riêng (cá nhân) cũng như chung (tập thể).
Trong ý hướng trên, bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên được soạn thảo và ban hành ngày 26-10-1956 và sau đó bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa thứ hai được ban hành ngày 1-4-1967.
Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 26-10-1956 được sọan thảo dựa trên hai nền tảng triết lý và chính trị. Nền tảng triết lý là triết học duy tâm, lấy con nguời là trung tâm, là chủ thể xã hội và là đối tuợng phục vụ của xã hội. Nền tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiết lập chế độ cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho chế độ Cộng Hòa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu thần Việt Nam Cộng Hòa là để đối kháng với triết học duy vật và chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ vô thần Cộng sản Bắc Việt, vốn coi tôn giáo như thuốc phiện mê hoặc con người; con nguời chỉ là sản phẩm kinh tế, là công cụ của xã hội, cá nhân phải phục vụ xã hội và quyền lợi cá nhân phải hy sinh cho quyền lợi tập thể (thực chất cũng như thực tế là hy sinh cho quyền lợi của một tập đòan thống trị độc quyền là đảng CSVN ), trong một xã hội mà những nguời cộng sản muốn áp đặt, đó là xã hội “Xã hội chủ nghĩa”, giai đọan đầu của “xã hội cộng sản” mà đỉnh cao là “Thiên đường cộng sản” (!?!).
Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho Hiến pháp chế độ cộng hòa như là một võ khí lý luận để đánh bại đối phương về mặt ý thức hệ. Đối phương lúc đó là đảng CSVN đã thiết lập ở Miền Bắc một chế độ độc tài đảng trị CS bằng bản Hiến pháp năm 1958, ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa (xanh vỏ, đỏ lòng) . Vì Hiến pháp này chỉ giữ lại bảng hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, của Hiến pháp 1946 (Một bản Hiến pháp tiến bộ, hợp lòng dân,do Quốc hội liên hiệp Quốc-cộng soạn thảo trên nền tảng dân chủ, cộng hòa thật, nhưng chưa thực hiện được. Vì sao? Chúng tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác),nhưng hình thức và nội dung rặp khuôn Hiến pháp 1936 của cộng sản Liên Xô vốn xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa xã hội hay cộng sản.
Với võ khí lý luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ dân chủ cộng hòa, các nhà lập hiến VNCH tin rằng, nguời dân sẽ thấy đuợc hai con đuờng “Nhân vị chủ nghĩa” và “Cộng sản chủ nghĩa” dẫn đến mục tiêu tối hậu hoàn toàn trái nguợc: Chủ nghĩa nhân vị”: Xây dựng một xã hội vì con nguời, tôn trọng phẩm giá con nguời và xã hội phải phục vụ lợi ích tối thuợng của con nguời. Trong khi “chủ nghĩa cộng sản”: xây dựng một xã hội vì đảng CSVN, nô dịch và xã hội hóa con nguời, biến con nguời thành công cụ phục vụ xã hội (thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị), nhân vị bị hạ thấp ngang tầm lòai vật (theo lý luận và thực hành Duy vật biện chứng của CS).
Đồng thời, chủ nghĩa Nhân Vị sẽ là nền tảng cho chế độ chính trị Cộng Hòa, để bảo đảm được nhân vị và các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Hòa và chế độ dân chủ VNCH, chủ nghĩa Nhân Vị giúp nguời dân phân biệt đuợc mục tiêu và lý tuởng tranh đấu tối hậu của nguời Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ đuợc một chế độ dân chủ cộng hòa là vì nhân vị và phẩm giá con người, vì hạnh phúc của nhân dân, quyền dân chủ dân sinh và nhân quyền được bảo đảm với tam quyền phân lập; trái nguợc với chế độ độc tài toàn trị cộng sản , độc tôn và độc quyền thống trị của đảng CSVN, vì quyền lợi của giai cấp thống trị là các cán bộ đảng viên CS, gia đình họ và các tầng lớp ăn theo.
Chính vì vậy mà chủ thuyết nhân vị đuợc xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp VNCH ngày 26-10-1956 như sau:
“ Tin tuởng ở sự truờng tồn của nền văn minh Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà tòan dân đều có nhiệm vụ phát huy;
“ Tin tuởng ở giá trị siêu việt của con nguời mà sự phát triển tự do. Điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi họat động quốc gia…
Như vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập hiến đầu tiên của quốc gia Việt Nam đã sọan ra bản Hiến pháp VNCH đầu tiên (hoàn toàn khác với cái gọi là Hiến pháp VNDCCH 1958 của Cộng sản Bắc Việt “ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa”), và đã đuợc Thủ tướng Ngô Đinh Diệm, sau trở thành vị tổng thống đầu tiên chế độ VNCH, đã ký ban hành ngày 26-10-1956.
Nội dung Bản Hiến Pháp này,ngoài phần “Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể hiện rõ nguyên tắc phân quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều khỏan căn bản”; Thiên Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụ nguời dân”; Thiên thứ ba:“Tổng Thống”; Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm “Thẩm phán”; Thiên Thứ sáu “Đặc biệt Pháp viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội Đồng Kinh Tế Quốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa đổi Hiến pháp” và Thiên Thứ mười “Các Điều khỏan chung”.
Cuộc đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963, với sự trợ giúp của ngọai bang đã đưa đến cái chết thảm thương cho Cố Tổng thống Ngô Đinh Diệm, một nhà ái quốc, thiết tha với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (là một trong những nguyên nhân ông phải chết), nguời có công khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam. Hiến pháp VNCH ngày 26-10-1956 bị hủy bỏ cùng với sự cáo chung nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
Sau những năm triền miên bất ổn chính trị, xã hội xáo trộn do các phe phái chính trị, quân sự tranh giành quyền lực (1963-1967) bản Hiến pháp Đệ nhị VNCH đã được Quốc hội Lập Hiến thông qua ngày 18-3-1967 và đã được Tướng Nguyễn Văn Thiệu, trong tư cách Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia ban hành ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đã đưa Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi vị Tổng Thống VNCH, là vị Tổng Thống thứ hai của nền Đệ nhị cộng hòa Việt Nam.
III - KẾT LUẬN
Tóm lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Miền Nam bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị VNCH đã thất bại, song chỉ là thất bại tạm thời, có tính giai đọan. Vì sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu chống chế độ cộng sản độc tài toàn trị để tái lập chế độ dân chủ cộng hòa trên cả nuớc vẫn đang tiếp diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng vì dân chủ, cho nền cộng hòa Việt Nam của nguời Việt quốc gia hay là nguời Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nuớc, phù hợp với khát vọng của toàn dân. Thực tế đã và đang ngày một khẳng định “chính nghĩa Cộng Hòa” (Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng “ngụy nghĩa Cộng sản” (Chủ quyền quốc gia thuộc về đảng CSVN).
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết lập đuợc một chế độ dân chủ cộng hòa trên toàn cõi Việt Nam trong một tương lai không xa, với một bản Hiến pháp Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu; như từng đuợc khẳng định trong “Lời Mở Đầu” của Hiến pháp VNCH tiên khởi ngày 26-10- 1956.

