Friday, May 1, 2020

NGÀY 30-4-1975 TÔI LÀM GÌ, Ở ĐÂU?



NGÀY 30-4-1975 TÔI LÀM GÌ, Ở ĐÂU?

Trước 12 giờ trưa ngày 30-4-1975 , Tướng Dương Văn Minh trong chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ngoài dự liệu của Hiến Pháp, đã đọc hiệu triệu trên đài phát thanh, truyền hình ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa buông súng tại chỗ, chờ quân đội cộng sản Bắc Việt đến tiếp quản. Tôi như chết lặng vài giây, bàng hoàng như muốn khóc vì uất hận. Một điều khá bất ngờ mà có lẽ tôi cũng như hầu hết người dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam chưa bao giờ nghĩ đến.
 
Khi đó tôi đang có mặt tại nhà ở số 217.C chung cư Phạm Thế Hiển, Quận 8 Saigon, với người mẹ già. Trong khi người vợ trẻ mới sinh con gái đầu lòng đúng 20 ngày trước đó, (cháu Quỳnh như sinh ngày 7-4-1975) thì đã được bên ngoại đón từ nhà bảo sanh tư Đức Chính trên đường Cao Thắng về ở nhà gia đình bố mẹ trên đường Tô Hiến Thành, Quận 10 Saigon để chị em tiện giúp đỡ, chăm sóc. Cùng có mặt tại nhà tôi vào ngày 30-4-`975 còn có một người bạn là Trung Úy P.  từ đơn vị ở huyên Cầu Kẻ, Trà Vinh về ở nhà chúng tôi trước đó vài ngày. Anh P. là một bạn đồng nghiệp từng dạy học chung tại trường Trung học tư thục Hưng Đức Buônmêthuột ((1966-1967), một tỉnh lỵ trên Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam.

Khoảng 12;00 trưa ngày 30-4-1975, cả hai chúng tôi và mẹ tôi cũng như nhiều người dân sống ở ba lô chung cư A.B.C Phạm Thế Hiển đều ùa ra đứng ở hành lang hướng ra đường Phạm Thế Hiển để xem “đoàn quân giải phóng tiến vào Saigon”. Toán quân đầu tiên ăn mặc quần áo đen, mũ tai bèo, đi dép râu, có người mặc quần cu4t đi chân đất, vũ khí cá nhân hạng nhẹ, có lẽ là dân quân du kích hay quân chủ lực Miền Nam của cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam” và “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”; vốn là công cụ quân sự và chính trị của đảng và chế độ cộng sản Bắc Việt . Đó là những bảng hiệu “ngụy dân tộc” để tiến hành cuộc chiến tranh chống ngoại xâm bằng chiêu bài “chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.”. Thế nhưng ai cũng biết ý đồ của CSBV là cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam của chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa,  cộng sản hóa Miền Nam, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế sau đó, là đoàn quân đồng phục quần áo rêu xám, mũ cối, trang bị vũ khí cá nhân cũng như tập thể hạng nặng. Tôi đoán có lẽ là quân đội chính quy cộng sản Bắc Việt chi viện cho chiến trường Miền Nam.

Nhìn đoàn quân ăn mặc lếch thếch, vóc dáng hầu hết ốm o vì gian khổ, ăn uống thiếu thôn, tôi không khỏi liên tưởng đến hình ảnh những người linh ăn mặc chỉnh tề, vóc dáng khỏe mạnh, trang bị đầy đủ vũ khí tối tân, lòng như quặn đau, trí như phẫn nộ về sự kết thúc chiến tranh không bình thường,bất công, phi lý: kẻ yếu thắng kẻ mạnh, ngụy nghĩa thắng chính nghĩa. Nhưng chỉ biết nuốt hận thở dài, vì mọi sự đã trễ, biết làm sao hơn, đành phải chấp nhận thực tế như một sự an bài.

