Monday, April 16, 2018

43 năm nhìn lại: THẢM CẢNH CUỐI CÙNG KẾT THÚC MỘT QUÁ TRÌNH, MỘT CUỘC CHIẾN.



43 năm nhìn lại:
THẢM CẢNH CUỐI CÙNG KẾT THÚC MỘT QUÁ TRÌNH, MỘT CUỘC CHIẾN.
   
Thiện Ý
Thảm cảnh bắt đầu từ vụ Buônmêthuột thất thủ, tiếp đến là quyết định của T.T. Thiệu bỏ ngỏ Cao nguyên cho cộng quân, di tản chiến thuật. Thế là quân dân các vùng di tản bị rơi vào tình cảnh tán lọan. Nhiều quân nhân bỏ ngũ chậy về lo cho gia đình di tản. Những người dân thường cũng rời bỏ cửa nhà, ruộng vườn, tài sản tháo chậy về phía tự do như dòng thác đổ.
Người ta ghi nhận “ có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di tản về  Nha Trang, một tỉnh ven biển Miền Trung  của Việt Nam Cộng Hòa, phòng tuyến cuối cùng của Quân Đòan II, Quân Khu II, mà sau quyết định của ông Thiệu, Quân Đòan II tan vỡ nhanh như một giấc chiêm bao, mới đầu hôm sớm mai mà Quân Đòan đã bị tiêu hủy trong nháy mắt. Hành lang phía Tây Sài Gòn bị đe dọa trầm trọng…”(27).
Trong khi đó ở Huế, quân dân rút về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển . Một số khác theo đường bộ tháo chạy về phía Nam như một “Đại lộ kinh hoàng”. Vì trên đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến cảnh tranh sống sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp; tình huynh đệ chi bình, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc “rút lui chiến thuật” đầy hỗn lọan này. Thảm cảnh này cũng diễn ra tương tự ở nhiều tuyến “Rút lui chiến thuật” khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo chạy về phía tự do, vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng “Đã có thương lượng cho Cộng Sản Bắc Việt  một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa mà không chống cự…
Quả thực đến đầu Tháng 4 năm 1975, một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa  đã bỏ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản. Tốc độ rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người và thực ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000 binh sĩ VNCH đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn toàn bị đảo ngược. Chế độ VNCH ở Miền Nam Việt Nam lâm nguy! Mặc dầu thực tế diễn ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng TT. Gerald Ford lúc đó vẫn làm ra vẻ quan tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của VNCH. Ông Ford đã đề nghị ngân khỏan viện trợ quân sự  bổ sung 700 triệu Mỹ kim trang bị và lập cầu không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực VNCH. Hành động này của T.T. Ford chẳng khác chi hành động của một nhà đạo đức giả, một bác sĩ vô lương tâm, biết rằng con bệnh sắp chết và cái chết ấy có một phần trách nhiệm do mình gây ra, nhưng bề ngòai vẫn tỏ ra hết lòng muốn cứu sống con bệnh. Dẫu sao, đó cũng chỉ là những lời tuyên bố để che đậy một  ý đồ cũng chẳng thay đổi được thực tế.
 Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm, Đại sứ VNCH tại Mỹ, đã từ Washington trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng “Không còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế…”. Thực tế là một nửa nước đã mất, người ta chỉ còn trông chờ vào một cứu tinh. Nhưng nào còn ai dám làm cứu tinh, khi người Mỹ đã bỏ cuộc. Vậy chỉ còn trông chờ một phép lạ, mà phép lạ thì siêu hình khó xẩy ra. Vậy chỉ còn cách chấp nhận thực tế mà tờ New York Time số ra ngày 1-4-1975 đã phản ánh tổng quát “Quân Bắc Việt đã tràn lên khắp đất nước và chỉ gặp vài kháng cự lẻ tẻ, lãnh thổ bị chiếm là do bỏ cuộc thực sự…”.
Theo sự đánh giá của một nhân viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ VNCH thì “Lúc này, để bảo vệ Sàigòn quân Nam Việt đang tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư đòan, đương đầu với 18 sư đòan quân Bắc Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng tuyến án ngự cuối cùng chậy từ một phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển Miền Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân Lộc…” (28).
Thế nhưng tình hình thực tế ngày càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp được Mỹ khuyến khích từ lâu, là thương lượng với CS để thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp tương tự từng được qui định trong Hiệp Định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là giải pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một lần nữa giải pháp được chọn lựa trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973. Thực ra, đây là một giải pháp chỉ có giá trị pháp lý trên văn bản có tính  nguyên tắc, thực tế  thâm tâm người Mỹ không muốn nó được thực hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt bỏ chế độ VNCH càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất cứ hình thức nào đều làm cản trở  tiến trình đi vào thế chiến lược quốc tế mới của Mỹ. Điều này cũng phù hợp với tham vọng của  CSBV, không muốn thương lượng trong điều kiện hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần  ông Thiệu bị lật đổ bằng chính người của ông ta. Họ muốn chế độ VNCH sụp đổ trước khi họ đến tiếp quản mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp đổ từ từ để còn cho họ nguyên vẹn những chiến lợi phẩm, đúng ra là mọi tài sản của chế độ bị sụp đổ không do sức mạnh chiến đấu của họ.
     Đúng như lòng mong muốn của CS Hà Nội, ông Thiệu đã phải từ chức trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh giành quyền lực dưới sự đạo diễn cùa CIA. Ngày 21-4-1975, bằng một bài diễn văn gay gắt  ôngThiệu đã tố cáo sự phản bội của Mỹ, được truyền đi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, phương tiện mà truớc đó người Mỹ đã thiết lập cho chế độ VNCH làm công việc tuyên truyền lôi kéo những con tim, khối óc và cả mạng sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam đi vào chiến lược chống cộng bảo vệ chế độ và phần đất tự do MNVN như một “ tiền đồn thế giới tự do” ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản quốc tế của Mỹ! Đây là những lời tố cáo muộn màng của ông Thiệu:
     “ Họ bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ…” (29). Đây lại một lầm lẫn lớn, cho đến lúc này ông Thiệu vẫn chưa nhận ra thực trạng này: Chưa bao giờ VNCH được Mỹ đối xử như một đồng minh. Rồi ông Thiệu hằn học oán trách người Mỹ: “Các ông bỏ chạy để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì hết mà các ông  lại muốn chúng tôi hòan thành điều mà các ông không làm nổi... Khi ký Hiệp Định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế vũ khí trên căn bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa hay không?...” (30)
     Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa là năm ngày sau khi T.T. Thiệu từ chức, Quốc Hội Sài Gòn đã khởi đầu bằng một thông báo, theo đó người được Tổng thống Thiệu chỉ định nắm quyền Tổng thống VNCH (theo Hiến Pháp) là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, nay được Quốc Hội ủy nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông trong chức vụ Tổng thống VNCH. Trên căn bản thông báo này, quyền Tổng thống Trần Văn Hương đã chỉ định Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống VNCH (ngòai dự liệu của Hiến Pháp). Ngày 28-4-1975, Tướng Minh nhậm chức, cử giáo sư Vũ Văn Mẫu vào chức vụ Thủ tướng chính phủ, đứng ra thành lập nội các hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.
Như vậy là Tướng Dương Văn Minh, người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ nhất VNCH, nay lại được  Mỹ tuyển chọn đúmg ý Việt cộng làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ Nhị VNCH mà chính ông đã góp phần tạo dựng.
     Mặc dầu hai ông T.T. Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ “Hoà giải và hòa hợp dân tộc”, với một số động tác mời chào giả tạo, như ra thông cáo giả vờ đuổi hết người Mỹ, rằng trong vòng 48 giờ đồng hồ, người Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam; ra quyết định thả hết các tù chính trị (tức tù Việt cộng)… Nhưng tất cả đã muộn rồi, CSBV đã cảm thấy đang ở thế thượng phong, chẳng cần “hòa giải hòa hợp” với ai nữa. Vì “hòa giải hòa hợp dân tộc” vốn chỉ là  chiến thuật thường được CS sử dụng khi chưa đủ sức thanh toán đối phương, giành thắng lợi tối hậu mà thôi.