Thiện Ý
Houston, ngày 26 tháng 10 năm 2018

Sunday, October 21, 2018

Vì sao CSVN phóng thích và trục xuất Mẹ Nấm

Vì sao CSVN phóng thích và trục xuất Mẹ Nấm


Mẹ Nấm và gia đình được chào đón tại phi trường IAH ở Houston.
Thiện Ý

Việc phóng thích Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trước thời hạn, sau hơn hai năm thụ án phạt 10 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước”, rồi đưa từ nhà tù ra sân bay Nội Bài Hà Nội trục xuất qua Hoa kỳ cùng mẹ già và hai con nhỏ vào ngày 17 -10-2018 vừa qua, đã không còn là một bất ngờ gây ngạc nhiên cho những ai từng quan tâm đến số phận nghiệt ngã của các tù nhân lương tâm tại Việt Nam.
Bởi lẽ, đây không phải là lần đâu tiên và cũng chưa phải là lần cuối cùng, nhà cầm quyền CSVN thực hiện điều này. Vì trong quá khứ xa gần, nhà cầm quyền Việt cộng đã từng thực hiện đối sách này với các nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền và dân oan, tiêu biểu như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, Ls Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải và gần đây nhất là luật sư Nguyễn Văn Đài bị trục xuất qua nước Đức; nay là Blogger Mẹ Nấm bị trục xuất qua Hoa Kỳ và đã đến sân bay quốc tế George H. Bush, Houston, bang Texas vào 11 giờ đêm 17-10-2018, với sự chào đón nồng nhiệt của hàng trăm đồng hương tỵ nạn cộng sản.
Vậy vì sao nhà cầm quyền CSVN đã có những hành động như vậy? Câu trả lời tổng quát của chúng tôi: Việt cộng thả các tù nhân lương tâm theo kiểu này không đơn thuần chỉ là vì áp lực của Hoa Kỳ và quốc tế, mà còn là một thủ đoạn có tính toán để thủ lợi qua một “đối sách điệu hổ ly sơn”. Nội dung “đối sách điệu hổ ly sơnlà gì và vì sao Hoa Kỳ lại chấp nhận hệ quả của đối sách này của nhà đương quyền Việt Nam?
I/- ĐỐI SÁCH “ĐIỆU HỔ LY SƠN” LÀ GÌ?
Như chúng tôi đã có dịp trình bầy nhiều lần trước đây, ngoài áp lực công luận quốc tế và các cường quốc dân chủ hàng đầu có ảnh hưởng mạnh như Hoa Kỳ, các nước EU, nhà cầm quyền Việt Nam đã phải trả tự do cho Blogger Mẹ Nấm cũng như những nhà đấu tranh cho dân chủ bị cầm tù trước đây và tiếp diễn sau này, không chỉ dựa trên sự toan tính trao đổi lợi ích song phương hay đa phương, còn là tương kế tựu kế loại trừ các phần tử nguy hiểm chống đối chế độ ra khỏi nước theo đối sách điệu hổ ly sơn”.
Vì một khi đưa được những nhà đấu tranh cho dân chủ hàng đầu không thể “cải tạo” như Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ra khỏi nước, nhà cầm quyền Việt Nam đã đưa được những “Con hổ đấu tranh cho dân chủ” ra khỏi “lãnh địa rừng rú của CS” tại Việt Nam, nơi phát huy sức mạnh đấu tranh mạnh mẽ, có hiệu quả vốn là mối hiểm nguy cho sinh mạng chính trị của chế độ độc tài toàn trị CSVN. Một khi những “mãnh hổ dân chủ ” này đưa ra nước ngoài, tác dụng của các hoạt động đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Việt Nam của họ dầu muốn dầu không sẽ suy yếu đi, không còn là hiểm họa cận kề.
Đó là chưa kể họ sẽ bị cô lập, tấn công, chụp mũ, nhục mạ thậm từ của chính những người quốc gia chống cộng thật mà cực đoan, đa nghi; hay chống cộng giả (Việt cộng nằm vùng) làm công tác “Đặc tình truyền thông” cho nhà cầm quyền Việt Nam.Nhất là mức độ và cường độ tấn công có thể ác liệt, tàn nhẫn hơn đối với những nhà dân chủ gốc cán bộ đảng viên cộng sản phản tỉnh, từng tham gia guồng máy công quyền dân sự hay quân sự Việt cộng như: cố nhà báo Bùi Tín lúc sinh tiền, vốn là cựu Đại tá, Phó Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân (QĐND); Ls Cù Huy Hà Vũ, con trai của nhà thơ Cù Huy Cận, con nuôi của nhà thơ Tố Hữu vốn là những công thần của chế độ; hay như Blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, cựu chiến binh QĐND và Blogger Tạ Phong Tần, cựu sĩ quan công an nhân dân… Những nhà đấu tranh cho dân chủ này, dù quá khứ là thế, nhưng sau này dù đã thực sự “Phản tỉnh”, nhận thức được những sai lầm quá khứ theo đảng CSVN, đã có những lời nói, hành động cụ thể đấu tranh quyết liệt cho dân chủ, nhân quyền, dân oan, phải vào tù, bị đầy ải nhiều năm tháng. Thế nhưng, với đối sách Điệu hổ ly sơn”, nhà cầm quyền Việt Nam đã thành công phần nào trong ý đồ cô lập và vô hiệu hóa các hoạt động đấu tranh của các nhà dân chủ sau khi bị trục xuất ra hải ngoại. … Và vì vậy, nhiều người vẫn lo ngại, rồi đây blogger Mẹ Nấm có là nạn nhân bị “đặc tình cộng sản nằm vùng” đội lốt người quốc gia đánh phá, chụp mũ hay không. Mặc dầu khi mới đến sân bay ở Houston, Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vẫn khẳng định với đồng hương ra đón, rằng trong môi trường hải ngoại sẽ tiếp tục lên tiếng đấu tranh mạnh mẽ cho tự do, dân chủ nhân quyền của nhân dân cũng như các nhà dân chủ, bất đồng chính kiến đang bị cầm tù trong nước.
II/- VÌ SAO HOA KỲ CHẤP NHẬN HỆ QUẢ ĐỐI SÁCH “ĐIỆU HỔ LY SƠN” CỦA VIỆT CỘNG?
Theo nhận định của chúng tôi, Hoa Kỳ không tiếp tay (theo nghĩa chủ động) mà đã phải tiếp nhận (theo nghĩa bị động) các nhà đấu tranh dân chủ trong nước sau khi được phóng thích và bị trục xuất thẳng từ nhà tù qua Hoa Kỳ, là vì chính sách hai mặt của Hoa Kỳ đối với chế độ độc tài đảng trị CSVN và đối với các lực lượng đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Việt Nam.
1.- Đối với chế độ độc tài đảng trị CSVN.
Sau khi nối lại quan hệ ngoại giao, từ 23 năm qua (1995-2018), Hoa Kỳ đã coi chế độ độc tài đảng trị CSVN như là một đối tác làm ăn, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, không còn là đối phương như trước đây trong chiến tranh. Hoa Kỳ nhiều lần xác nhận, rằng Hoa Kỳ luôn tôn trọng sự khác biệt chế độ chính trị của Việt Nam (độc tài, độc đảng) với Hoa Kỳ (Dân chủ, đa đảng).Mặc dầu trên thực tế Hoa Kỳ không che dấu chính sách can thiệp tạo áp lực thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa đảng. Hoa Kỳ có nhiều cách trực tiếp hay gián tiếp tạo áp lực với nhà cầm quyền CSVN theo chiếu hướng dân chủ hóa Việt Nam .
Một cách gián tiếp như ngầm hay công khai lên tiếng yểm trợ các cao trào đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền và dân quyền trong cũng như ngoài Việt Nam. Những người tham gia các cao trào này, nếu bị bắt cầm tù do các hành vi đấu tranh ôn hòa, bất bạo động, Hoa Kỳ sẵn sàng lên tiếng, áp lực cách này cách khác,đòi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do và ngưng đàn áp các nhà bất đồng chính kiến, vô điều kiện hay ngầm trao đổi có điều kiện nhằm thành đạt lợi ích nào đó.Thường thì nhà cầm quyền Việt Nam khi cần vẫn sử dụng việc bắt bớ giam cầm các nhà bất đồng chính kiến có giá trị như Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và nhiều người khác, như điều kiện để trao đổi lợi ích nào đó với Hoa Kỳ.
2.- Đối với chính phủ Hoa Kỳ
Việc Hoa Kỳ đồng ý tiếp nhận các nhà bất đồng chính kiến bị cầm tù trục xuất thẳng từ nhà tù như Blogger Mẹ Nấm mới đây, hay Ls Cù Huy Hà Vũ, Blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, Ls Nguyễn Văn Đài và nhiều người khác trước đây, trước mắt có thể đem lại lợi ích ngầm nào đó cho nhà cầm quyền Việt Nam (tỷ như lợi ích quân sự song phương qua chuyến đi Việt Nam mới đây của Bộ. trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ hay tạo thuận lợi cho chuyến đi Hoa Kỳ sắp tới của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo đồn đoán có thể diễn ra cuối năm nay, sau khi Quốc hội của đảng chuẩn phê nghị quyết của đảng để Tổng bí thư Trọng kiêm nhiệm Chủ tịch nước?).Trước mắt có thể không có lợi ích gì cho Hoa Kỳ, nhưng tương lai có thể là những vốn nhân sự hữu dụng một khi Việt Nam chuyển đổi qua chế độ dân chủ, đa đảng vốn là mục tiêu tối hậu mà Hoa Kỳ muốn giúp thành đạt tại Việt Nam chăng?
Bởi vì, đây là những vốn nhân lực, hữu dụng cho tương lai, có năng lực và phẩm chất từng được tôi luyên qua đấu tranh gian khó, cần được Hoa Kỳ bảo vệ, tích lũy đưa ra khỏi nhà tù đến nơi an toàn, hơn là tiếp tục để cho bị đầy ải, chết dần mòn và đui chột với án phạt nhiều năm trong nhà tù khắc nghiệt của chế độ đương thời tại Việt Nam. Nghĩa là, Hoa Kỳ không hợp tác, không khuyến khích cho đối sách “Điệu Hổ Ly Sơn của Việt cộng, mà vì lý do nhân đạo và hậu ý lợi ích về sau, nên đã và sẽ tiếp tục tiếp nhận những nhà bất đồng chính kiến được phóng thích và trục xuất thẳng từ nhà tù ra nước ngoài.
Động thái này phù hợp với chủ trương bao lâu nay của Hoa Kỳ là chỉ tạo áp lực trực tiếp hay gián tiếp đẩy đưa Việt Nam chuyển đổi hòa bình từ chế độ độc tài, độc đảng qua chế độ dân chủ đa đảng (diễn biến hòa bình, tự chuyển đổi để chuyển hóa chế độ từ độc tài toàn trị qua dân chủ pháp trị…). Nghĩa là Hoa Kỳ không ủng hộ bạo lực lật đổ để thay thế, mà thực hiện chính sách cải tạo từng bước nhà cầm quyền Việt cộngthành công cụ chiến lược trong vùng vàchuyển hóa hòa bình chế độ độc tài, độc đảng qua dân chủ, đa đảng theo một tiến trình thời gian phù hợp, tránh bất ổn chính trị, xáo trộn xã hội”. Do đó, trước sau gì Hoa Kỳ chỉ coi các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ như những công cụ mà thuật ngữ chính trị gọi là “những đoàn thể quần chúng áp lực, không giành quyền lực để nắm quyền”, góp phần tạo các lực đẩy, lực xoay cùng chiều về hướng dân chủ hóa việt Nam.
III/- KẾT LUẬN:
Giờ đây Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã thoát khỏi nhà tù của chế độ độc tài toàn trị CS trong nước, được hít thở bầu không khí tự do sau những năm tháng tù đầy (hơn 2 năm thụ án 10 năm tù vì chống chế độ độc tài toàn trị CS), được một số cá nhân và đoàn thể người Việt quốc gia ở hải ngoại đón tiếp nồng hậu tại sân bay George H. Bush hôm 17-10 vừa qua và những ngày sau đó. Mặc dầu Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã có những lời tuyên bố kiên định lập trường tiếp tục con đường đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước.
Thế nhưng, nhiều người quan tâm, cảm thông không khỏi lo ngại tự hỏi, rồi đây sau khi ổn định sức khỏe và cuộc sống, liệu Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một “Mãnh hổ đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền, dân sinh” ở trong nước, sẽ có còn là “Mãnh hổ đấu tranh cho dân chủ Việt Nam” ở hải ngoại nữa hay không? Đồng thời liệu Cô có bị đối xử bất công và tàn nhẫn như đã từng xẩy ra với các nhà đấu tranh cho dân chủ cùng chung cảnh ngộ trước đây đã bị nhà đương quyền Việt Nam phóng thích và trục xuất thẳng từ nhà tù qua Hoa Kỳ?
Câu trả lời về mặt chủ quan xin dành cho Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh; về khách quan xin dành cho những người quốc gia chống cộng vốn đa nghi ở hải ngoại. Nhưng không cần đặt ra với những kẻ “nằm vùng” đang “đội lốt người quốc gia” làm công tác “Đặc tình truyền thông” có nhiệm vụ đánh phá không riêng gì những nhà đấu tranh cho dân chủ bị bắt cầm tù, bị phóng thích và trục xuất thẳng từ nhà tù ra hải ngoại như Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và nhiều người trước đó; mà đánh phá mọi đoàn thể cũng như cá nhân chống cộng nào mà các hoạt động của họ bất lợi cho chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay tại Việt Nam.
Người viết từng nếm mùi tù đầy qua các nhà tù nổi tiếng ở số 4 Phan Đăng Lưu, Chí Hòa và lao động khổ sai ở trại tù Z.30D-K1. Hàm Tân Thuận Hải (1978-1981), thành tâm cầu chúc đồng tù Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một trong những anh thư và nhà đấu tranh kiệt xuất cho mục tiêu dân chủ hóa Việt Nam, sớm bình phục sức khỏe, sau những năm tháng tù đầy và nghị lực kiên cường để tiếp tục dấn thân cùng người Việt quốc gia hải ngoại và toàn dân trong nước đẩy mạnh đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước; để mọi tầng lớp nhân dân (chứ không riên chỉ có giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản cầm quyền) được sống trong “Độc lập - Tự do - Ấm no - Hạnh Phúc” thực sự.