Trong lòng là vậy, nhưng tôi và người bạn đứng gần, cũng những người dân trên các hành lang ba khu chưng cư như miễn cưỡng vẫy tay. Có kẻ hò vang vẫy chào đoàn quân cộng sản chiến thắng đang từ các vùng nông thôn tiến vào thành phố Saigon. Đó có lẽ là do đều có chung tâm trạng “trong héo, ngoài tươi”. Những nụ cười gượng và những tiếng reo hò, vẫy tay dường như mọi người muốn che lấp một mặc cảm, một tâm trạng hoag mang, sợ hãi mơ hồ ở tương lai bất định, xấu nhiều hơn tốt, khi phải sống dưới chế độ mới của “bên thắng cuộc”, là chế độ cộng sản Bắc Việt sẽ bị áp đặt nay mai, chỉ nghe nói rất tàn ác, chưa biết số phận mình ra sao.

Sau một lúc đứng nhìn đoàn quân cộng sản chiến thắng vào thành, P. ngỏ ý nhờ tôi chở đến thăm người yêu nhà ở Ngã Tư Bẩy Hiền, trong trại gia binh Hoàng Hoa Thám, thuộc Sư đoàn nhảy dù quân lực Việt Nam Cộng Hòa.Vì cha nàng là một hạ sĩ quan nhẩy dù ở hậu cứ lo về hậu cần. Người yêu của P. tên L. cũng là bạn làm chung sở làm với vợ tôi, đã được chúng tôi giới thiệu cho P. sau hai người yêu nhau.

Trên đường đi từ nhà, tôi đã chở bạn P. bằng xe Hongda  dọc theo đường Phạm Thế Hiển qua cầu Chữ Y, qua một số đường nối nhau là các đường Nguyễn Biểu, Trần Hưng Đạo  Cộng Hòa, Hồng Thập Tự đến ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt quẹo trái,  trực chỉ Ngã Tư Bảy Hiền để đến trại Hoàng Hoa Thám, hậu cứ của Sư đón dù…Dọc đường, chúng tối thấy dân chúng ùa ra hai bên đường rất đông. Nhưng nhửng dãy nhà mặt tiền thì đều đóng cửa im ỉm. Nhiều khúc đường bị kẹt làm ùn tắc giao thông khiến cả tiếng đồng hồ xe chúng tôi mới đến được gần cổng nghĩa trang Đô Thành trên đường Lê Văn Duyệt. Nhưng đến dây thì đường kẹt cứng vì lưu thông hai chiều ngược nhau đã đông như nêm cối,lại gặp doàn xe tăng của quân đội CSBV di chuyển ngược chiều, từ hướng Ngã Tư Bẩy hiển vào trung tâm thành phố. Vì vậy khi nhìn thấy một xác chết trên đường được ai đó phủ một chiếc khăn đủ che kín mặt, phần thân thể máu thịt bầy hầy vẫn lộ ra bên ngoài… Tôi vôi quay xe ngược lại, nói với bạn không thể tiếp tục đến nhà người yêu của hắn được nữa, phải chờ qua ngày mai thôi.

Tôi chở P chạy về hướng Đại lộ Trần Hưng Đạo, đến bùng binh Chợ Bến Thành, quẹo phải theo Trần Hưng Đạo về hướng Chợ Lớn. Các con đường chúng tôi đi qua đều đông xe cộ đi lại, đôi chỗ kẹt xe phải chậy chậm lại. Khi đi ngang qua đồn Cảnh sát Giao thông Đô Thành, chúng tôi nghe nhiều tiếng súng nổ liên hồi, vội tấp xe vào lề coi động tĩnh, dựng xe, núp sát vào các nhà dân chúng để tránh lạc đạn. Một lúc sau hỏi ra mới biết một số thanh thiếu niên hiếu động đã lấy súng trong kho của cảnh sát giao thông bắn chỉ thiên làm lủng nhiều lỗ trên trần nhà, không rõ có ai bị lạc đạn lạc chết hay không. Một số người hôi của đang khuân vác những gì họ lấy được từ trụ sở cảnh sát giao thông đô thành; có kẻ đem cả xe ba bánh đến chở những đồ vật nặng có giá trị sử dụng với họ, như máy chữ, television, radio, tủ lạnh…
    