     Sau đây là một đọan tường thuật  của một nhà văn Việt Cộng về những giây phút cuối cùng của cái “Chính phủ hòa giải hòa hợp  vào giờ thứ 25 của cuộc chiến:
     “… 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975
     Chiếc xe tăng tiến vào xô đổ cánh cửa sắt của Dinh Độc Lập. Từ trên xe nhẩy xuống, một tổ chiến sĩ Quân Giải Phóng trẻ măng mặc đồng phục lá cây, cầm lá cờ mầu đỏ xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về phía dinh.
     Những thành viên của chính phủ Dương Văn Minh mới nhận chức ngày hôm trước về tề tựu tại phòng chính của dinh Độc Lập, đứng dậy khi những người cán bộ của Quân Đòan II, mặt sạm khói súng và bụi đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành phố suốt dọc bờ biển Miền Trung tới đây.
     Dương Văn Minh nói:
     Tòan thể chính phủ VNCH đều có mặt đợi các ngài đến để bàn giao chính quyền.
     Một cán bộ nói:
     Các ông còn gì nữa để bàn giao! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện!” (31).
     Khi đọc những lời tường thuật trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho Tướng Dương Văn Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc “Khai sơn phá thạch”, nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả.
     Trong khi đó một phóng viên của hãng thông tấn AP ở lại Sàigòn đến phút chót đã kể lại:
     Không có một tiếng súng nào, hàng trăm người Sàigòn cũng như tôi đứng há miệng nhìn đòan xe tăng ngày càng nhiều của cộng sản tiến vào thành phố. Đến trưa, mọi chuyện đều xong. Trong suốt 13 năm viết về chiến tranh Việt Nam, tôi không bao giờ tưởng  đến chuyện nó kết thúc theo lối này. Tôi hình dung phải có một cuộc mặc cả về chính trị tương tự như đã xẩy ra ở Lào mười năm về trước. Hoặc là một trận đánh theo kiểu Armageddon ở Châu Âu trong Thế Chiến Hai, mà kết cuộc là thành phố bị tan nát. Chuyện đầu hàng là điều hòan tòan tôi không ngờ tới...” (32)
     Một viên chức CIA đã rời Việt Nam trong toán CIA cuối cùng vào ngày 30-4-1975, thì đã ghi lại những hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến như sau:
     Chiếc máy bay trực thăng đã bắt đầu rời khỏi Tòa Đại Sứ. Người xạ thủ ở đuôi máy bay đang cúi rạp người trên súng của mình. Máy bay vòng trên thành phố. Trong khỏanh khắc tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của một trong những cửa sổ tiệm rượu Mini Bar, một tiệm nổi tiếng vào bậc nhất ở Sàigòn, nơi biết bao chàng lính Mỹ đã mất sạch cả cơ nghiệp cùng với sự ngây thơ của mình. Và rồi chiếc máy bay ngoặt lại, hướng về phía Nam, bay qua Biên Hòa, thấy tóan xe Bắc Việt đèn sáng trưng đang uốn mình trên con đường vào Biên Hòa… Trong phút chốc, kiến trúc khổng lồ mầu xám của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã bao lấy chúng tôi như một cái kén khổng lồ bằng kim khí…” (33)
     Một ngày trước khi Sàigòn rơi vào tay Hà Nội (29-4-1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn làm việc trong tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sàigòn đợi lệnh từ Hoa Thịnh Đốn trả lời yêu cầu của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối cùng:“ Tổng Thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin phải rời đi bằng chiếc máy bay này”. Đó là chiếc máy bay CH-46 được gởi đến đón Martin mang tên “Lady Ace 09” (32 bis).
     Như vậy là cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt với thái độ phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ, người khởi đầu và cũng là người kết thúc  sinh mạng một chế độ công cụ của mình. Micheal Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn “Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn ngày” đã  ghi lại cảm tưởng của Martin đối với cuộc chiến kết thúc là “thấy nhẹ cả người”. Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức  gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ đã chấm dứt. Nó là “một cuộc xung đột”, “một sự dính líu”, “một kinh nghiệm” và thất bại của nó sẽ được các sử gia có thể phán xét, không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa Kỳ. Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu, thế là đủ. Từ hai năm về trước (1973-1975), họ đã thực hiện được một nền hòa bình cho họ tại Việt Nam. Hầu hết người Mỹ đã cảm thấy  một nền hòa bình trong danh dự” đã đạt được như người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bang quan chán ngắt, có đôi chút sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu của Mỹ, chỉ trong nhiều tuần đã trở thành vô nghĩa. . .
     Vô nghĩa ư? - Thực ra, cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế đã chỉ có thể là vô nghĩa và  vô ích với nhân dân Mỹ, khi mà họ đã phải gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu xương của 58.000 binh sĩ con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không thực hiện được mục đích cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân chủ và phần đất tự do ở Miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích đối với chính quyền Mỹ, khi sự kết thúc chiến tranh đến vào lúc mà  mà các mục tiêu chiến lược  của họ đã đạt được qua cuộc chiến tranh này, mở ra một thời kỳ đầy triển vọng sau chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng này, trong khung cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.
     Riêng đối với nhân dân Việt Nam, cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975)  kết thúc như thế thì quả là vô nghĩa và tàn hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa là nỗi đau, vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam. Là nỗi đau cho nhân dân Miền Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh chiến đấu cho một chiêu bài giả hiệu “Độc lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước  trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc…”. Cũng là nỗi đau của  nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ ở Miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành lao vào  một cuộc chiến “bảo vệ chế độ tự do dân chủ”. Từ nỗi đau chung này, nhân dân hai miền Bắc-Nam Việt Nam cùng có chung một mối hận đối với những kẻ cầm quyền trên cả hai miền Nam-Bắc, từng là công cụ đắc lực  một thời cho ngọai bang, đã xô đẩy nhân dân hai miền vào một cuộc chiến tàn hại và vô nghĩa. Người dân tự hỏi:  Tại sao cũng trong gọng kềm của của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, Bắc Hàn và Nam Hàn đã có thể cùng tồn tại để chờ cơ may thống nhất một cách hòa bình. Trong khi Việt Nam thì đi đến thống nhất bằng một cuộc chiến cốt nhục tương tàn, anh em một nhà tàn sát lẫn nhau và tàn phá tan hoang đất nuớc?
     Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh  cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là  một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là chiến lược “Tòan cầu hóa của các cường quốc cực”: Tòan cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và tòan cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và  các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
     Như thế, chiều hướng mới xem ra có vẻ tốt đẹp. Nhưng chấm dứt cuộc chiến bằng sự triệt tiêu chế độ cực hữu VNCH mới chỉ là bước thứ nhất của một quá trình đưa đất nước ta vào vận hội mới của một thế chiến lược quốc tế mới. Chúng ta còn phải trải qua bước thứ hai của quá trình này, là triệt tiêu chế độ cực tả CộngHòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện nay. Vì chỉ sau đó, đất nước ta mới đi vào đúng quỹ đạo của một chiến lược toàn cầu mới mà các cường quốc cực đã và đang nỗ lực thực hiện.
     Vậy thì, quá trình triệt tiêu chế độ cực tả CHXHCNVN đã và đang diễn ra như thế nào? Đó là bước thứ hai của tiến trình ba bước mà chúng tôi đã trình bầy chi tiết trong tập tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc tế Mới”.(*)
Thiện Ý
Houston, tháng 4 năm 2018
 *Ghi chú: Trích từ “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện .
- Từ (27) đến (33 bis): Theo “The Ten Thousand Days War” của  Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
-  Xin vào: luatkhoavietnam.com , mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.

CHẾ ÐỘ VNCH Ở NAM VIỆT NAM ĐÃ BỊ CƯỠNG TỬ NHƯ THẾ NÀO?