Thiện Ý
Houston, ngày 18-10-2018

Những xác én sẽ làm nên mùa Xuân dân tộc

Những xác én sẽ làm nên mùa Xuân dân tộc


Biểu tình chống 2 dự luật, Đặc Khu Kinh Tế và An Ninh Mạng.
Thiện Ý

Như mọi người đã biết, trong mấy tháng gần đây, đảng và nhà cầm quyền của chế độ độc tài toàn trị “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” đã liên tục đưa ra xét xử và kết án nặng nề những nhà bất đồng chính kiến và nhân dân chỉ vì các hoạt động ôn hòa đấu tranh cho các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền được biểu tỏ trên thực địa hay trên mạng truyền thông. Thế nhưng bị đảng và nhà cầm quyền coi là vi phạm Bộ luật Hình sự của chế độ cũng như Luật An ninh mạng mới được quốc hội của đảng CS thông qua, dù bị nhân dân chống đối quyết liệt và chưa có hiêu lực chấp hành cho tới đầu năm tới 2019.
Sự thể này cho thấy từ đây, ngoài công cụ pháp lý là “Bộ Luật hình sự” để nhà cầm quyền trấn áp các hoạt động thể hiện các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền trên thực địa; nay tăng cường thêm “Luật An ninh mạng” là công cụ pháp lý để “bịt miệng, siết cổ” nhân dân trên lãnh vục truyền thông trên mạng.
Hệ quả thực tế đúng như tuyên bố hôm 09/10 vừa qua của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, trong đó có đoạn viết Xu hướng gia tăng các vụ bắt giữ và những bản án nặng nề đối với các nhà hoạt động ôn hòa từ đầu năm 2016 đến nay hết sức đáng lo ngại. Từ đầu năm 2018 đến nay, Việt Nam đã kết án hơn 30 nhà hoạt động ôn hòa, tăng đáng kể so với năm ngoái.”
Tuyên bố này nhằm bày tỏ quan ngại của Hoa Kỳ về hành động mới nhất của nhà cầm quyền Việt Nam xử phạt các nhà hoạt động thuộc “Liên minh Dân tộc Việt Nam” hôm 05/10. Theo đó, Tòa án thành phố HCM đã tuyên phạt ông Lưu Văn Vịnh 15 năm tù, Nguyễn Quốc Hoàn 13 năm tù, Nguyễn Văn Đức Độ 11 năm tù, Từ Công Nghĩa 10 năm tù, và Phan Trung 8 năm tù.
Ngoài ra, chiến Dịch NOW! (Now Campaign), một chương trình có sự tham gia của 14 tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và quốc tế cho biết chính phủ Việt Nam hiện đang giam giữ ít nhất 246 tù nhân lương tâm trong tù hoặc trong điều kiện tương tự, tăng hơn 80 người so với con số 165 vào tháng 11 năm 2017, khi chiến dịch được khởi xướng. Tổ chức Now Campaign cũng nói rằng Việt Nam là nước đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á về số lượng người hoạt động bị giam cầm, chỉ sau Myanmar.
Trong chín tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã bắt giữ 24 người hoạt động nhân quyền, và kết án 33 người hoạt động với tổng cộng mức án 225.5 năm tù và 56 năm quản chế, theo NOW Campaign.
Ngoài ra, Việt Nam đã kết án 60 người tham gia các cuộc biểu tình hồi giữa tháng 6 để phản đối hai dự luật An ninh mạng và Đặc khu Kinh tế, với tổng cộng 113 năm và 5 tháng tù và tổng cộng 89 tháng quản chế. Có 148 tù nhân lương tâm thuộc sắc tộc Kinh và 75 người Thượng từ Tây Nguyên, hai người thuộc sắc tộc Khmer Krom.
Vẫn theo NOW Compaign, để đối phó với sự bất mãn xã hội ngày càng gia tăng và trấn áp giới bất đồng chính kiến, chính phủ Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp hà khắc, bao gồm kết án nhiều người bất đồng kính kiến với những bản án nặng nề, bắt giữ nhiều blogger và cáo buộc họ với những cáo buộc chính trị, và sử dụng biện pháp mạnh để ngăn chặn các cuộc biểu tình trên đường phố. Chỉ riêng từ ngày 1/7 đến ngày 30/9 năm nay, Việt Nam đã bắt giữ 19 nhà hoạt động và blogger. 10 người trong số họ bị buộc tội theo cáo buộc trong Bộ Luật Hình sự, trong khi các cáo buộc chống lại 9 người còn lại vẫn chưa được công bố, mới nhất là vụ bắt giữ blogger Hoàng Thị Thu Vang vào ngày 14/9 với cáo buộc “Phá rối an ninh” ở thành phố HCM
Vào tháng 4 năm nay, Tổ chức Ân Xá Quốc Tế cho biết có ít nhất 97 tù nhân lương tâm trong các trại giam ở Việt Nam, đa số phải sống trong các điều kiện tệ hại và bị ngược đãi.Ông James Gomez, Giám đốc Amnesty International tại Đông Nam Á tuyên bố: “Việt Nam là một trong những nhà tù giam giữ nhiều nhà tranh đấu hòa bình nhất Đông Nam Á – một danh hiệu đáng xấu hổ. Cả 97 tù nhân lương tâm mà chúng tôi biết được là những con người can đảm, đã bị mất đi tự do chỉ vì muốn thúc đẩy nhân quyền. Điều tệ hại nhất là con số này có thể thấp hơn so với thực tế.”
Sau đây có thể liệt kê một số vụ án điển hình cho điều mà bản Tuyên bố của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, cũng như sự ghi nhận của chiến dịch NOW, và Tổ chức Ân xá Quốc tế về sự gia tăng cường độ và mức độ đàn áp dân chủ, tước đoạt các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền trên thực địa cũng như trên mạng của nhà cầm quyền CS Việt Nam.
1.- Ngày 27/9/2018. Facebooker Bùi Mạnh Đồng bị Tòa án ở Cần Thơ kết án 2 năm 6 tháng tù, cho là vì đăng tải những thông tin và hình ảnh ‘xuyên tạc’ các lãnh đạo Đảng và Nhà nước.Ông Đồng, 40 tuổi, bị kết án với tội danh ‘Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước” theo điều 331 của Bộ Luật hình sự 2015, theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN).Đây là người thứ hai ở Cần Thơ nhận án tù trong tuần này vì đăng tải những thông tin mà chính quyền cho là nhằm bôi nhọ Đảng và Nhà nước trên Facebook.
2.-Hôm 26/9, một tòa án ở tỉnh Bình Thuận đã tuyên phạt mức án gần 50 năm tù đối với 15 người với cáo buộc ‘gây rối trật tự công cộng’ do tham gia vào đợt biểu tình phản đối dự luật Đặc khu và Luật An ninh Mạng vào tháng 6, theo hãng tin Reuters.
3.- Hôm 24/9, một tòa án ở Cần Thơ đã phạt blogger Đoàn Khánh Vinh Quang 27 tháng tù vì đăng tải thông tin xúc phạm đảng cộng sản, chính phủ Việt Nam (giống như tội “phạm húy” hay “khi Quân” thời phong kiến) , và kêu gọi biểu tình.Hãng tin Reuters cho biết nhà hoạt động Đoàn Khánh Vinh Quang, 42 tuổi, chủ tài khoản “Quang Đoàn” trên Facebook, bị phạt tù 27 tháng với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
4.- Với cùng tội danh như ông Quang, hôm 22/9, một tòa án ở Cần Thơ tuyên phạt Nguyễn Hồng Nguyên, 38 tuổi, và Trương Đình Khang, 26 tuổi, hai năm tù giam và một năm tù giam.Ông Nguyên, chủ tài khoản Facebook “Nguyên Hồng Nguyễn (Bồ Công Anh)” và bà Khang, chủ tài khoản Facebook “Hồ Mai Chi,” bị cáo buộc là đã soạn thảo, đăng và chia sẻ những bài viết, hình ảnh và video “có nội dung nói xấu, bôi nhọ lãnh tụ vô sản quốc tế, lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh.”
5.-Một tòa án ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, hôm 18/9 tuyên án tù hai người vì tham gia biểu tình chống Luật Đặc khu hồi tháng 6.Ông Tạ Thành Duy, 47 tuổi, và ông Nguyễn Văn Ý, 32 tuổi, bị tuyên cùng mức án 1 năm 3 tháng tù giam về tội “gây rối trật tự công cộng” khi tham gia cuộc biểu tình diễn ra ở Nha Trang vào ngày 10/6.
6.-Ngày 4/9, Công an tỉnh Đồng Tháp và Công an tỉnh Tiền Giang đã bắt giam ông Huỳnh Trương Ca, một blogger phản ánh các vấn đề xã hội, với cáo buộc “kích động, chống phá nhà nước,” theo điều 117 Bộ luật hình sự. và kêu gọi người dân xuống đường biểu tình vào dịp lễ Quốc khánh 2/9.
Trong một video clip được phát trực tiếp trên Facebook hôm 16/8, ông Ca nói, dù ông bị an ninh bố ráp và khủng bố tinh thần trong thời gian gần đây nhưng ông và các blogger khác quyết tâm phát động phong trào khai hiến, đòi quyền làm người như đã quy định tại điều 25 của Hiến Pháp năm 2013: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.Trong thông điệp phát đi hôm 16/8, ông Ca kêu gọi xuống đường biểu tình một cách ôn hòa vào ngày 4/9 để đòi các quyền hiến định của người dân.