Trong  khi đó, những nhà ở dọc hai bên Đại lô Trần Hưng Đạo chúng tôi chạy qua hầu hết đều còn đóng cửa im ỉm. Khi xe chạy qua một nhà may nằm xế Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia đô thành, tôi chợt nghĩ ra trong đầu cần có một lá cờ về treo trước nhà sớm nhất để làm “lá bùa hộ mệnh” đề phòng những kẻ biết quá khứ của mình, vì tư thù hay muốn lập công với nhà cầm quyền mới,  có thể tố cáo láo với “chính quyền cách mạng” để hãm hại. Chúng tôi nghĩ rằng, trong lúc tranh tối tranh sáng, nhìn thấy lá cờ “Giải phóng” nửa xanh, nửa đỏ với ngôi sao vàng ở giữa, treo sớm trước nhà như thế những kẻ muốn hãm hại mình có thể khựng lại vì bán tín bán nghi; rằng hồi trước chúng tôi làm như thế trong chế độ cũ, có thể chỉ là vỏ bọc để “nằm vùng” cho an toàn chăng? Vì thế, chúng tôi dừng xe trước một nhà may gõ cửa và hỏi lớn tiếng có ai trong nhà không.Đợi một lúc không thấy tiếng trả lời. Thằng bạn tôi phải đập cửa thật mạnh hai ba lần và hỏi 1ại có ai trong nhà không bằng dọng dân Quảng Bình, tôi nói tiếp tiếng Bắc, là chúng tôi muốn nhờ may dùm cho vài lá cờ. Lập tức có lời đáp lại “vâng, chúng tôi sẵn sàng ạ…” và ra mở cửa.  Sau khi gia chủ hỏi chúng tôi kích thước may cờ Mặt Trận, chúng tôi  không biết nên chỉ nói đại là có khổ  vải nào có sẵn thì may khổ đó theo kích thước các lá cờ thường may, hình như là chiều dài bằng 2/3 chiều rộng, còn ngôi sao vàng ở giữa thì sao cho cân đối là được. Chúng tôi đoán gia chủ lúc đỏ tưởng chúng tôi là “người của cách mạng nằm vùng” chăng nên đã tỏ ra sẵn sàng làm theo yêu cầu của chúng tôi. Khoảng 15 phút sau, chúng tôi đã có trong tay hai lá cờ “Mặt trận Giải phóng Miền Nam”  làm bửu bối an toàn.