CHẾ ÐỘ VNCH Ở  NAM VIỆT NAM ĐÃ BỊ
CƯỠNG TỬ NHƯ THẾ NÀO?

     43 năm trước đây (1975-2018), vì không nắm được ý đồ chiến lược của Mỹ, CS Hà Nội đã hăm hở bước vào giai đọan cuối cùng của cuộc  chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam. Trong giai đọan này, nếu chỉ nhìn qua hiện tượng, người ta thấy như có sự ăn ý giữa Hoa Kỳ và CSBV, kẻ tung, người hứng để cùng cưỡng tử chế độ VNCH một cách ngọan mục.
I.- KHỞI ÐI TỪ SỰ KIỆN PHƯỚC LONG BỊ CỘNG QUÂN ĐÁNH CHIẾM.
     Ngày 7-1-1975, bộ đội CSBV đã mở cuộc tiến công và đã chiếm đóng được tỉnh lỵ Phước Long như một thử nghiệm đầu tiên ý chí của Hoa Kỳ, thăm dò xem phản ứng đến mức độ nào. Hoa Kỳ đã lập tức lên tiếng tố cáo mạnh mẽ  hành động vi phạm trắng trợn Hiệp Ðịnh Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình tại Việt Nam ngày 27-1-1973 của CSBV, kèm theo lời đe dọa sẽ trừng phạt nghiêm khắc nếu CS không ngưng ngay những hành động lấn chiếm tương tự.
     Sau sự  lên án tố cáo có tính chiếu lệ với kẻ thù, Mỹ đã không có hành động nào khác hơn thể hiện ý chí và quyết tâm giúp “bạn” bảo vệ chế độ VNCH. Không những thế, dường như ai đó đã vô tình hay cố ý giúp thực hiện đúng ý định của Hoa Kỳ, khi khuyên T.T. Thiệu không nên đánh chiếm lại Phước Long làm gì cho hao binh tổn tướng, mà hãy dùng sự kiện Phước Long như là bằng chứng tố cáo trước công luận thế giới về hành động phá hoại Hiệp Ðịnh Paris của CSBV. Bởi vì giải pháp cho Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Có lẽ vì nghe theo lời “cố vấn” này, nên T.T. Thiệu đã không tìm cách lấy lại Phước Long mà chỉ ra lệnh đẩy mạnh tuyên truyền, tố cáo CSBV vi phạm Hiệp Ðịnh, đẩy mạnh chiến dịch vẽ cờ, lấn đất giành dân, chuẩn bị chiếm ưu thế về lãnh thổ trong một giải pháp chính trị tương lai? Mặc dầu “đầu tháng Giêng 1975, T.T. Thiệu đã ra lệnh tập trung lực lượng không quân gồm 116 oanh tạc cơ, 160 phi cơ trực thăng, dội bom và đánh phá trọn một tuần lễ xuống Phước Long, nhưng vẫn không đẩy lùi nổi 3 sư đòan chính quy Bắc Việt đang chiếm lấy thị trấn này…” (17)
     Trong khi đó, từ sự kiện Phước Long, dư luận lúc đó ở Sàigòn lan truyền khắp Miền Nam, nói nhiều đến một chính phủ liên hiệp ba thành phần, nói nhiều đến giải pháp trung lập. Dường như trong tâm lý quần chúng cũng như quân đội VNCH lúc ấy đều bị hoang mang giao động, tinh thần chủ hòa đang có chiều hướng lấn ép chủ chiến. Tình cảnh này đã có ảnh hưởng rất lớn vào tinh thần chiến đấu của binh sĩ quân lực VNCH. Quân dân Miền Nam như cùng hướng lòng về một giải pháp chính trị, với tâm trạng chờ đợi, mất cảnh giác chiến đấu và suy giảm nghiêm trọng ý chí chống cộng.
     Trong khi đó, Mỹ đã không có hành động trừng phạt cương quyết nào với đối phương, mà lại gia tăng áp lực đối với chính phủ VNCH, thúc đẩy và nuôi dưỡng tình hình bất ổn, xáo trộn nội bộ, đẩy chế độ vào thế tam, tứ  đầu thọ địch. Áp  lực mạnh nhất đánh vào cân não quân đội và dân chúng VNCH là quyết định cắt giảm quan trọng viện trợ kinh tế, quân sự cho VNCH giữa lúc chế độ đang trong điều kiện thử thách sống còn. Như vậy là Mỹ đã không giữ lời cam kết khi “Việt Nam hóa chiến tranh” (Tăng cường viện trợ quân sự để trang bị đầy đủ cho QLVNCH đủ sức làm công việc tự bảo vệ); không giữ những lời hứa công khai cũng như riêng tư với Tổng thống Thiệu của T.T. Hoa Kỳ Nixon (viện trợ kinh tế, quân sự dồi dào cho VNCH để giúp thành tựu Hiệp Ðịnh Paris theo ý muốn của Mỹ. ). Hậu quả tất nhiên của đòn cân não này là tinh thần chiến đấu của tướng sĩ QLVNCH suy yếu và tiềm năng chống cộng của cả chế độ VNCH phải sút giảm nghiêm trọng. Chúng ta hãy nghe sau này ông Thiệu kể lại:
     “… vào năm 1975, tiềm lực chiến đấu của chúng tôi giảm 60%, trong khi đó tiềm lực chiến tranh của Hà Nội gia tăng ghê gớm. Tôi có thể nói trong hai năm sau khi ký kết Hiệp Ðịnh Paris, chiến tranh đã dữ dội hơn trước. Tuần nào tôi cũng cử phái viên tới Washington để giải thích. Tôi đã gửi thư cho Tổng Thống Mỹ, tôi phân bầy nỗi nguy hiểm với Ðại sứ Mỹ ở Sàigòn, song không có chuyển biến gì cả...” (18)
     Chuyển biến gì được nữa, khi ý định của Mỹ lúc này là đang muốn trói chặt VNCH về chính trị, kinh tế, quân sự, để chờ cho CSBV đến ban cho một phát súng ân huệ. Mỹ đã trói chặt VNCH về chính trị trong một giải pháp liên hiệp với CS, với chiêu bài “hòa giải, hòa hợp dân tộc” để ru ngủ và làm tê liệt ý chí chống cộng của quân dân MNVN. Mỹ đã trói chặt về kinh tế khi cắt giảm tối đa về mọi mặt, là cắt nguồn máu nuôi sống chế độ. Mỹ đã chặt tay chặt chân về quân sự, khi không thực hiện trang bị, cung cấp vũ khí đạn dược đủ để cho trụ cột chủ yếu chống cộng đủ sức làm công việc tự bảo vệ. Việc  Quốc hội Hoa Kỳ chỉ thông qua một ngân khỏan viện trợ hàng trăm triệu (700 triệu) so với nhu cầu thực tế hàng tỉ, trong lúc tình hình chiến sự nguy ngập, thử hỏi QLVNCH còn đâu tinh thần và sức mạnh chiến đấu để mà làm công việc tự bảo vệ?
     Mặt khác, đúng lúc này, không biết ai xui khiến cho T.T. Thiệu ra lệnh giải giới các lực lượng bán quân sự như Nhân Dân Tự Vệ và các giáo phái có trang bị vũ khí, gọi là để tập trung lực lượng và sức mạnh chiến đấu của QLVNCH. Ðiển hình là vụ giải giới lực lượng bán quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo khỏang 10.000 người, bắt giam ông Hai Tập, Tổng Chỉ Huy Lực lượng Bảo An Hòa Hảo.
      “. . . Cuối tháng Giêng 1975, ông Hai Tập, ông Lương Trọng Tường thành lập một sư đòan Bảo An Hòa Hảo với mục đích tiếp tục chiến đấu kháng cộng, nếu VNCH sụp đổ. Ông Thiệu lập tức giải tán và bắt giam ông Hai Tập vì sợ lực lượng Hòa Hảo lật đổ ông...” (19)
     Việc làm này của ông Thiệu như  là hành động tự chặt tay mình về mặt quân sự. Ai đã cố vấn cho ông Thiệu làm việc này, hay do sáng kiến cá nhân, điều này chỉ có ông biết. Người bàng quang chỉ có thể suy đóan, có thể là sáng kiến cá nhân vì mối lo sợ riêng, song cũng có thể là sự gợi ý của các “Cố vấn” là người Mỹ, hoặc là người của Việt cộng “nằm vùng” bên cạnh Ông. Vì rằng vào thời điểm này, tuy khác ý đồ, nhưng Mỹ và Việt cộng dường như đã gặp nhau ở mục tiêu chung: Triệt tiêu chế độ VNCH càng sớm càng tốt.
     Thế nhưng cho đến lúc này dường như người lãnh đạo cao nhất của chế độ VNCH vẫn chưa nắm bắt được ý định thực sự của “ người bạn đồng minh Hoa Kỳ”. Vẫn như còn cố tin vào những lời cam kết, hứa hẹn bí mật hay công khai trên giấy trắng mực đen của chính phủ cũng như cá nhân Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon. Như vậy, quả thực tập đòan lãnh đạo chế độ công cụ ngoại bang ở Hà Nội đã tài giỏi hơn nhiều so với chế độ ở Sài gòn. Tổng thống Thiệu vẫn ngây thơ tin rằng những hành động đích thân của ngài Ðại sứ Martin bay từ Sàigòn về Washington như là để bênh vực cho lập trường của mình. Sau khi cộng quân lấn chiếm Phước Long, ông Thiệu vẫn tin tưởng và chờ đợi Hoa Kỳ thực hiện những lời hứa và cam kết trong những bức thư trao đổi riêng tư với T.T. Nixon. Trong khi đó, các lãnh tụ cáo già CSBV thì tỏ ra hết sức chú tâm và nương theo ý đồ của Mỹ để đạt ý đồ của mình. Sau khi đánh chiếm được Phước Long, cộng quân như tạm ngưng các cuộc tiến  công lớn để thăm dò phản ứng của Mỹ.