7.-Một tòa án ở tỉnh Đồng Nai hôm 30/7 tuyên án tù từ 8 tháng đến 1 năm 6 tháng đối với 15 người biểu tình chống hai dự luật gây tranh cãi hồi đầu tháng 6 là “Đặc khu hành chánh kinh tế” và “An ninh mạng”. Nhà chức trách khép những người này vào tội “gây rối trật tự công cộng”.Tin cho hay, bị cáo nhận bản án cao nhất là Nguyễn Duy Quang, 35 tuổi, ngụ ở huyện Thống Nhất trong tỉnh. Mức án cao thứ nhì, 1 năm 4 tháng tù, được tuyên cho Phạm Ngọc Hạnh, 45 tuổi, sống tại thành phố Biên Hòa. 13 người còn lại nhận mức án từ 8 - 10 tháng tù.
8.- Hôm 23/7, 10 người khác đã bị tòa án huyện Tuy phong tuyên án tổng cộng 27 năm tù giam vì tham gia bạo động tại thị trấn Phan Rí Cửa, theo VTC News.Trước đó, ngày 12/7, Tòa án tỉnh Bình Thuận tuyên các án tù lên tới 2 năm rưỡi đối với sáu người tham gia biểu tình phản đối dự luật đặc khu.
Những vụ án điển hình trên đây cho thấy, đảng và nhà cầm quyền của chế độ độc tài toàn trị hiện nay đã và đang điên cuồng gia tăng cường độ và mức độ trấn áp mọi tiếng nói bất đồng chính kiến của người dân; dù đó chỉ là sự thể hiện ôn hòa các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền đã được chính Hiến pháp của chế độ qui định.
Trong cuộc hội luận mới đây trên một đài Phát thanh Việt ngữ ở Houston, người điều hợp đã nêu ra tình hình thực tế trên, với sự kiện diển hình là nhà cầm quyền đã tăng cường tối đa các biện pháp trấn áp trước và trong ngày lễ 2-9 khiến không có cuộc biểu tình nào của quần chúng nhân dân dự trù trước đó diễn ra được, để nêu câu hỏi với người viết: “Với kinh nghiệm của một người từng đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền bị bắt cầm tù trong nước, đánh giá thế nào về việc nhà cầm quyền tăng cường các biện pháp trấn áp đối với cao trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền của quần chúng và tinh thần của các nhà đấu tranh vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước?”.
Sau đây là câu trả lời của chúng tôi: Các biện pháp trấn áp bằng các công cụ bạo lực để bảo vệ chế độ như quân đội, công an,luật pháp, Tòa án, nhà tù, pháp trường… trong một chế độ độc tài toàn trị như chế độ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (ngụy cộng hòa, dân chủ, ngụy giai cấp vô sản) hiện nay:
1.- Đối với cao trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền của quần chúng nhân dân, thì mọi biện pháp trấn áp dù tinh vi, tàn bạo đến đâu, cũng chỉ có hiệu quả nhất thời.
Tỷ như việc tăng cường các công cụ đàn áp bằng bạo lực trước và trong ngày 2-9 vừa qua, chỉ làm cho các cuộc biểu tình của quần chúng nhân dân tạm thời không nổ ra, để tránh tổn thất, bảo toàn lực lương đấu tranh. Nhưng không thể tiêu diệt được các cuộc biểu tình sẽ tiếp tục nổ ra trong tương lai, khi cần và có thời cơ, với cường độ mạnh hơn, phạm vi mở rộng hơn. Bởi vì nguyên nhân dẫn đến các cuộc biểu tình là mâu thuẫn đối kháng (một mất, một còn) ngày càng sâu sắc giữa nhân dân (đòi quyền làm chủ và các quyền tự do, nhân quyền) với nhà cầm quyền độc tài toàn trị CS (bác đoạt quyền làm chủ, các quyền tự do, nhân quyền) vẫn chưa giải quyết. Nghĩa là ngày nào còn tồn tại trên đất nước ta một chế độ độc tài đảng trị CS, “thiết lập bằng bạo lực (cướp chính quyền), duy trì bằng bạo lực (bằng các công cụ độc tài ngụy giai cấp vô sản, trấn áp nhân dân), thì nhân dân bị tước đoạt quyền làm chủ, bị áp bức, bóc lột sẽ tiếp tục vùng lên đấu tranh cho tới khi nào giành lại tất cả các quyền của mình.
2.- Đối với tinh thần của các nhà đấu tranh vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước, từ kinh nghiệm bản thân cũng như của những nhà đấu tranh cho những lý tưởng cao cả trên khắp thế giới, từ cổ chí kim, chúng tôi cho rằng mọi biện pháp trấn áp của nhà cầm quyền dù tàn bạo (xỉ nhục, khủng bố, tra tấn…) và nghiệt ngã đến đâu (hành hạ, bỏ đói khát, để chết vì bệnh tật trong nhà tù…)cũng không thể hủy diệt được tinh thần và các hoạt động đấu tranh kiên cường của họ và không giảm số lượng những người kế tục.
Bởi vì, một khi dấn thân vào con đường đấu tranh vì nhân dân, vì đất nước và dân tộc, hầu hết các nhà đấu tranh cho dân chủ hôm nay, đều có ít nhiều bản lãnh, vượt qua sự sợ hãi , chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ cá nhân, hạnh phúc gia đình.
Chính vì vậy và nhờ vậy, khi phải đương đầu với cường quyền, tương quan lực lượng không cân sức; dẫu ở thế yếu và dù biết rằng con đường đấu tranh còn dài, mục tiêu tối hậu có khi cả đời mình chưa đạt được, như “một con én không làm nổi mùa xuân”, có thể bị cường quyền nghiền nát như “một xác én”. Thế nhưng họ vẫn kiên trì, tình nguyện làm “một xác én”, với niềm tin mãnh liệt là đã góp phần cùng “những xác én khác làm nên Mùa Xuân Dân Tộc”.
Lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc,chống xâm lược Phương Bắc kéo dài hàng ngàn năm và chống xâm lược Phương Tay kéo dài gần 100 năm, đã chứng mình rằng, nếu không có sự tình nguyện dấn thân hy sinh làm “những xác én” của các anh hùng hào kiệt và nhân dân, thì làm sao đánh duổi được cường quyền xâm lược,đem lại “Mùa xuân cho Dân tộc”…Từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp của nhân dân Miền Nam, hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực từng khẳng định đại ý “Bao giờ quân xâm lược Pháp nhổ hết cỏ Nước Nam, thì mới hết người dân Nam chống Pháp”. Trước khi cùng 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng bước lên máy chém của thực dân Pháp, anh hùng Nguyễn Thái Học cũng từng kêu gọi mọi người “chấp nhận cái chết cho Tổ Quốc quyết sinh”.
Ngay nay cũng vậy, nếu ai cũng nghĩ rằng “Con én không làm nổi mùa xuân” khi đứng trước cường quyền độc tài toàn trị cộng sản, không dám dấn thân đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa đất nước, tình nguyện hy sinh và chấp nhận làm “những xác én” lót đường cho các thế hệ mai sau tiếp nối để tạo dựng “mùa xuân cho dân tộc”.
Viết đến đây chúng tôi liên tưởng đến bài hát “Đảng đã cho ta mùa Xuân” có nội dung và mục đích tuyên truyền ca ngợi công lao của đảng cộng sản Việt Nam. Bài hát thể hiện hai nghịch lý: Một là tác giả bài Viết là Phạm Tuyên, con của Thượng thư Phạm Quỳnh, đã bị Việt Minh cộng sản giết vì bị kết tội “Việt gian” sau khi cướp đưiợc chính quyền trong biến cố Tháng 8 năm 1945. Vậy mà đã tình nguyện hay phải viết (để tồn tại) một bài viết ca ngợi chính kẻ đã giết cha mình. Hai là tên và nội dung bài viết hoàn toàn trái với sự thật: Thực tế, đảng cộng sản Việt Nam đã không cho “Ta” (là quần chúng nhân dân Việt Nam?) “Mùa Xuân”, mà “Đảngđã chỉ cho “Ta” (nhân dân ta, đất nước ta) những “Mùa Đông băng giá, nghiệt ngã và buồn thảm !”.
Vậy thì, trong hiện trạng Việt Nam cũng đang cần “nhiều xác én” đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền, để làm tiêu vong từng bước chế độ độc tài toàn trị “Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa”, tạo dựng “mùa Xuân cho Dân Tộc” là một đất nước phải có “chế độ dân chủ pháp trị” đích thực, làm tiền đề đoàn kết toàn lực quốc gia, tập trung cao độ mọi tiềm năng nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại để xạy dựng và phát triển toàn diện đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ. Từ đó và nhờ đó mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam sẽ được sống trong “Độc lập-Tự Do-Hạnh phúc” thực sự; chứ không còn là khẩu hiệu tuyên truyền lừa mị của đảng Cộng sản Việt Nam (gia danh, giả hiệu) như bấy lâu nay. Phải không ạ, thưa quý độc giả thân mến!

Thiện Ý
Houston, ngày 12-10-2018

Vì đâu Việt Nam ra nông nỗi này?

Vì đâu Việt Nam ra nông nỗi này?