Khi xe chúng tôi chạy qua Bộ tư lệnh Cảnh sát Quốc gia Đô thành, thấy những người hôi của tương tự như ở đồn Cảnh sát Giao thông Đô Thành, đang khuân đồ đạc đủ loại từ trong các văn phòng đi ra. Một thanh niên mặc quần dài màu đậm, áo sơ mi ngắn tay thấy chúng tôi cầm lá cờ Mặt thận trên tay, có lẽ đã lầm tưởng chúng tôi thuộc lực lượng hoạt động nằm vùng nội thành, vội chạy đến nói nơi đây cần một lá cờ kéo lên thay cờ quốc gia “nền vàng ba sọc đỏ”. Tôi nhớ mang máng hình như thanh niên ấy là Huỳnh Tấn Mẩm mà lần đầu tiên cũng là duy nhất chúng tôi giáp mặt trước đó tại hội trường Đại học Lâm Nông Súc. Tôi nhớ, khi đó tôi đã làm trung gian qua một người bạn thân (sau này tôi mới biết là nằm vùng thuộc nòi có truyền thống tham gia cách mạng cộng sản) giới thiệu cho một người bạn khác của tôi là anh N.T.Q phỏng vấn khi anh Mẫm mới được thả ra tù. Vì anh N.T.Q. lúc đó là Chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Hiện Diện cơ quan ngôn luận của Tổng Liên đoàn Sinh viên Công giáo Việt Nam. Tôi nhận ra Mẩm, nhưng có lẽ anh không nhận ra tôi vì tôi chỉ làm công việc nhờ người bạn “nằm vùng” giới thiệu anh N.T.Q để phỏng vấn Mẫm mà thôi. Tôi nhớ lúc đó, trong hội trường vừa chấm dứt bài thuyết trình của luật sư Bùi Chánh Thời phê bình “Thuế kiệm ước song hành” của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Luật sư Bùi Chánh Thời được biết lúc đó là người thuộc phe Phật giáo Ấn Quang của Thượng Tọa Thích Trí Quang, từng phát động nhiều cuộc biểu tình lớn chống chính phủ. Vì thế, bài thuyết trình của luật sư Thời dường như có chủ đích kích động sinh viên học sinh làm ngòi nổ cho một cuộc biểu tình chống chính phủ. Vì sau khi kết thúc bài thuyết trình là một cuộc biểu tình nổ ra ở bên ngoài trên khúc đường Cường Để, đang bị cảnh sát dã chiến ngăn chặn ở hai đầu là ngã tư Hồng Thập Tự và Thống Nhất. Vì thế, sau khi P. bạn tôi trao một trong hai lá cờ cho Mẫm, anh ta đã đem vào bên trong kéo lên thay lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sau đó, P chạy vào trong một lúc sau thấy anh ta ôm theo một máy đánh chữ lớn hiệu…. của Mỹ và cùng nhau trở về nhà. Nhìn là cờ Mặt Trận tự nhiên tôi quyết định không treo mà dùng kéo cắt vụn ra gói vào tờ giấy báo, rồi đem xuống đất ném vào thùng rác công cộng dưới chợ. Là vì lúc đó tôi cảm thấy phẫn nộ trong lòng và cảm thấy mình hèn nếu treo nó lên chỉ để làm “lá bùa hộ mệnh”. Tại sao treo lá cờ bất chính đó lên, chưa biết có làm cho những kẻ thù ghét mình, biết quá khứ của mình không tố cáo với VC, hay lại bị chính anh em bạn bè, hàng xóm láng giềng hiểu lầm, nghi ngại, xa lánh? Vì đối với nhân dân Miền Nam, những kẻ nằm vùng hay là một thứ “Cách mạn 30” như nhiều kẻ khác đều đáng khinh ghét, nguyền rủa vì những hành động lập công lập cán với VC làm hại bao người...

Sáng hôm sau, ngày 1-5-1975, tôi lại chở P đi tới nhà yêu của hắn ở trại gia binh Hoàng Hoa Thám của Sư đoàn Dù ở Ngả tư Bẩy Hiền. Trên đường đi, xe cộ và người qua lại vẫn đông, nhưng giao thông không bị kẹt cứng nhiều nơi như ngày 30-4-1975.Trên đường, đó đây vẫn còn những chiếc xe hơi của ai đó bỏ lại trên đường, không biết chủ nhân đã kịp di tản hay con kẹt lại?

Thiện Ý
Tháng 4-2020

Những ngày tháng 4 năm xưa chúng tôi đang làm gì, ở đâu?



Những ngày tháng 4  năm xưa chúng tôi đang làm gì, ở đâu?

Thiện Ý

Những ngày tháng 4 của 45 năm về trước (1975-2020), chúng  tôi đang hành nghề luật sư tại Sài Gòn (nghề tự do, nên không phải đi tù ‘tập trung cải tạo’ sau 30-4-75). Còn hiền thê của tôi thì đang làm tại một cơ quan của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), song ngân sách trực thuộc tòa Đại sứ Hoa Kỳ, nên lương bổng khá cao so với công chức Việt Nam tương đương lúc bấy giờ.Vì thế gia đình các nhân viên cơ quan này, nếu muốn,đều được cho di tản ra đảo Phú Quốc bằng máy bay, trước ngày chế độ VNCH bị cưỡng tử vào ngày 30-4-1975.Sau này được biết, sau đó tất cả gia đình nhân viên di tản, đã được máy bay Hoa Kỳ đưa tới đảo Guam, nhập cảnh thẳng vào Mỹ.