     Nhớ lại phản ứng của Mỹ lúc ấy là ngoài những lời lên án, tố cáo, đe dọa “Sẽ trả đũa”, Mỹ chỉ tăng cường các chuyến bay do thám, mà theo nhận xét của ông Thiệu “Việc ấy chẳng khác gì dùng bồ câu thay thế B-52…”. Ðồng thời, T.T. Gerald Ford, người kế vị T.T. Nixon bị mất chức giữa nhiệm kỳ vì vụ Watergate, cũng cố làm ra vẻ hết lòng xin  Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung 300 triệu Mỹ kim cho VNCH.
     Thế nhưng theo lời Ðại sứ Martin “… Nam Việt Nam không nhận được viện trợ bổ sung mà còn không nhận được chút viện trợ nào trong năm tài chánh sắp tới, bắt đầu từ Tháng 6-75… Nói khác đi, nội trong 3 tháng nữa ông Thiệu sẽ đứng trước sự kiện bị cúp viện trợ…” (20). Ông Martin kết luận: “Cố gắng bơm thêm sức mạnh cho ai đó bằng những bảo đảm mà chính mình không tin thì sẽ chẳng đi đến đâu hết…” (21)
     Ðến đây, trước phản ứng yếu ớt của Mỹ với thù (CSBV), sự gia tăng áp lực chính trị, kinh tế của Mỹ với bạn (VNCH), các lãnh tụ CS ở Hà Nội càng tin tưởng chắc chắn Mỹ sẽ không can thiệp trực tiếp trở lại, dù họ có gia tăng áp lực quân sự đến đâu. Họ bắt đầu lên kế họach thôn tính MNVN với dự liệu ít nhất 2 năm nữa mới “giải phóng” được MN. Hà nội vẫn thực sự chưa biết ý đồ này của Mỹ: Không phải chỉ không can thiệp trở lại mà còn muốn khai tử chế độ VNCH càng sớm càng tốt. Nghĩa là Mỹ đã có ý định xóa bàn cờ cũ chơi bàn cờ mới. Trong khi đó ông Thiệu và tập đòan lãnh đạo VNCH thì vẫn nghĩ Mỹ sẽ không bao giờ “dám” bỏ rơi MN, mọi áp lực chẳng qua chỉ để buộc cá nhân ông Thiệu và phe cánh của ông phải từ bỏ quyền hành, trao lại cho ê-kíp khác, nên nội bộ đã rơi vào sự xâu xé tranh giành quyền lợi cá nhân, phe đảng, quên cả mục tiêu sống còn là ngăn chặn CSBV xâm lăng. Một cách vô tình “phe quốc gia” đã như tự đào hố chôn mình. Mặc dầu ai cũng đồng ý với nhận định của ông Thiệu lúc ấy “Chế độ VNCH còn là còn tất cả, nếu mất vào tay CS là mất tất cả”. Nhưng tất cả trên thực tế đã có những hành động góp phần làm tiêu vong chế độ.
     Sau này chính ông Thiệu kể: “… Mỹ để lại 300.000 quân tại Châu Âu sau khi Thế Chiến II đã chấm dứt 30 năm; để lại 50.000 quân ở Nam Hàn sau khi chấm dứt 20 năm. Lúc chúng tôi để Mỹ rút quân, chúng tôi chỉ yêu cầu được giúp đỡ để tiếp tục chiến đấu, không còn phải duy trì nửa triệu quân ở Việt  Nam, Mỹ chỉ phải chi tiêu 1 phần 20 so với trước kia. Vậy họ còn đòi hỏi gì hơn ở chúng tôi?...” (22) 
     Nhận định này của ông Thiệu chứng tỏ quan điểm lãnh đạo lỗi thời do không nhìn thấy đã có sự đổi thay chiến lược của Mỹ. Theo đó, Mỹ không phải chỉ muốn cá nhân ông Thiệu mà muốn cả cái chế độ mà ông cầm đầu bấy lâu nay phải biến đi càng nhanh càng tốt. Bởi vì đã qua rồi những cơ hội tốt để tồn tại vững vàng như Nam Hàn, để không bị hủy diệt vào những lúc Hoa Kỳ có nhu cầu phải thay đổi chiến lược như thế này.
II/- ÐẾN SỰ KIỆN BUÔNMÊTHUỘT THẤT THỦ – THỬ THÁCH CUỐI CÙNG CHO TRỤ CỘT CUỐI CÙNG CỦA CHẾ ÐỘ VNCH.
     Ðến đây các bước người ta chuẩn bị cho một chế độ sụp đổ như đã hòan bị. Tình hình nội bộ chế độ VNCH hoàn toàn rối ren, tê liệt. Quân lực VNCH, cây trụ cột cuối cùng chống đỡ cho sự tồn tại thêm thời gian của chế độ thì ra sao?
     Theo tài liệu đọc được sau này thì, sau Hiệp Ðịnh Paris năm 1973 về VN, Quân lực VNCH thực sự chỉ còn sáu đến bẩy trăm ngàn quân chiến đấu. Về trang bị đạn dược và các phương tiện chiến tranh hiện còn có thể giúp QLVNCH tiếp tục chiến đấu ít nhất 2 năm. Tương quan lực lượng giữa quân lực VNCH và bộ đội CSBV theo tỉ lệ 4-1. Ðến tháng 1-1975 tỉ lệ này chỉ còn 2-1. Bởi vì sau 2 năm ngưng ném bom, một phần đường mòn HCM đã được CSBV sửa chữa và đặt ống dẫn dầu dọc theo đường mòn này. Trong một thời gian ngắn, 150.000 quân CSBV đã xâm nhập thêm vào chiến trường MNVN. Sau khi chiếm được Phước Long, Hà Nội đã có thể chuẩn bị cho một lực lượng 300.000 quân bám sát đường mòn HCM tiến vào MN. Tất cả những họat động này, người Mỹ biết rất rõ, song đã không có hành động gì. Vì sao?
     Chúng ta hãy nghe một chuyên viên phân tích tình báo Mỹ kể lại: “Khởi đầu cuộc tấn công cuối cùng của CS… lúc đó chúng tôi đã biết rằng CSBV đưa vào MNVN một lực lượng to lớn hơn nhiều so với lực lượng chúng tôi biết đang có ở đây. Họ đã tập trung số quân này phía Tây Cao Nguyên. Bấy giờ Buônmêthuột xét về mặt lịch sử, luôn luôn là điểm tựa phòng thủ của chính quyền trên cao nguyên. Buônmêthuột mất thì sự phòng thủ có thể bị đánh ngang sườn. CSBV rất khôn ngoan, họ chuyển quân mà không sử dụng  liên lạc vô tuyến điện. Họ đưa vào vùng Buônmêthuột ba sư đòan mà chúng tôi không hề hay biết…” (23).
     Có thực là người Mỹ không hay biết hay là họ biết mà đã cố tình không cho chính quyền VNCH biết, lại còn tìm cách đánh lạc hướng dùm cho đối phương? Vì chẳng lẽ tình báo Hoa Kỳ chỉ dựa trên sự theo dõi liên lạc vô tuyến của VC để nắm bắt tình hình? Vậy thì chỉ có thể do bị che mắt của “Bạn” và thế nghi binh của “Thù”, mà các nhà quân sự VNCH đã đoán sai ý đồ của VC. Đoán sai nên đã cho rằng cộng quân có thể lập lại cuộc tấn công Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, vượt qua khu phi quân sự. Vì vậy họ đã tập trung quân ở phía Bắc Ðà Nẵng để đối phó? Trong khi đó, Buônmêthuột vốn là một vị trí chiến lược trọng yếu thì quân đội Sàigòn đã không chuẩn bị phòng thủ tương xứng, chỉ triển khai 40.000 quân ở đó. Họ đâu ngờ rằng lúc ấy, 300.000 quân CSBV đã ẩn nấp bao vây, chờ giờ hành động. Ðể đánh lạc hướng, bộ đội CSBV đã cho truyền đi các bức điện giả làm như mục tiêu tiến công của họ là Pleiku, nơi đặt bản doanh của Quân Ðòan II quân lực VNCH.