Tổng thống Nam Hàn (trái) và lãnh đạo Triều Tiên tại Bắc Hàn, 20 tháng Chín, 2018.
Thiện Ý

Trong chuyến đi Bình Nhưỡng, thủ đô Bắc Hàn của Tổng thống Nam Hàn Moon Jae In, họp Thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong Un lần thứ ba vào tháng 9 vừa qua, để bàn về tiến trình hiệp thương đi đến thống nhất đất nước, người ta chú ý đến những hình ảnh đón tiếp cực kỳ long trọng và các màn biểu diễn các hoạt cảnh sống động đầy ấn tượng mang tính biểu tượng cho khát vọng hòa bình, hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân hai miền Bắc-Nam Triều Tiên. Người viết khi ngồi xem một cuốn phim của YonhapNews trên youtub ghi nhận những hình ảnh này, nhất là hình ảnh hai nhà lãnh đạo Bắc-Nam Hàn thân thiết đi bên nhau, tươi cười vẫy tay trước sự cuồng nhiệt đón chào của đám đông hàng trăm ngàn người dân Bắc Triều Tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra và lòng cảm thấy đau xót khi nhìn người lại nghĩ đến ta để tự hỏi “Vì đâu Việt Nam ra nông nỗi này?”.
Những nông nỗi gì và làm sao hóa giải những nông nỗi từ quá khứ đến hiện tại, để Việt Nam có được một tương lai tươi sáng tốt đẹp cho dân cho nước, như những nỗ lực của nhà cầm quyền Bắc và Nam Hàn đã và đang cùng hướng tới để đáp ứng khát vọng của nhân dân hai miền Triều Tiên?
I.- NHỮNG NÔNG NỖI GÌ?
Đó là những nông nỗi từ quá khứ đến hiện tại.
1.- Nông nỗi từ quá khứ: Việt Nam đã không bị chiến tranh tàn phá đất nước, giết hại hàng triệu người dân Việt tộc trên cả hai miền đất nước, để lại những hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước, dân tộc và các thế hệ mai sau…
- Nếu như đảng Cộng sản Việt Nam đã không tri tình, nhiệt tình, phát động cuộc chiến tranh Nồi da sáo thịt kéo dài nhiều năm để cướp chính quyền chính thống quốc gia ở Miền Nam, cộng sản hóa cả nước, để hoàn thành “nghĩa vụ quốc tế cộng sản” cho hai tân đế quốc đỏ Nga-Tàu.
- Nếu như đảng Cộng sản Việt Nam theo gương đảng Lao Động Bắc Hàn, sau khi phát động chiến tranh, biết sớm giác ngộ ngừng lại cuộc chiến làm “nghĩa vụ quốc tế cộng sản cho Nga-Tàu” (như Bắc Hàn chỉ sau cuộc chiến 3 năm: 1950-1953) để tập trung nội lực (nhận lực, tài lực trong nước) và ngoại lực (thu hút viện trợ của Liên Xô, Trung quốc và các nước XHCN…) xây dựng thử nghiệm mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ( Như Bắc Hàn đã làm…) để chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hòa bình (như Bắc Hàn và Nam Hàn đã và đang làm…).
Thực tế, quả là đảng CSVN đã đánh mất cơ hội ngừng cuộc chiến sớm hơn, tuy có trễ, nhưng chưa muộn, để cùng chính quyền chính thống quốc gia ở Miền Nam thực hiện giải pháp thống nhất đất nước một cách hòa bình qua ba giải đoạn,như chúng tôi đã trình bày trong bài viết trước trên diễn đàn này.
Đó là cơ may sau khi ký kết Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam ngày 27-1-1973. Từ đó và sau đó, đảng CSVN chỉ cần thực thi nghiêm túc bản Hiệp định này, thì giờ đây Việt Nam sau 45 năm (1973-2018). có thể đã có hay sẽ có cơ may thuận lợi thống nhất đất nước một cách hòa bình. Tương tự như Bắc và Nam Hàn, sau 65 ngừng cuộc chiến (1953-2018) cơ may thuận lợi đã đến đó là, Nam Hàn dân chủ đã phát triển kinh tế giầu mạnh, Bắc Hàn độc tài toàn trị cộng sản tuy còn nghèo yếu kinh tế, nhưng mạnh quân sự khi đã có vũ khí hạt nhân trong tay, để có thể chủ động cùng Nam Hàn thực hiện tiến trình hòa giải dân tộc đi đến thống nhất đất nước một cách hòa bình.Nhất là cơ may đã được các cường quốc có ảnh hưởng tán đồng cho các nỗ lực hòa giải dân tộc, tiến tới thống nhất Triều Tiên bằng con đường hòa bình.
Nhớ lại, sau khi Hội nghị Paris khởi sự ít lâu, người viết lúc đó còn là sinh viên, đã gửi Thư ngỏ đến “Các nhà lãnh đạo hai miền Bắc-Nam”, đăng trên Nội san Sinh viên Tiến bộ Luật khoa. Trong thư chúng tôi đã tha thiết kêu gọi các nhà lãnh đạo hai Miền Bắc-Nam “Nhân cơ may lịch sử này, cùng nhau tìm ra một giải pháp phù hợp với thực trạng Đất nước và nương theo ý đồ quốc tế có lợi nhất cho dân tộc Việt Nam, để chấm dứt sự đổ máu vô ích cho thế hệ thanh niên chúng tôi trên cả hai Miền Bắc-Nam…”
Trong thư chúng tôi đã dùng biểu tượng hai con tầu Bắc – Nam cùng đi về một bến; trong một giả định rằng tất cả quý vị lãnh đạo hai miền đang lèo lái hai con tầu ấy đều có chung lòng yêu nước, đều có thiện chí muốn làm những điều tốt đẹp cho đất nước, để đưa dân tộc đến bến vinh quang. Lập luận rằng: Nhưng vì hai con tầu mang hai nhãn hiệu đối nghịch URSS (Bắc) và USA (Nam), đi theo chiều ngược nhau, tạo phản lực, gây thương tích hoặc tử vong cho những hành khách bất đắc dĩ trên hai con tầu ấy là chúng tôi (thanh niên) và nhân dân hai miền nói chung. Lúc ấy, chúng tôi đã mạo muội đề nghị, nếu quý vị không thể cùng nhau tìm ra được con đường chung tốt hơn cho dân tộc, thì xin tạm thời đường ai nấy đi, để chờ cơ may thống nhât Đất nước một cách hòa bình. Trong khi chờ đợi cơ may ấy, quý vị cố gắng khai thác triệt để mâu thuẫn quốc tế (Chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng sản và Tư bản) để làm lợi cho dân tộc (nhận viện trợ phát triển thay vì vũ khí giết người…). Đồng thời, vận dụng mọi thuận lợi hai bên cùng thể nghiệm hai mô hình chế độ chính trị (Xã Hội Chủ Nghĩa chuyên chính và Cộng hòa dân chủ pháp tri) để trong tương lai khi có điều kiện thuận lợi, nhân dân hai miền sẽ lựa chọn bằng phương thức dân chủ (lá phiếu trong một cuộc tổng tuyển cử tự do.. ) mô hình chế độ chính trị nào thích dụng, có lợi cho đất nước (Như Bắc và Nam Hàn đã và đang đi theo chiều hướng này)
Tiếc rằng lời kêu gọi và những đề nghị chân thành thể hiện ước muốn chung của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam thời bấy giờ (cũng như bây giờ) đã không được các nhà lãnh đạo hai miền Bắc-Nam mảy may quan tâm; chỉ là tiếng kêu lạc lõng trong sa mạc, bị nhận chìm trong tiếng bom gào đạn thét. Vì giải pháp khác đã được ngoại bang sắp xếp và áp đặt. Vì sự vâng phục, lòng háo thắng, đam mê quyền lực và quyền lợi cá nhân và tập đoàn thống trị đã che lấp sự khôn ngoan, hủy diệt lòng yêu nước của quý vị. Vì quý vị đã đặt quyền lợi cá nhân và tập đoàn thống trị trên quyền lợi dân tộc, đất nước và nhân dân…
2.- Nông nỗi đến hiện tại.
Mặc dù đảng CSVN đã dùng bạo lực chiến tranh sau hơn 20 năm (1954-1975) để thống nhất được đất nước hơn 43 năm qua, với cái giá của hàng triệu sinh linh trên cả hai miền Nam - Bắc; nhưng dân tộc Việt Nam vẫn bị phân hóa do cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng vẫn chưa chấm dứt. Bởi vì mục tiêu tối hậu của ý thức hệ cộng sản và ý thức hệ quốc gia vẫn chưa bên nào đạt được.
Mục tiêu tối hậu ý thức hệ cộng sản, thì những người cộng sản Việt Nam đã có cơ hội và thời gian dài trên 43 năm thực hiện mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa trên cả nước vẫn chưa đạt được. Mặc dầu thực tế công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thất bại hoàn toàn tại Việt Nam cũng như hầu hết các nước thử nghiệm chủ nghĩa này; kể cả Liên Xô, nước đầu tiên vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tiễn, từng được cộng sản Việt Nam xưng tụng là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu thực tế đảng CSVN đã từ bỏ con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội khởi sự từ hơn hai thập niên qua (1995-2018). Thế nhưng bề ngoài đảng CSVN vẫn ngoan cố dùng bảng hiệu “đảng CSVN” (ngụy cộng sản) và bảng hiệu chế độ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam(ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ) để có trong tay “Công cụ chuyên chính vô sản” (ngụy vô sản) là công an, quân đội,luật pháp, tòa án, nhà tù, pháp trường… để trấn áp và bác đoạt các quyền tự do dân chủ, nhân sinh, dân quyền cơ bản của nhân dân; để duy trì một chế độ độc tài toàn trị sắt máu, bảo vệ độc quyền thống trị cho một đảng độc tôn; cũng là bảo vệ các ưu quyền, đặc lợi cho một giai cấp thống trị là các đảng viên cộng sản có chức, có quyền, lắm bạc, nhiều tiền cấu kết với nhau.(như đã thể hiện qua cuộc sống của họ trên thực tế không cần nói ra, ai cũng thấy và phẫn nộ…)
Chính từ thực tế trên mà cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộngg tiếp tục diễn ra (giai đoạn chót của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng)., dù cuộc chiến tranh Quốc-Cộng đã kết thúc hơn 43 năm rồi. Bởi vì mục tiếu tối hậu của người Việt quốc gia về chính trị là thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị và phát triển kinh thế theo con đường kinh tế thị trường, trong một xã hội nhân bản, khai phóng, có nhiều giai cấp sống chung, cộng đồng đồng tiến, tôn trọng quyền tư hữu, các quyền tự do kinh tế, dân chủ, dân sinh, nhân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử…Nhưng mục tiêu tối hậu này người Việt quốc gia vẫn chưa đạt được. Và vì vậy họ tiếp tục công cuộc chống cộng sản độc tài, phản dân chủ cho đến khi thành đạt mục tiếu tối hậu này. Cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam sẽ chấm dứt ngay khi mục tiếu tối hậu này của phía Việt Quốc thành đạt cách này hay cách khác.Vậy thì…