Thế nhưng gia đình chúng tôi bị kẹt lại vì hai lý do (1) tôi nhận định và đánh giá diễn biến tình hình sai (2) và do tôi chống lại ý muốn di tản của vợ tôi do một định kiến với người Mỹ, đúng ra là với chính quyền Mỹ.

Nhớ lại, vào những ngày đầu Tháng 4 năm 1975, tại văn phòng chúng tôi tập sự luật sư ba năm với các luật sư Lý Quốc Sỉnh, Trần Tân Thái và Mai Văn Đại ở số 36 Phạm Hồng Thái, Quận Nhì Sài Gòn. Tại đây đôi khi thày trò đã có những cuộc bàn luận có nên di tản hay không.Thày trò (trừ luật sư Mai Văn Đại, từng là Thứ Trưởng Thông tin Nội các Nguyễn Cao Kỳ, di tản sớm, có lẽ biết rõ tình hình, hiện đang sống tại Hoa Kỳ) đều có nhận định chung như nhiều người lúc đó, rằng Mỹ không thể bỏ Việt Nam vì đã đầu tư quá nhiều tài lực, nhân lực cho cuộc chiến ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản tại Việt Nam.Maitre (thày) Trần Tân Thái lúc đó cho rằng nếu Mỹ có bỏ thì cũng còn lâu. Vì ở Kamphuchia yếu hơn VNCH mà còn cầm cự được vài ba năm vẫn chưa sụp đổ. Nhưng nếu lỡ kẹt lại, sống không nổi dưới chế độ cộng sản, thì tìm đến ‘nơi không còn chiến tranh, không hận thù’ (ý nói tự tử chết là cùng. Thực tế,sau gia đình ls Thái vượt biên qua Mỹ, nay đã mất)…
Thành ra, trong khi nhiều người xôn xao, chạy đôn chạy đáo, tìm đường di tản, chúng tôi ngày ngày vẫn khoác áo ra Tòa, chép hồ sơ, biện hộ cho các thân chủ; vẫn nhận giấy tờ hộ tịch, bằng cấp của những người chuẩn bị di tản để đưa các thông dịch viên hữu thệ tại Tòa chuyển dịch ra tiếng Mỹ, tiếng Pháp…Còn vợ tôi lúc đó mới sinh con đầu lòng vào ngày 7-4-1975 ở nhà bảo sanh tư Đức Chính trên đường Cao Thắng, quận 3 Sài Gòn. Một vài ngày sau, từ nhà bảo sanh này, chúng tôi nhìn thấy nhiều người đổ xô ra đường nhìn về hướng có tiếng nổ và cột khói bốc cao bàn tán, thắc mắc không biết chuyện gì. Sau này mới biết đó là cuộc ném bom vào dinh Độc lập của phi công Nguyễn Thành Trung, Việt cộng nằm vùng trong không quân VNCH thực hiện.