     Quân cộng sản đã thành công trong ý đồ này, vì các nhà quân sự VNCH bao lâu nay quen dựa vào chiến lược, chiến thuật đánh CS do người Mỹ họach định sẵn, nên đã có thói quen ỷ lại, lười “động não” để sáng tạo nên đã dễ dàng bị đánh lừa của cả bạn lẫn thù. Sự thể là đúng 2 giờ sáng ngày 10-3-1975, bộ đội CSBV đã mở cuộc tấn công Buônmêthuột. Vì quá bất ngờ, không kịp tăng viện và không có quân yểm trợ nên sau 30 giờ bị vây hãm, phản công yếu ớt, Buôn-mê-thuột đã thất thủ. Rồi cũng như Phước Long, Buôn-mê-thuột thất thủ, Mỹ vẫn không có hành động gì để trừng phạt, ngăn chặn bước xâm lăng của CSBV.
     Dư luận thắc mắc, phải chăng ai đó lại “Cố vấn” cho T.T. Thiệu với cùng luận điệu, rằng không nên đánh chiếm lại Buôn-mê-thuột làm gì cho hao binh tổn tướng, lại vẫn nên dùng sự kiện BMT để đẩy mạnh tuyên truyền tố cáo CSBV trắng trợn vi phạm Hiệp Ðịnh Paris trước thế giới. Rằng lý do không cần đánh chiếm lại đất  đai còn là vì giải pháp cho vấn đề Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Vậy thì chỉ nên “co cụm lại” để tập trung lực lượng bảo vệ các thành phố chiến lược quan trọng, để chờ giải pháp chính trị… Sau này tài liệu cho biết, một trong những cố vấn đã ảnh hưởng đến  quyết định “rút lui chiến thuật” của T.T. Thiệu là Vũ Ngọc Nhạ, tình báo chiến lược của CSBV, như đã trích dẫn ở phần trên.
     Nhưng tựu chung, có lẽ vì nghe theo mọi lời khuyên xem ra có vẻ hợp lý, mà ngày 15-3-1975, tức bốn ngày sau Buôn-mê-thuột thất thủ, T.T. Thiệu đã vội triệu tập các Tướng lãnh cao cấp trong một phiên họp ở căn cứ Cam Ranh, để đi đến quyết định vô tiền khóang hậu trong quân sử QLVNCH cũng như quân sử thế giới: Rằng cao nguyên và miền Trung phải bị bỏ rơi! Nghĩa là ông Thiệu đã quyết định bỏ luôn Quân Ðòan I và Quân Ðòan II. Quyết định này đã gây bàng hoàng, choáng váng cho nhiều người. Vì như thế là chỉ qua một đêm, ông Thiệu đã nhượng cho đối phương một nửa lãnh thổ VNCH!
     Sau này ông Thiệu đã biện bạch rằng: “Chúng tôi phải rút quân về bảo vệ các vùng quan trọng, vì chúng tôi đánh giá là Mỹ sẽ không giúp nữa. Nếu họ giúp thì đã giúp rồi. Chúng tôi không thể chờ đợi đến khi quá chậm. Phải chấp nhận nỗi hiểm nghèo có tính tóan. Biết rằng rút lui mà không có khả năng cơ động và hỏa lực mạnh thì sẽ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi vẫn phải làm.” (25)
     Tại sao ông Thiệu dám chọn giải pháp này dù biết rằng nguy hiểm như vậy? Vì ông ta muốn tạo áp lực để phút chót thấy tình hình nguy ngập Mỹ có thể can thiệp chăng? Vì một lời khuyên trực tiếp hay chỉ là sự gợi ý gián tiếp song có hiệu quả của quan chức Mỹ ở Saigon? Có thể cả hai. Vì ngài Ðại sứ Martin quả đã có sự gợi ý này: “Chỉ còn một con đường khôn ngoan duy nhất là cắt bớt các tuyến quân sự và chỉ giữ lại một phần đất mạnh về kinh tế là vùng châu thổ phía Nam”(26). Như vậy là sự gợi ý của ngài Ðại sứ Mỹ cuối cùng ở Sàigòn cộng với lời khuyên của các “cố vấn” đã được ông Thiệu cảm nhận và thực hiện như một sáng kiến táo bạo. Có điều kết quả thu lượm được thuộc về phía Hoa Kỳ và Việt Cộng, còn hậu quả được dành cho nhân dân Miền Nam yêu chuộng tự do, những người đã nằm xuống trong cuộc chiến và những kẻ sống sót sau cuộc chiến!
     Thực vậy, giải pháp trên đã được thực hiện bằng một cuộc “di tản chiến thuật” mà thực tế đã biến thành một cuộc “tháo chậy tán lọan” vô tiền khóang hậu trong lịch sử các cuộc hiến tranh cục bộ. Các chiến lược gia đã phải gọi đó la “Một cuộc rút lui được vạch ra tồi nhất và thi hành tệ hại nhất trong lịch sử quân sự”. Một cuộc di tản chiến thuật gọi là co cụm lại để bảo toàn lực lượng và để đủ sức bảo vệ các vùng chiến thuật trọng yếu, rốt cuộc đã chẳng bảo vệ được gì khác hơn là góp phần làm cho quá trình sụp đổ của một chế độ nhanh chóng hơn. Vì cuộc rút quân tàn tệ này nó đã phá hủy mau chóng quân phong quân kỷ và tinh thần chiến đấu của quân sĩ Quân Lực VNCH. Một quân đội mà trước đó đã bị hoang mang giao động bởi những đòn cân não của cả bạn lẫn thù. Hậu quả tất nhiên là quân sĩ sẽ không còn muốn chiến đấu mà chỉ muốn tháo chậy sao cho an tòan bản thân và lo cho  gia đình, để có cơ may tồn tại trong một giải pháp chính trị tương lai đã được định đoạt. Hầu như binh lính VNCH đều có tâm trạng không muốn là người phải hy sinh cuối cùng của cuộc chiến.
Thiện Ý
 *Ghi chú: Trích “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quôc Tế Mới” của Thiện Ý, ấn hánh lần đầu Tháng 4 năm 1995 và tái bản Tháng 4 năm 2005 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ.
- (17, (19), (24):Gián  Điệp Nhị Trùng, Trần Trung Quân, nhà xuất bản Nam Á, Paris 1990 (trang 335, 337, 338)
- (18), (20) đến (23, (25)và (26):  Theo “The Ten Thousand day War” của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
-  Xin vào: luatkhoavietnam.com , mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.