II/- LÀM SAO HOÁ GIẢI ĐƯỢC NHỮNG NÔNG NỖI TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI?
Muốn hóa giải những nông nỗi từ quá khứ đến hiện tại, câu trả lời tổng quát là Việt Nam cách nào đó phải được dân chủ hóa.Vì chỉ có dân chủ hóa mới chấm dứt được phân hóa dân tộc, thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng phát triển toàn diện đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ ngang tầm cao thời đại; tạo thế và lực bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trước họa xâm lăng bất cứ từ đâu tới (trước mắt là hiểm họa xâm lăng từ nước lớn láng diềng Phương Bắc)
Như chúng tôi đã có dịp trình bày trong nhiều bài viết từ nhiều năm qua cho đến lúc này, vẫn là Việt Nam cần được dân chủ hóa để giải quyết mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn) giữa nhà cầm quyền độc tài đảng trị với mọi tầng lớp nhân dân mà quyền làm chủ bị tước đoạt. Từ đó và nhờ đó chấm dứt được cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài nhiều thập niên qua làm phân hóa dân tộc.
Bởi vì, ý nguyện của nhân dân và mục tiêu chống cộng của người Việt quốc gia bao lâu nay vẫn là một: dân chủ hóa đất nước. Vì chỉ có dân chủ hóa đất nước thì quyền làm chủ của nhân dân mới được thu hồi trọn vẹn. Từ đó và nhờ đó các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền của mọi tầng lớp nhân dân (chứ không riêng giai cấp thống trị) mới được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. Từ đó và nhờ đó mọi tầng lớp nhân dân mới được sống trong “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” thực sự; chứ không phải chỉ là bánh vẽ như đảng CSVN trưng ra làm khẩu hiệu tuyên truyền lừa mị nhân dân trước và sau khi “cướp được chính quyền” trên cả nước.
Vậy Việt Nam phải dân chủ hóa như thế nào? - Như chúng tôi đã đề nghị nhiều lần, có hai cách dân chủ hóa đất nước:
1.- Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm quyền độc tôn trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” tự nguyện, tự giác, chủ động thực hiện một tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Đây là cách dân chủ hóa đất nước một cách hòa bình có lợi nhất cho dân cho nước, nếu đảng CSVN tỏ ra khôn ngoan hơn, biết dừng lại đúng lúc. Trong sự chuyển đổi êm dịu này, đảng CSVN vẫn có thể bảo vệ được quyền và lợi cho một tập đoàn thống trị trong quá trình chuyển đổi và sau khi chuyển đổi chế độ từ độc tài toàn trị độc đảng qua dân chủ pháp trị đa đảng; đảng CSVN vẫn có chỗ đứng và tiếng nói trên chính trường (tương tự như ở Nga và các nước cựu cộng sản Ðông Âu). Nghĩa là, ở cuối quá trình chuyển đổi, nếu đảng CSVN chủ động kết thúc quá trình bằng sự tự giác từ bỏ độc quyền thống trị, một mình đi bước trước hay cùng với các lực lượng chính trị quốc gia, dân tộc, dân chủ thiết lập một thể chế chính trị dân chủ pháp trị trên nền tảng “nhất nguyên dân tộc” (khác nhất nguyên xã hội chủ nghĩa phi dân tộc) và đa đảng.
Trên thực tế, hành động cụ thể khả tín là đảng CSVN chủ động tự mình tuyên bố tu chỉnh hay hủy bỏ toàn bộ bản hiến pháp hiện hành, làm bản hiến pháp mới hay sửa đổi biến cải bản hiến pháp hiện hành thành bản hiến pháp dân chủ đa đảng; song song với việc trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân chính trị và chấm dứt mọi hành vi bắt bớ giam cầm những người bất đồng chính kiến hay vì lý do tôn giáo. Ðồng thời, điều chỉnh các văn kiện lập pháp và lập quy cho phù hợp với thể chế dân chủ đa đảng, song song với việc thực thi, tôn trọng, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, dân sinh và nhân quyền cơ bản.
Tất cả nhằm hình thành khung cảnh dân chủ đa nguyên, tiền đề chế độ dân chủ pháp trị và tạo niềm tin cho các lực lượng chính trị quốc gia, dân tộc dân chủ (về sự thực tâm của người CS) để bước vào sân khấu chính trị tranh cử với đảng cộng sản (nếu còn giữ nguyên tên đảng) hay đảng của những cựu đảng viên cộng sản (nếu biến thể thay tên khác). Trong điều kiện này, các chính đảng thuộc mọi khuynh hướng có thể nắm quyền bằng phương thức dân cử thông qua các cuộc ứng cử, tranh cử và bầu cử tự do. Nếu đảng cộng sản vẫn là một chính đảng mạnh, được nhân dân tín nhiệm, họ vẫn có thể tiếp tục nắm quyền. Tất nhiên, dù đảng cộng sản nắm quyền hay bất cứ chính đảng nào khác cũng phải cai trị theo hiến pháp và luật pháp chế độ dân chủ pháp trị, đa đảng đã được ban hành.
2.- Hai là, nếu những người CSVN ngoan cố bám lấy quyền hành, trong điều kiện lượng dân chủ đã tích lũy thừa đủ, thì họ sẽ bị lật đổ bằng chính sức mạnh của quần chúng nhân dân. Nghĩa là, vào thời điểm mà, mâu thuẫn giữa nhà cầm quyền CSVN đã không còn là mâu thuẫn với một vài giai cấp trong xã hội, mà trở thành mâu thuẫn đối kháng với mọi giai cấp, với toàn xã hội. Giai cấp cầm quyền (là đảng CSVN) sẽ bị cô lập, sẽ tạo ra tiền đề sụp đổ cho chế độ mà chính lãnh tụ cộng sản Nga Vladimir Lenine đã chỉ ra rằng, khi “tình thế cách mạng chín muồi” cách mạng quần chúng nhằm lật đổ chính quyền sẽ nổ ra và nhất định thắng lợi.
Bởi vì, trong tình thế này thì chính sức mạnh vùng lên của nhân dân bị áp bức, bóc lột đã đạt đến biên độ “tức nước vỡ bờ”, sẽ giật sập chế độ. Vì lúc đó các công cụ bảo vệ chế độ chuyên chính CS (quân đội, công an…) sẽ đứng về phía nhân dân, sẽ quay súng bắn vào đầu những kẻ cầm quyền độc tài ngoan cố hay sẽ bỏ chạy để mặc làn sóng biểu tình của nhân dân ào lên đè bẹp giai cấp cầm quyền bằng sức nặng của toàn khối nhân dân, chứ không cần sức mạnh của bạo lực quân sự.
Ðây không chỉ là lý luận Marx - Lenin về đấu tranh cách mạng mà là một thực tế đã xẩy ra tại Liên Xô vào đầu thập niên 1990, khi nhân dân Liên Xô bao vây viện Duma (Hạ viện). Lúc ấy, dân chúng ào lên, quân đội, công an, mật vụ vốn là công cụ bảo vệ nền chuyên chính vô sản Xô viết thiết lập hơn 70 năm ở đất nước này(1917-1991), đã bỏ chạy. Chế độ Xô viết đã sụp đổ tan tành, kéo theo sau đó sự tiêu vong cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu, để cùng hình thành chế độ dân chủ pháp trị đa đảng, với cơ cấu kinh tế thị trường tự do như hiện nay,
III/-KẾT LUẬN:
Nỗ lực và ý hướng chung của các nhà lãnh đạo chế độ Bắc Hàn độc tài cộng sản và chế độ Nam Hàn dân chủ pháp trị là nhắm thành đạt hai mục tiêu: hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước một cách hòa bình. Đây là một tiến trình không đơn giản và có thể kéo phải mất một thời gian nhất định, vì mới khởi sự giai đoạn 2 (Hiệp thương để hòa giải dân tộc, cân bằng phát triển kinh tế…) để kết thúc giai đoạn 3 (thống nhất đất nước…).
Trông người lại nghĩ đến ta, Việt Nam thì đã thống nhất hơn 43 năm rồi, nhờ đó hòa giải dân tộc theo nghĩa hài hòa giữa nhân dân hai miền Bắc cộng sản – Nam quốc gia thì như đã được xóa mờ qua thực tế sống chung; nên có thể không còn là một trở ngại. Nghĩa là Việt Nam không còn vấn đề “hòa giải và hòa hợp dân tộc” mà chỉ còn vấn đế “hóa giải những nâu thuẫn về lãnh đạo dân tộc”, là mâu thuẫn giữa “độc tài toàn trị” với “dân chủ pháp trị”. Mâu thuẫn đối kháng này có thể được giải quyết dễ dàng và nhanh chóng hơn, vì không cần sự thương thảo song phương để tìm sự đồng thuận của đôi bên (như Bắc và Nam Hàn đang làm), mà hệ tại một bên là đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay “đơn phương, tự nguyện, tự giác, từ bỏ chế độ độc tài toàn trị cộng sản” (tự diễn biến, tự chuyển đổi) chủ động thực hiện dân chủ hóa đất nước theo một tiến trình hòa bình, tịnh tiến một cách phù hợp với tình hình thực tiễn, để duy trì sự ổn định chính trị, an toàn xã hội, tránh xáo trộn bất lợi cho đất nước.( (diễn biền hòa bình).
Người Viết thành tâm mong muốn, đảng Cộng sản Việt Nam cần khởi động tiến trình này càng sớm càng tốt, để giải quyết dứt điểm “cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng” kéo dài nhiều thập niên qua làm phân hóa và suy yếu dân tộc. Nhất là người đứng đầu đảng CSVN là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mà tin mới từ Hội Nghị Trung ương 8 đang họp tại Hà Nội cho hay sẽ kiêm nhiệm Chủ tịch nước nay mai. Từ vị thế tập trung quyền lực này và uy thế áp đảo trong nội bộ đảng, người dân mong rằng, nếu chưa thể là một Mikhain Gorbachov của Việt Nam, vì hạn chế tuổi tác (đã 74 tuổi rồi) và “Vòng Kim Cô Đỏ” của ngoại bang còn xiết chặt, mong Ông chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của một Gorbachov thuộc thế hệ con cháu. Từ đó và nhờ đó mới thống nhất được toàn lực quốc gia, để tập trung trí tuệ, nhân lực, tài lực nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại khắp nơi vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại. Đồng thời, tạo được thế lực bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và đập tan mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu tới.