Sau ba ngày sinh con, tôi đã đưa vợ con mới sinh về sống tại nhà cha mẹ vợ trên đường Tô Hiến Thành, Quận 10, Sài Gòn cho bên ngoại tiện chăm sóc. Khoảng hơn một tuần sau, bất chấp thời kỳ ở cữ, vợ tôi đã phải đến sở làm liên lạc thì được biết nhiều gia đình nhân viên đã được máy bay chở ra Phú Quốc. Vợ tôi về báo và năn nỉ tôi phải di tản, dù con mới sinh chưa đầy tháng. Nhưng lúc đó tôi đã cự tuyệt, do đánh giá sai tình hình cũng có, mà do thâm tâm tôi từ lâu có định kiến ‘chống Mỹ’, không phải để ủng hộ Việt cộng, mà chỉ vì bất bình việc Hoa Kỳ đã ngày càng vi phạm chủ quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, làm mất chính nghĩa chống cộng của chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam (Sau này khi hoạt động trong Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam bị bắt cầm tù, tôi cũng nói rõ quan điểm này với công an chấp pháp (hỏi cung), rằng đôi lần tham gia biểu tình chống Mỹ, không phải với ý thức ủng hộ ‘cách mạng’).Vì vậy lúc đó tôi đã nói với vợ tôi câu này ‘qua Mỹ ăn bơ thừa sữa cặn của Mỹ à?. Giả như có kẹt lại thì có sao, Việt cộng cũng là người Việt Nam mà?’.Thực tế đã không phải như vậy. Vì thế sau này, sống dưới chế độ Việt cộng khổ quá, vợ tôi vẫn hay nhắc lại câu nói của tôi như một trách cứ ‘thà ăn bơ thừa, sữa cặn của Mỹ mà được sống tự do, còn hơn là phải ăn độn ngô khoai, sắn, lại mất tự do’.
.
Chính vì nhận thức sai lầm do định kiến, nên tôi đã không quan tâm đến nỗi khổ và công khó của vợ tôi trong những ngày tháng tư năm xưa. Vợ tôi dù mới sinh, vẫn phải chạy đi chạy lại liên lạc với sở làm cho đến hạn chót, để biết tình hình. Khi thấy không thể thuyết phục được chồng, dù cả bằng nước mắt, nàng đã phải đến Tòa Đại sứ Hoa Kỳ lãnh tiền thâm niên được khoảng 1000 dolar. Sau đó vợ tôi đưa cho người dì ruột chuẩn bị cùng gia đình vượt biên rất sớm, trong những ngày đầu sau ‘giải phóng’, để được đưa lại 3 cây vàng; nhờ đó bán dần vượt khổ, vượt khó trong những tháng năm đầu sống dưới chế độ mới, được dân gian ca dao hóa ‘Lao động là vinh quang, lang tháng thì chết đói, hay nói thì ở tù, lù khù đi kinh tế mới!’.

Sau khi lãnh tiền thâm niên, nơi làm việc của vợ tôi thì đã đóng cửa sau hạn chót di tản gia đình nhân viên ra Phú Quốc, qua đảo Guam đến Hoa Kỳ (môt số gặp lại đang sống ở Houston, TX, Hoa Kỳ).Vợ tôi lại năn nỉ tôi theo người anh con bác ruột có ghe từ Phan Thiết chạy về Sài Gòn đang chuẩn bị ra khơi vượt biên (hiện đang sống tại New Orleans, Louisiana). Nhưng tôi vẫn không nghe. Sau này vợ tôi kể lại,ông anh này nói cứ đem con  đi theo gia đình anh, rồi tôi sẽ tìm đường đi sau. Nhưng vì sợ chia lìa, gia đình phân tán, nên nàng đã không nghe theo.Cảm ơn Thượng Đế, nếu không thì tình cảnh gia đình tôi nay đã khác; tương tự như nhiều gia đình vợ chồng kẻ ở lại, người di tản…

Trong khi tình hình xã hội, chính trị và quân sự biến chuyển rất nhanh. Thủ đô Sài Gòn tập trung đông đảo những quân dân, cán chính VNCH từ các tỉnh Miền Trung, cao nguyên Trung phần đổ về sau quyết định của Tổng Thống Thiệu ‘di tản chiến thuật’, rút khỏi Quân Đoàn I, rồi Quân Đoàn II; với tốc độ rút quân nhanh hơn tốc độ tiến quân của Việt cộng, đến độ đối phương không có người và cũng không cần người tiếp quản.Rốt cuộc ‘Di tản chiến thuật’ trên thực tế đã trở thành một cuộc tháo chạy tán loại, góp phần làm chế độ sụp đổ nhanh hơn.