CỰU SINH VIÊN SÀI GÒN ĐOÀN VĂN TOẠI “PHẢN TỈNH” HAY “NGỤY PHẢN TỈNH”?



CỰU SINH VIÊN SÀI GÒN ĐOÀN VĂN TOẠI “PHẢN TỈNH” HAY “NGỤY PHẢN TỈNH”?

Thiện Ý

Tin truyền thông trên mạng internet toàn cầu cho hay, cựu sinh viên văn khoa Sai Gòn Đoàn Văn Toại, Phó Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn (1969-1970) là một trong những lãnh đạo hàng đầu phong trào biểu tình “chống Mỹ cứu nước”(nay thì đón Mỹ cứu nước) theo chỉ đạo của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miến Nam, một công cụ của cộng sản Bắc Việt trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, đã từ trần ngày 26-11-2017 vừa qua, tại California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 72 tuổi (1945-2017).

Đoàn Văn Toại là ai, đã “phản tỉnh” hay “ngụy phản tỉnh”? Đó là nội dung bài viết này.

I/- ĐOÀN VẰN TOẠI LÀ AI?

Người viết không quen, nhưng có biết các hoạt động của Đoàn Văn Toại qua báo chí, khi làm Phó Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn trụ sợ số 4 Duy Tân.Sau 30-4-1975 khi người viết bị tù ở biệt giam số 6, khu C.2 ở số 4 Phan Đăng Lưu, Saigon, nghe nói Đoàn Văn Toại ở phòng giam tập thể số 5 đối diện phòng biệt giam số 6 mới được tha về.

Theo Nguyễn Thùy Trang, tác giả bài viết “Đoàn Văn Toại là ai?”  thì “Ông Toại sinh 1945 tại Vĩnh Long, từng học Đại Học Văn Khoa tại SG. Vào thời điểm chiến tranh trước năm 1975, Toại gia nhập lực lượng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN (Việt Cộng). Ông được bổ nhiệm công tác trà trộn vào giới sinh viên Miền Nam để quấy phá, gây xáo trộn thời cuộc. Đầu năm 1969, trong cuộc họp Đảng bộ sinh viên tại Đại Học Vạn Hạnh, ông được bầu làm phó chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn niên khóa 1969-1970. Đầu năm 1971, ông mang lon cấp tá thuộc MTDTGPMN và được cử sang Mỹ để tuyên truyền cho giới sinh viên Mỹ trong phong trào chống chiến tranh VN tại đại học Berkeley và Stanford.

Sau năm 1975, ông được Việt Cộng đưa lên làm phó Bí Thư thuộc Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương Cục miền Nam, tuy nhiên sau đó, ông nhanh chóng bị VC bắt giam tù vì nghi ngờ làm việc cho CIA, Mỹ. Ông bị VC giam 28 ngày và được thả ra.

Năm 1978 là lúc cao điểm mà hàng triệu đồng bào liều mình vượt biển, vượt biên tìm tự do và đúng vào thời điểm diễn ra chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc thì Đoàn Văn Toại theo đoàn tàu vượt biển tìm tự do. Ông tới Paris vào tháng 5 năm 1978. Năm 1980, từ Paris ông sang Mỹ theo diện bão lãnh và sống tại Bắc California. Tháng 6 năm 1986, ông phát hành cuốn sách The Vietnamese Gulag nói về 28 ngày ông bị Việt Cộng giam tù và đối xử tàn bạo.

Năm 1989, Đoàn Văn Toại trở thành nỗi tiếng về các loạt bài phóng sự tại Việt Nam. Ông sáng lập một nhóm vận động dân chủ có tên gọi là Institute for Democracy in Vietnam (Học Viện cho Dân Chủ ở Việt Nam).
Cùng năm 1989, ông Đoàn Văn Toại bị một sát thủ bắn nhiều phát đạn ngay tại nhà riêng của ông ở Fresno, Ca nhưng thoát chết. Một viên đạn làm vỡ răng và xuyên qua dưới tai ông…

Tiểu sử theo Wikipedia thì “Toại là một nhà hoạt động chống chiến tranh, một người ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và phó chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn năm 1969 và 1970. Tháng 1-1971, ông đã bay sang California để đọc những bài thuyết trình chống chiến tranh ở Berkeley và Stanford. Sau đó ông bị chính quyền miền Nam Việt Nam bỏ tù về những hoạt động chống chính phủ như là một lãnh tụ sinh viên. Sau khi nước Việt Nam thống nhất vào năm 1975, ông trở thành cán bộ của Ban tài chính dưới thời Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam mới được thành lập. Chẳng bao lâu ông bất đồng ý kiến về các chính sách được đề ra của các cán bộ cấp trên, ông từ chức và sau đó bị bắt giam 28 tháng. Cuối cùng ông rời Việt Nam sang Paris vào tháng 5 năm 1978.[1]

Năm 1989, ông bị bắn và bị thương trầm trọng bởi 2 người đàn ông châu Á trong khi ông đang đi bộ trong khu vực nơi ông cư trú ở California, Mỹ.[2] Việc ám sát này xảy ra trong một loạt đợt tấn công vào những người Việt Nam tại Mỹ bất đồng chính kiến nội bộ và được tin là vì lý do chính trị.[2] Việc ông Toại cổ vũ và đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ nối lại bang giao với Việt Nam không được hoàn toàn ưa chuộng bởi cộng đồng người Việt ở Mỹ và có tin đồn là ông ta bị bắn bởi những người chống Cộng phản đối việc này.[2][3]

Sau cuộc tấn công, Ông Toại không đưa ra kết luận ai phải chịu trách nhiệm nhưng ông biết mình trở thành mục tiêu bởi vì những bài viết và tuyên bố công khai của mình, ông ngừng viết và rút lui khỏi tầm mắt công chúng ngay sau đó.Năm 2000, ông trở về Việt Nam mở trường Đại học, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và du lịch…(hết trích).

II/- ĐOÀN VĂN TOẠI “PHẢN TỈNH” HAY “NGỤY PHẢN TỈNH”?

Lúc sinh thời Đoàn Văn Toại đã có bài viết chính luận nhan đề “Thổn Thức Cho Việt Nam” Ông Toại viết ““Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi“.

Qua những dòng viết trên có người cho rằng Đoàn Văn Toại đã “sám hối chân tình” của một người “phản tỉnh thực sự” rất sớm sau khi biết được thực chất cũng như thực tế của chế độ cộng sản áp đặt trên cả nước sau 30-4-1975. Thực chất cũng như thự tế là Cộng Sản Bắc Việt chỉ là “ngụy dân tộc” để tiến hành “chiến tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước” dưới chế độ cộng sản, thực hiện nghĩa vụ công cụ của cộng sản quốc tế, đứng đầu là Nga-Tàu. Thực tế là Đoàn Văn Toại đã được Việt cộng trả công bằng những năm tháng tù đày.Phải chăng nhờ đó như giọt nước tràn ly “đảng đã giúp ông sáng mắt sáng lòng”?