Thiện Ý
Houston, ngày 3-10-2018

Thống nhất Triều Tiên theo giải pháp “VN từng nghĩ đến”


Thống nhất Triều Tiên theo giải pháp “VN từng nghĩ đến”


Tổng Thống Hàn Quốc, Moon Jae-in (trái) và lãnh tụ Triều Tiên, Kim Jong Un, tại Bắc Hàn, 20 tháng Chín, 2018.
Thiện Ý

Như vậy là sau ba cuộc họp Thượng đỉnh, hai ở Bàn Môn Điếm trong khu phi quân sự ngăn chia hai Miền Nam-Bắc, một ở Thủ đô Bình Nhưỡng của Bắc Hàn và hứa hẹn cuộc họp Thượng đỉnh thứ tư ở Thủ đô Hán Thành Nam Hàn nội trong năm nay, giữa Chủ tịch Kim Jong Un của chế độ độc tài cộng sản Bắc Triều Tiên và Tổng thống Moon Jae In của chế độ dân chủ Nam Triều Tiên, đã cho người ta thấy sự hình thành một giải pháp tiến tới thống nhất đất nước Triều Tiên một cách hòa bình. Một giải pháp mà chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa đã từng nghĩ đến cho Việt Nam, sau khi Pháp và Việt Minh cộng sản ký kết Hiệp Định Genève 1954 chia đôi Việt Nam. Thế nhưng giải pháp tốt đẹp, có lợi cho đất nước và dân tộc Việt Nam đã không thực hiện được vì sao?
I/- MỘT GIẢI PHÁP TỐT ĐẸP CÓ LỢI CHO ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC.
Giải pháp này được thực hiện đại để qua ba giai đoạn:
1.- Miền Bắc cộng sản và Miền Nam quốc gia tập trung nỗ lực thực hiện mô hình chế độ chính trị theo ý thức hệ của mình.
2.- Miền Bắc cộng sản và Miền Nam quốc gia hiệp thương trên các lãnh vực có thể trao đổi được (nhân đạo, thư tín, kinh tế mậu dịch,trao đổi tài nguyên thiên nhiên…) theo trình tự thời gian phù hợp, như là quan hệ trong một đất nước có hai chế độ chính trị khác biệt, tạm thời qua phân, chờ ngày thống nhất một cách hòa bình.
3.-Thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử tự do, có giám sát quốc tế hay không là tùy đồng thuận giữa nhà cầm quyền hai Miền Bắc cộng sản-Nam quốc gia; để nhân dân hai miền thông qua lá phiếu chọn lựa mô hình chính trị nào mà đa số cho là thích dụng, hữu hiệu và có lợi nhất cho đất nước và dân tộc.
Theo đó Miền Bắc cộng sản, trên vĩ tuyến 17 đếi Ải Nam Quan, đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền thống trị độc tôn, tập trung nỗ lực xây dựng thành công mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa(ngụy trang Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa), bằng cách huy động mọi tiềm năng nhân lực, tài lực của Miền Bắc (nội lực) kết hợp với sự chi viện nhiều mặt (nặng về xây dựng cơ cấu hạ tầng và phát triển kinh tế, văn hóa,khoa học kỹ thuật, xã hội, nhẹ về quân sự quốc phòng…) của Liên Xô, Trung Quốc và các nước “xã hội chủ nghĩa anh em” (ngoại lực); tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thành công xã hội “xã hội chủ nghĩa”. Từ đó và nhờ đó chứng tỏ “tính ưu việt” và sự hiện thực của một xã hội “xã hội chủ nghĩa” mà đức tin cộng sản cho rằng mọi người dân đều được sống trong “Độc lập- Tự do-ấm no-Hạnh phúc”; mỗi người dân sẽ “lao động theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nhờ đó mọi người dân được hưởng thành quả do sức lao động bỏ ra một cách tương xứng, góp phần tạo dựng một xã hội công bình, tương thân tương ái, sống với tinh thần“mình vì mọi người, mọi người vì mình”, đất nước phồn vinh; tạo tiền đề tiến tới một xã hội viên mãn “xã hội cộng sản chủ nghĩa” “không còn giai cấp, không còn cảnh người áp bức bóc lột người”, “mọi người lao động tự giác, làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.Vì khi đó, tài hóa dư thừa, thỏa mãn được mọi nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của người dân; các hoạt động sản xuất, lưu thông phân phối tài hóa dịch vụ sẽ tự động, tự giác, nên không cần đến bộ máy nhà nước nên tiêu vong; mọi người đều được sống tự do, ấm no, hạnh phúc như “Thiên Đường Cộng sản”, trong một “Thế giới đại đồng”, không còn biên giới quốc gia (!?!)…
Trong khi đó Miền Nam quốc gia, dưới vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mau, chính quyền chính thống quốc gia và các chính đảng quốc gia tập trung nỗ lực cùng nhân dân Miền Nam xây dựng thành công mô hình chế độ “dân chủ pháp trị” (Việt Nam Cộng Hòa); bằng cách huy động mọi tiềm năng nhân lực, tài lực của Miền Nam (nội lực) kết hợp với sự viện trợ nhiều mặt(nặng về xây dựng cơ cấu hạ tầng và phát triển kinh tế, văn hóa,khoa học kỹ thuật, xã hội, nhẹ về quân sự quốc phòng…) của Hoa Kỳ và các cường quốc đồng minh trong “Thế giới Tự do(ngoại lực); tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thành công “chế độ Tự do-Dân chủ pháp trị”. Từ đó và nhờ đó chứng tỏ sự hiện thực một xã hội mà người Việt Nam mang ý thức hệ quốc gia tin là một xã hội nhân bản, khai phóng,có tự do, dân chủ, công bằng (tương đối), với sự cùng tồn tại của nhiều giai cấp xã hội sống chung, cộng đồng, đồng tiến, trong một đất nước phát triển toàn diện đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại.
Giải pháp ba giai đoạn trên tương tự như giải pháp mà Nam-Bắc Triều Tiên đã thực hiện giai đoạn 1 và đang khởi động trở lại thực hiện tiến trình giai đoạn 2 (vì đã khởi động những năm trước đây bị gián đoạn nhiều lầndo cộng sản Bắc Hàn lươn lẹo) để tiến tới giai đoạn 3 thống nhất đất nước. Giải pháp tương tự này đã từng được chính phủ chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa nghĩ đến và khởi động từ 64 năm trước đây (1954-2018), nhưng đã không thể thực hiện được (1). Vì sao?
II/- VÌ SAO VIỆT NAM ĐÃ KHÔNG THỰC HIỆN ĐƯỢC GIẢI PHÁP THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC MỘT CÁCH HÒA BÌNH?