Tại Sài Gòn,người ta chạy đôn chạy đáo tìm đường di tản bằng đường biển thì ra bến Bạch Đằng để chen lấn nhau lên các tàu hải quân hay tàu dân sự; bằng hàng không thì kéo vào sân bay Tân Sơn Nhứt, bất chấp pháo kích của Việt cộng để ngăn cản di tản; như họ từng dùng mọi cách, dù tàn nhẫn, để ngăn cản người dân Miền Bắc di cư lánh nạn cộng sản vào Miền Nam sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước. Nghe nói, một máy bay chở những đứa trẻ con lai đã bị nổ tung khi vừa cất cánh, không biết do trúng pháo kích hay do đặc công Việt cộng đặt chất nổ?

Sài gòn những ngày Tháng Tư năm 1975 như cảnh chợ chiều,đầy hỗn loạn, như rắn mất đầu. Người dân hoang mang lo sợ về một tương lai vô định. Các quan chức chính quyền, tướng tá quân đội có điều kiện thì mạnh ai nấy đã tìm đường di tản sớm, muộn bằng mọi cách.

Người lãnh đạo cao nhất chế độ VNCH là  Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, dưới áp lực của Mỹ, đã từ chức muộn màng vào ngày 5-4-1975, trao quyền cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương với lời hứa trở lại vị trí chiến đấu bên cạnh binh sĩ. Nhưng ngày 21-4-1975, trước khi kịp lưu vong, ông Thiệu đã đọc một bài diễn văn trên truyền thanh truyền hình gay gắt tố cáo muộn màng Hoa Kỳ phản bội đồng minh. Tổng Thống Trần Văn Hương cử Chủ tịch Quốc hội VNCH Nguyễn Bá Cẩn thành lập chính phủ tồn tại ít tuần lễ. Trước áp lực tình thế, ngày 28-4-1975, Tổng Thống Trần Văn Hương, được lưỡng viện quốc hội VNCH cho phép cử Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống, Chủ tịch Thượng viện Luật sư Nguyễn Văn Huyền là Phó Tổng thống, ngoài dự liệu của Hiến Pháp VNCH. Gíáo sư Vũ Văn Mẫu được cử làm Thủ tướng thành lập ‘chính phủ hòa giải dân tộc’. Như để chứng tỏ chính phủ mới hoàn toàn độc lập với Hoa Kỳ, Thủ tướng Mẫu đã ra lệnh cho tất cả  người Mỹ phải rời khỏi Việt Nam trong 48 giờ. Đồng thời ra lệnh thả hết các tù nhân chính trị, hầu hết là Việt Cộng. Thế nhưng, những động tác giả này cũng chỉ giúp chính phủ Vũ Văn Mẫu tồn tại không quá  3 ngày; thì chiếc xe tăng đầu tiên của cộng sản Bắc Việt đã ủi sập cổng dinh Độc Lập lúc 11:30 ngày 30-4-1975, tiến vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh trịnh trọng giới thiệu:

- ‘Toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều có mặt đợi các ngài đến để bàn giao chính quyền’. Nhưng đã được một cán bộ Việt cộng trả lời:- ‘ Các ông còn gì nữa để bàn giao! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện!’.

Khi đọc những lời tường thuật trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho Tướng Dương Văn Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc “Khai sơn phá thạch”, nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả.Tướng Minh đảo chánh TT. Diệm, khai tử Đệ nhất VNCH, để Tướng Nguyễn Khánh làm Thủ Tướng, rồi Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống. Nay nhận lãnh làm Tổng Thống 3 ngày để bàn giao chính quyền Đệ Nhị VNCH cho Cộng sản Bắc Việt…có phải chỉ là kẻ lót đường cho kẻ khác gặt hái thành quả trên lưng mình?

Phần chúng tôi, dù bị kẹt lại sau ngày 30-4-1975, nay cuộc chiến Quốc-Cộng kết thúc 45 năm rồi, nhưng không cảm thấy ân hận vì bị kẹt lại, dù có cơ hội di tản rất sớm và an toàn. Vì trong cái rủi cũng có cái may, với cá nhân tôi và gia đình cũng như nhiều gia đình, người Việt Nam khác.