Cũng có nhận xét cho rằng, với việc thừa nhận như vậy, Đoàn Văn Toại đã hơn hẳn rất nhiều người từng hoạt động với ông trong “Phong trào sinh viên…” thuộc Tổng hội sinh viên Saigon như Huỳnh Tấn Mẫm, Huỳnh Kim Báu, Nguyễn Trường Cổn, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn Đăng Liêm, Đỗ Hữu Cảnh,Trịnh Đình Ban, Đào Hiếu…Trong số này, có kẻ “Phản tỉnh thực sự” triệt để, tuy muộn màng, thật hiếm hoi như Lê Hiếu Đằng “phản tỉnh” khi đã nằm trên giường bệnh trước khi nhắm mắt lìa đời. Nhưng phần đông đều “Phản tỉnh nửa vời”, là chỉ phản tỉnh về nhận thức (nhận biết quá khứ sai lầm đi theo cộng sản, nhìn ra chế độ cộng sản thực tế là tàn hại cho dân cho nước sau khi nắm quyền) , vẫn không dám “phản tỉnh triệt để” bằng hành động đấu tranh chống lại chế độ tàn hại này (như dám đấu chanh chống Mỹ- Ngụy trong qua khứ). Vì thế dù đã “phản tỉnh nhận thức”,phần đông  vẫn “dấu mặt” và “ngậm miệng ăn tiền” để bảo vệ lợi ích gia đình và mạng sống bản thân. Quá lắm, thành phần “phản tỉnh nửa vời” này chỉ dám lên tiếng phê bình chỉ chích những tiêu cực của cá nhân hay các hiện tượng tiêu cực trong cơ chế chính quyền, thể hiện “mâu thuẫn nội bộ”, chứ không phải “mâu thuẫn đối kháng” như “bọn phản động”!

Vẫn theo nhận xét trên, nếu trong số những người “Phản tỉnh nửa vời” này có viết sách, viết báo theo chiều hướng trên, thì vẫn không dám công khai thú nhận sự sai lầm quá khứ, lại còn tỏ ra tự hào như tự biện minh cho việc đi theo cộng sản là một “sai lầm chính đáng” theo kiểu nói của Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nam Tư Milovan Djilas sau khi phản tỉnh, rằng “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim,40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu”. Nhưng người viết đã có bài phản biện đăng trên diễn đàn VOA, rằng “20 tuổi mà đi theo cộng sản là không có cái đầu, 40 tuổi mới từ bỏ cộng sản (là quá muộn vì) không có trái tim

Vậy thì, so với nhiều người phản tỉnh khác, nhiều người cho rằng lời sám hối hay tự thú và phản tỉnh rất sớm của Ông Đoàn Văn Toại trước khi nhắm mắt lìa đời là can đảm, có dũng khí hơn nhiều người khác cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên, theo người viết, nếu chỉ căn cứ vào một vài cuốn sách hay nhiều bài viết theo kiểu tự sám hối như Đoàn Văn Toại thì chưa đủ chứng tỏ là “Phản tỉnh thực sự và triệt để”. Vì cần phải đối chiếu với những hành động cụ thể, kiểm chứng được trên thực tế sau đó của Đòan Văn Toại.

Nếu căn cứ vào tiểu sự từ hai nguồn được trích dẫn trên đây, người viết cho  cho rằng Đoàn Văn Toại chỉ là kẻ “ngụy phản tỉnh” để làm nhiệm vụ “nằm vùng” ở hải ngoại được đảng và nhà nước giao phó theo kịch bản như sau:

Việt cộng đã dùng “khổ nhục kế” đưa Đoàn Văn Toại vào tù chỉ có 28 ngày để có thành tích chống chế độ làm vỏ bọc sau khi ra tù đưa ra nước ngoài bằng cách nào không ai biết rõ, để làm nhiện vụ nằm vùng trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản. Lúc tôi ở nhà tù Phan Đăng Lưu, sau khi được đưa ra phòng tập thể số 5 thì nghe anh em nói lại là vợ Đoàn Văn Toại có quốc tịch Pháp nên đã được bảo lãnh từ nhà tù qua Paris (mâu thuẫn với tiểu sử trích dẫn trên). Sau đó Đoàn Văn Toại được đưa qua Mỹ sống ở nơi có đông người Việt Tỵ Nạn cộng sản ở Bắc California. Nơi đây, để chứng tỏ mình “phản tỉnh thật”, Đoàn Văn Toại đã viết sách, viết báo theo kiểu “Thổn Thức Cho Việt Nam”.Nhưng cũng có ghi nhận “Việc ông Toại cổ vũ và đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ nối lại bang giao với Việt Nam không được hoàn toàn ưa chuộng bởi cộng đồng người Việt ở Mỹ và có tin đồn là ông ta bị bắn bởi những người chống Cộng phản đối việc này…”(là một trong những nhiệm vụ?).Phải chăng sự “ngụy phản tỉnh” này dường như đã không qua mắt được những người Việt có kinh nghiệm chống cộng, nên đã bị một phần tử chống cộng cực đoan ám sát chết hụt?- Đây là một hành động khủng bố vi phạm luật pháp Hoa kỳ sao không thấy tài liệu nào nói đến vụ truy tìm thủ phạm của công lực Hoa Kỳ cũng là một nghi vấn về tính xác thực. Con bài “ngụy phản tỉnh” đã lộ, Đoàn Văn Toại “ ngừng viết và rút lui khỏi tầm mắt công chúng ngay sau đó”. “ông biết mình trở thành mục tiêu bởi vì những bài viết và tuyên bố công khai của mình”. Như vậy Đoàn Văn Toại đã bị lộ, không con tác dụng. Do đó “Năm 2000, ông trở về Việt Nam mở trường Đại học, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và du lịch…” một cách an toàn,  như Wikipedia ghi nhận. Kịch bản “ngụy phản tỉnh” của Đoàn Văn Thoại đã kết thúc trước khi Ông giã từ cuộc đời để như “Bác Hồ” nói giã biệt với “các đồng chí” trước khi chết, rằng “tôi đi gặp Karl Mark, Lenin…và cả Bác Hồ nữa”?

 Nhân cái chết của Đoàn Văn Toại, người viết xin nhắn những “người bạn chiến đấu” với Ông ta năm xưa trong cái gọi là “Phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh chống Mỹ-Ngụy” nay còn sống có được sự can đảm và dũng cảm “phản tỉnh triệt để” chứ đừng “phản tỉnh nửa vời” hay “ngụy phản tỉnh”, trước khi quá muộn, để “đoái công chuộc tội” vì quá khứ sai lầm tin theo cộng sản gây tác hại toàn diện, nghiêm trọng và lâu dài cho đất nước và dân tộc. Giờ đây những người này chắc tuổi tác cũng đã cao, nhưng với hành động công khai phản tỉnh của họ tuy có trễ, nhưng chưa muộn, ít nhiều vẫn có tác dụng tốt,  góp phần vào tiến trình dân chủ hóa, tạo tiền đề phát triển toàn diện đất nước đến giầu mạnh, văm minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại. Đó là một tiến trình không thể đảo ngược đã và đang diễn ra hòa bình và tịnh tiến, dù đảng CSVN có biết cũng chỉ cảnh giác các đảng viên về cái gọi là “âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch” để “đảng ta và chế độ ta” tự hủy bằng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” đến nền “dân chủ tư sản và kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa”, là chống lại chủ trương “kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của “đảng và Nhà nước ta” hiện nay. Cho dù như Tổng Bí Thứ Nguyễn Phú Trọng nói, không biết đến cuối thế kỷ này, Việt Nam đã có chủ nghĩa xã hội hay không, nhưng “đảng và nhân dân ta” vẫn quyết tâm “làm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” đến cùng (!?!); dù có là con đường đi không bao giờ đến đích.

                 Thiện Ý
Houston, ngày 4 tháng 12 năm 2017

* Bài viết này viết sau khi nghe tin Đoàn Văn Toại qua đời ít ngày. Nhưng tôn  trọng người mới chết, nay mới phổ biến nhân bước vào Tháng Tư Đen.

NHÌN LẠI NĂM ĐẦU CẦM QUYỀN CỦA TỔNG THỐNG GỐC DOANH NHÂN.



NHÌN LẠI NĂM ĐẦU CẦM QUYỀN CỦA TỔNG THỐNG GỐC DOANH NHÂN.