Theo nhận định của chúng tôi, một giải pháp thống nhất đất nước một cách hòa bình hết sức tốt đẹp và có lợi cho đất nước và dân tộc Việt Nam, nhưng đã không thực hiện được là vì:
1.- Đường lối chiến tranh đã được ngoại bang lựa chọn để thành đạt các lợi ích quốc gia ngắn hạn (tiêu thụ cho hết các loại vũ khí tồn đọng sau Thế Chiến II và thử nghiệm các loại vũ khí mới của hai phe công sản và tư bản) cũng như dài hạn của mình (tạo thế thuận lợi để các cường quốc đi vào một thế chiến lược toàn cầu mới hậu Chiến Tranh Lạnh).
Do đó, trong bối cảnh Việt Nam và Triều Tiên đều có số phận không may trong quá khứ, là đã rơi vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa hình thành sau Thế Chiến II (1939-1945), nên cũng khó khởi động thực hiện giải pháp thống nhất hai miền Bắc cộng-Nam quốc một cách hòa bình được. Vì vậy, Việt Nam và Triều tiên đành phải chấp nhận đất nước bị chia đôi và cuộc chiến tranh Bắc-Nam cốt nhục tương tàn, vì đã được các thế lực khuynh đảo quốc tế chọn là nơi thể hiện hình thái “Chiến tranh Nóng” (bất ổn, nội loạn, chiến tranh nơi các nước nghèo) bên cạnh hình thái “Chiến tranh Lạnh” (chạy đua vũ trang giữa các nước giầu, nên dù nước Đức chia đôi, vẫn không xẩy ra chiến tranh giữa Đông Đức cộng sản-Tây Đức dân chủ, sau cùng đã thống nhất một cách hòa bình, bằng sự ưu thắng của Tây Đức dân chủ pháp trị trên Đông Đức độc tài đảng trị).
Có điều khác biệt, là đảng Lao Động Triều tiên đã tỏ ra khôn ngoan hơn đảng Cộng sản Việt Nam khi thực hiện nghĩa vụ công cụ cho cộng sản quốc tế Nga-Tàu, vì cộng sản Bắc Hàn chỉ thực hiện cuộc chiến tranh thôn tính Nam Hàn trong 3 năm (1950 -1953) với sự tham chiến của “chí nguyện quân Trung cộng”, thì đã ngưng hẳn, sau khi bị liên quân Hoa Kỳ và Nam Hàn dưới ngọn Liên Hiệp Quốc đánh đuổi phải trở về cố thủ Bắc Hàn cho đến nay. Trong khi đảng CSVN thì hiếu chiến hơn, đã thực hiện một cuộc chiến tranh “cốt nhục tương tàn” lâu dài hơn để cộng sản hóa Miền Nam (1960-1975), với cái giá núi xương sông máu của nhân dân hai miền, đất nước tan hoang, để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho đất nước và dân tộc.
Giờ đây, cả Bắc và Nam Triều Tiên như đều cảm thấy thời cơ thuận lợi đã đến để cùng thực hiện giải pháp thống nhất đất nước một cách hòa bình. Thời cơ thuận lợi đó là, Nam Hàn dân chủ đã phát triển kinh tế giầu mạnh, Bắc Hàn độc tài cộng sản còn nghèo yếu kinh tế, nhưng mạnh quân sự khi đã có vũ khí hạt nhân trong tay, để có thể chủ động cùng Nam Hàn thực hiện tiến trình đi đến thống nhất đất nước một cách hòa bình. Đồng thời, về đối ngoại, với tư thế của một nước có vũ khí hạt nhân, Bắc Hàn đã trực tiếp nói chuyện tay đôi với đại cường quốc nguyên tử và kinh tế Hoa Kỳ và đã được Hoa Kỳ (cũng như Nga-Tàu) lên tiếng tán dương nỗ lực thống nhất Triều Tiên bằng con đường hòa bình. Riêng Hoa Kỳ sẵn sàng trợ giúp cho tiến trình hòa giải Bắc-Nam đi đến thống nhất đất nước Triều Tiên, nếu Bình Nhưỡng thực hiện song song “giải trừ vũ khí hạt nhân”, tiến đến “phi hạt nhân hóa” trên bán đảo Triều Tiên như đã cam kết trong Thượng đỉnh Trump-Kim tại Singapor ngày 12-6-2018 vừa qua.
2.- Miền Bắc cộng sản đã tình nguyện làm công cụ cho ngoại bang, đã chủ động, tích cực phát động và tiến hành chiến tranh để thống nhất đất nước bằng bạo lực quân sự, làm tròn “ nghĩa vụ quốc tế cộng sản” là mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc cộng sản Nga-Tàu, cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam, trong tham vọng cộng sản hóa tòan cầu.
Vì thế sau Hiệp định Genève 1954, ý đồ của cộng sản Bắc Việt là cộng sản hóa Miền Nam bằng pháp lý dựa trên Hiệp Định này (Tổng tuyển cử thống nhất đất nước sau 2 năm.) không thành. Vì chính quyền chính thống quốc gia ở Miền Nam không chấp nhận do về mặt pháp lý đã không ký Hiệp Định Genève nên không có nghĩa vụ thực thi. Về thực tế Miền Nam quốc gia thất thế nhiều mặt (mới tiếp nhận độc lập từ tay thực dân Pháp,cơ cấu chính quyềm quân sự chưa ổn định, dân số chênh lệch, cộng sảnvốn có nhiều thủ đoạn gian manh..). Như vậy, Hiệp định Genève chỉ có giá trị pháp lý và thực thi đối với thực dân Pháp (kẻ cướp nước) và Việt Minh hay đảng cộng sản Việt Nam (tập đoàn bán nước cho cộng sản quốc tế Nga-Tàu). Do đó, thất bại trong âm mưu nhuộm Đỏ Miền Nam không thành, Cộng sản Bắc Việt đã thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” vào tháng 12-1960 “ngụy dân tộc” để che dấu bộ mặt cộng sản, làm công cụ thực hiện cuộc “chiến tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước” không phải trong “Độc lập -Tự do” mà trong cương tỏa của cộng sản quốc tế Nga-Tàu. Thực tế sau ngày 30-4-1975 cưỡng chiếm được Miền Nam, Cộng sản Bắc Việt đã lộ nguyên hình làm công cụ tri tình cho cộng sản quốc tế Nga-Tàu, khi đưa cả nước “tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Hậu quả tàn hại cho nhân dân và đất nước Việt Nam cũng như các nước từng là nạn nhân của chủ nghĩa xã hội, thực tế ra sao, không cần nói ra thì ai cũng biết. Chẳng thế mà trong diễn văn đọc trước phiên họp Đại Hội đồng Liên hiệp quốc ngày 25-9 mới đây,Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã có lời kêu gọi các nước trên thế giớichống lại chủ nghĩa xã hội và những đau khổ mà nó đã gây ra cho mọi người”. Đơn cử trường hợp ở Venezuela, Tổng thống Donald Trump nói đây là một bi kịch của nhân loạivới “hơn 2 triệu người trốn chạy khỏi đất nước vì chế độ XHCN Maduro và sự hậu thuẫn của Cuba…”. Và rằng “Cách đây không lâu, Venezuela là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới. Ngày nay, chủ nghĩa xã hội đã gây phá sản quốc gia dầu mỏ và khiến người dân rơi vào cảnh nghèo đói…”.
3.- Miền Nam quốc gia đã bị ép buộc (ngay tình không muốn) làm công cho ngoại bang, nên bị động thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ có tính “đắp đập be bờ” (theo thế cờ Domino của Hoa Kỳ) nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cuộc chiến tranh của cộng sản Bắc Việt, công cụ bành trướng của cộng sản quốc tế Nga-Tàu. Do đó, Miền Nam quốc gia đã thất thế vì mất độc lập chủ quyền, nên khi chính quyền Ngô Đình Diệm (1954-1963) manh nha khởi động tiến trình thực hiện giải pháp trên giai đoạn (1) (bí mật tiếp xúc với Hà Nội hay qua trung gian) và không đồng ý cho quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đã trở thành lý cớ để Mỹ hổ trợ các Tướng, Tá quân đội lật đổ và thay thế bằng một chính quyền công cụ thích dụng hơn (1963-1975).(2). Từ đó và do đó, Miền Nam quốc gia đã bị Miền Bắc cộng sản giật mất “Chính nghĩa quốc gia, dân tộc” bằng chiêu bài “ngụy dân tộc” từ thời kháng chiến chống Pháp, để phát động chiến tranh dưới chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước”; không phải để giành độc lập dân tộc, mà để “cướp chính quyền” Miền Nam nô dịch Việt Nam vào vòng cương tỏa của hai tân “đế quốc cộng sản Nga-Tàu”.
Vì thế sau khi dùng bạo lực chiến tranh cưỡng chiếm được Miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã đưa cả nước tiến lên “chủ nghĩa xã hội”.Khốn thay cho nhân dân Việt Nam trên cả nước đã bị đầy ải, khốn đốn mọi mặt trong 20 năm Việt cộng (đảng và nhà cầm quyền CSVN) triệt để xây dựng xã hội chủ nghĩa thất bại thảm hại (1975-1985), dù đã cố gắng “cải tổ”, “đổi mới” theo gương “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô”vẫn không cứu vãn được. Nhưng cũng may mắn thay, sau đó nhờ “Đế quốc Mỹ” cựu thù trong chiến tranh năm xưa đưa tay cứu vớt, bằng cách bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao (1995), giúp Việt cộng thực hiện chính sách “Mở cửa”, bật đèn xanh cho tư bản các nước (không rãy chết mà Liên Xô và hầu hết các nước XHCN thì bị tử vong trên con đường chưa đến xã hội chủ nghĩa) ùa vào đầu tư tại Việt Nam. Từ đó và nhờ đó, nhân dân cả nước đỡ khổ, đời sống ngày một cải thiện và Việt Nam có bộ mặt “Phồn vinh” như hôm nay là nhờ đâu? Chẳng cần nói ra thì người dân ai cũng biết chắc chắn không phải là nhờ “công ơn Bác và Đảng ” đi theo con đường “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩamà nhờ “con đường kinh tế thị trường (đã và đang) định hướng tư bản chủ nghĩado “Đế quốc Mỹ” và các nước tư bản ban cho. Từ thực tế này, người ta cũng hiểu vì sao hầu hết người dân trong nước đều như hướng lòng về Hoa Kỳ như một cứu tinh trước hiểm họa mất nước vào tay “đồng chí Trung cộng”.
Tất cả những gì chúng tôi trình bày trên có đúng vậy không? Thưa ông Tổng Trọng và mấy triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa phản tỉnh (hay giả vờ không phản tỉnh để thụ lợi?) dù chủ nghĩa cộng sản đã ở vào giờ thứ 25 và đức tin cộng sản của quý vị cũng đã mất từ lâu rồi mà sao vẫn chưa chịu tự thú trước nhân dân vậy?
Thiện Ý
Houston, ngày 27-9-2018
Ghi chú: (1), (2)
Đã có những tài liệu nói về việc chính quyền Ngô Đình Diệm liên lạc với Hà Nội qua trung gian của Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy Ban kiểm soát đình chiến, thực thi Hiệp Định Genève 1954 và các cuộc tiếp xúc trực tiếp với người của “Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam
Thực tế những tài liệu khả tín từ nhiều phía sau này cho thấy nội dung cuộc tiếp xúc bí mật mà không bí mật này (CIA có biết) không có gì làm mất Miền Nam vào tay CSBV sớm hơn như nhiều người lầm tưởng đưa ra như là lý do cần phải loại trừ Diệm-Nhu.
Sau đây là lời của Ông Cao Xuân Vỹ, một người thân cận của Ông Nhu đã tháp tùng chuyến đi gặp Phạm Hùng người của MTDTGPMN, của Cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, trước khi chết đã trả lời câu hỏi thứ 19 trong một cuộc phỏng vấn của Phong Trần, tác giả bài viết “Cao Xuân Vỹ - LỜI NÓI CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC TRƯỚC KHI CHẾT" như sau (Xin trích nguyên văn):
“19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:

-Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do.

- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn.
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.

Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng…”