Với cá nhân, là nhờ kẹt lại hơn 17 năm (1975-1992) tôi mới có cơ hội trải nghiệm để biết rõ chế độ độc tài toàn trị cộng sản từ lý luận đến thực tiễn. Để hiểu rõ vì sao người ta coi cộng sản là một hiểm họa và vì sao người ta sợ hãi và tìm mọi cách, bằng mọi gia, kể cả mạng sống, để trốn chạy chế độ cộng sản; không chỉ ở Việt Nam mà ở bất cứ nước nào không may có chế độ cộng sản.

Đồng thời cũng từ đó và nhờ đó tôi được nếm đủ mùi đời, có thêm nhiều chất liệu sống trong và ngoài nhà tù của chế độ mênh danh ‘Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam’ để viết bao lâu nay; như kinh nghiệm sống, hữu ích cho những ai còn mơ hồ hay muốn biết thực chất cũng như thực tế chế độ xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của chủ chủ nghĩa cộng sản mà đỉnh cao là ‘Thiên đường cộng sản’ là gì?

Mặt khác, với cá nhân tôi, đến Hoa Kỳ năm 1992 theo diện đoàn tụ gia đình,sau 27 năm được sống trên đất nước này, tôi đã thấy nhận thức sai lầm trước đây về nước Mỹ do định kiến với chính quyền Mỹ thời chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam (1954-1975).Thực tế gia đình chúng tôi cũng như tất cả những người Việt Nam di tản, vượt biên hay đến Mỹ bất cứ cách nào, đã được định cư trên đất nước này, không hề phải ‘ăn bơ thừa sữa cặn của Mỹ” như tôi lầm tưởng trước đây. Tất cả được ăn, được hưởng tất cả những gì mà người bản xứ được ăn, được hưởng một cách tự do, bình đẳng trên mọi lãnh vực đời sống, sinh hoạt xã hội về pháp lý cũng như thực tế.

Sau cùng, trong cái rủi, có cái may lớn nhất cho đại thể là nhờ ‘Việt cộng giải phóng Miền Nam’mà đã có thực tế kiểm nghiệm nhận định của Tướng độc nhãn Moise Dayan Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, phát biểu sau một chuyến thăm chiến trường Miền Nam; cũng như Sir Thompson, cố vấn về du kích chiến cho quân đội Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Việt Nam, đại ý rằng ‘muốn chiến thắng Việt cộng, chỉ còn cách cộng sản hóa Việt Nam’. Thực tế, sau khi cộng sản Bắc Việt cộng sản hóa cả nước, quả thật nhiều người Việt Nam mới tỉnh ngộ và các thế hệ con cháu chúng ta mới được đổi đời.

Sự đổi đời xuất phát từ thay đổi môi trường sống. Từ phải sống trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, với chế độ độc tài toàn trị cộng sản, ở tầng đáy của nền văn minh nhân loại; con cháu nhiều thế của chúng ta nay đã và đang dược sống trên một đất nước giấu mạnh, với chế độ dân chủ pháp trị bậc nhất, ở thóp đỉnh của nên văn minh nhân loại.Đồng thời, ngoài con cháu giai cấp cán bộ đảng viên CS cầm quyền,ngày nay nhiều con cháu dân thường trong nước, đã có cơ hội du học tại Hoa Kỳ và các nước dân chủ văn minh khác trên thế giới, đã và đang góp phần làm tiêu vong từng bước chế độ độc tài toàn trị ‘Đỏ vỏ, Xanh lòng’ để mau  kết thúc tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Vì đó là chiếu hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam,không thể đảo ngược.Việt Nam sớm muộn nhất định phải có tự do, dân chủ theo đúng ý nguyện của quốc dân Việt Nam.
Thiện Ý      
Tháng 4 năm 2020