Thiện Ý

Như vậy là một năm cầm quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump gốc doanh nhân đã trôi qua với nhiều sóng gió đến độ những người không hiểu rõ sự vận hành ổn cố của cơ chế chính trị Hoa Kỳ có lúc nghĩ rằng Ông sẽ khó giữ được chiếc ghế Tổng Thống nội trong năm đầu của nhiệm kỳ bốn năm (2017-2021).

Nhiều người cho rằng sóng gió trên chính trường Hoa Kỳ một năm qua là do vị Tổng Thống thứ 45 của Hoa Kỳ Donald Trump thuần túy là một doanh nhân thành đạt trên thương trường trở thành tỷ phú, nhưng chưa có kinh nghiệm chính trường vì chưa bao giờ nắm giữ một chưc vụ công cử hay dân cử nào trong guồng máy công quyền quốc gia Liên bang cũng như tiểu bang. Thêm vào đó, là do cá tính bộc trực, nóng nảy, tự tin, tự mãn và tự cao, ít nghe theo lời các Cố vấn, nên đã điều hành quốc gia theo kiểu ông chủ của một công ty kinh doanh, với các chủ trương chính sách cai trị dựa trên tính toán “lời hay lỗ”, hoàn toàn trái với cách hành xử của các vị Tổng Thống tiền nhiệm cùng đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ đối lập, đều là những chính trị gia chuyên nghiệp. Những đặc tính này của Tổng Thống Donald Trump đã thể hiện từ cách chọn lựa và bổ nhiệm nhân sự chính trị, ngoại giao các cấp, đến cung cách điều hành chính quyền, hoạch định và thực hiện  chính sách đồi nội và đối ngoại trong một năm qua.

CHỌN LỰA NHÂN SỰ VÀ ĐIỀU HÀNH CHÍNH QUYỀN.

Người ta thấy thành phần nội các của Tổng Thống Trump phần đông là các nhà tư bản tỷ phú hay triêu phú, khác với nội các của các Tổng Thống Hoa Kỳ tiền nhiệm đa số thường là các chính trị gia chuyên nghiệp hay những chuyên viên có kiến thức và kinh nghiệm về các lãnh vực mà họ được bổ nhiệm vào vai trò lãnh đạo, điều hành. Thông thường trong các đời Tổng Thống trước thì các chức vụ công cử  chính trị, hành chánh hay ngoại giao này được bổ nhiệm rất nhanh để sớm ổn định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành trong guồng máy công quyền hành pháp quốc gia. Nhưng với Tổng Thống Trump tiến trình này được thực hiện rất chậm, cho đến giờ này Đại sứ quán ở một số nước vẫn chưa bổ nhiệm vị Đại sứ hay một số chức vụ công cử hàng đầu vẫn còn bỏ trống. Dường như Ông Trump muốn tiết kiệm ngân sách nên đối với chức vụ trong những lãnh vực mà Ông cho có bỏ ngỏ một thời gian cũng không có hại gì, nên thủng thẳng cũng không sao để khỏi chi phí. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm hay sa thải thì cung các hành xử của TT. Trump không khác gì Ông Chủ của một công ty, hợp ý thì lưu dụng, trái ý thì sa thải….Không cần nói ra thì ai cũng biết Những trường hợp bị TT. Trump sa thải hay buộc phải thôi việc đều theo cung cách này khá nhiều trong một năm qua.

VỀ ĐỐI NỘI VÀ ĐỐI NGOẠI

Nhìn chung chính sách đối nội và đối ngoại của Tổng thống Donald Trump trong năm qua được thể hiện cụ thể  qua việc thực hiện hầu hết những gì mà Ông đã hứa với cử tri khi tranh cử; hơn là hoạch định bài bản, rõ nét về chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Hoa Kỳ trong ngắn hạn cũng như dài hạn, khác với các Tổng Thống tiền nhiệm.Thêm vào đó là cung cách thực hiện các chủ trương đối nội cũng như đối ngoại đều mang tính mạnh bạo, quyết liệt, đột phá khó lường, đảo lộn hầu hết các chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Tổng thống dân chủ Barrack Obama và khác với truyền thống nếu so với các Tổng Thống tiền nhiệm.Những người ủng hộ thì coi đây là hành động cách mạng để phá đổ hoàn toàn cái cũ, xây dựng những cái mới sẽ làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, như khẩu hiệu tranh cử của ứng viên Donald Trump. Những người chống đối thì cho đây chỉ là hành động của một Tổng Thống thiếu kinh nghiệm đã điều hành đất nước theo cá tính, bốc đồng, quyết định theo sáng kiến cảm tính của một chủ nhân điều hành một công ty kinh doanh, đã gây xáo trộn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trong cho đất nước. Nhiều người tự hỏi, không biết cung cách hành xử táo bạo,đột biến khó lường này, có phải do cá tính quyết đoán, bồng bột hay là  sự tính toán có chủ đích chính trị của Tổng Thống Trump và bộ tham mưu của ông?
Về đối nội, một năm qua Tổng Thống đã thực hiện được hầu hết những điều đã hứa với cử tri, dù thành quả chưa đạt là ngoài ý muốn. Ông đã thất bại trong nỗ lực bãi bỏ Obama Care để thay thế bằng một Luật bảo hiểm y tế cho người dân mà Ông cho là tốt hơn.Ông đã ban hành các Sắc lệnh về nhập cảnh và di trú dù bị ngăn cản, những vẫn cố gắng thực hiện các biện pháp ngăn chặn, trục xuất những di dân nhập cư bất hợp pháp vào Hoa Kỳ mà Ông cho là cần thiết cho an ninh quốc gia. Bức tường biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico Ông đã xin ngân sách nhưng không được Quốc Hội chuẩn phê, nhưng ông vẫn tiếp tục nỗ lực này trong ba năm còn lại của nhiệm kỳ.Một thành công nổi bật trong năm đầu cầm quyền là Tổng Thống Trump đã thưc hiện lời hứa thay đổi Luật thuế Liên bang được lưỡng viện quốc hội thông qua. Luật thuế mới này đã giảm thuế sản xuât kinh doanh cho các nhà đầu tư từ 35% xuống 21%, chấp nhận thất thu 1.500 tỷ đôla để thu hút  vốn đầu tư hải ngoại về nước và gia tăng đầu tư trong nước, đem lại việc làm cho dân. Thành quả từ Luật thuế mới này tương lai chưa biết ra sao, vì chưa có thời gian ứng dụng, song thực tế đã có dấu hiệu tốt trong năm cầm quyền đầu tiên của Tổng Thống Trump  mà chính CNN, một trong những cơ quan truyền thông lớn từng bị Tổng Thống Trump cho là loan những tin giả, chống ông, cũng ghi nhận rằng Trump đã làm cho kinh tế tăng trưởng, chỉ số chứng khoán Dow Jone liên tục gia tăng cao nhất là 24,000 điểm, tổng sản lượng quốc gia tăng 3.3%, tỷ lệ thất nghiệp nhỏ nhất (4.7) so với 17 năm qua…
Mặt khác, về chính trị nội bộ, chính quyền Trump trong một năm qua đã phải vất vả đối phó với nghi án Nga can thiệp bầu cử Mỹ. Do nghi án này mà tổng thống Trump đã cách chức giám đốc FBI James Comey và  nhiều nhân vật thân cận của ông đã bị điều tra hoặc truy tố
Về đối ngoại, để thực hiện khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết”, một năm qua Tổng Thống Trump đã thực hiện một chính sách đối ngoại đặt nặng lợi ích kinh tế quốc gia hơn lợi ích chính trị ngoại giao. Nghĩa là theo cách tính toán cộng trừ, nhân chia của một doanh nhân, chính sách ngoại giao nào chi tiêu nhiều mà đem lại lợi ích ít hay không có lợi ích cụ thể, Ông kiên quyết loại bỏ, bất kể hậu quả với các đối tác hay đồng minh. Chẳng hạn xét lại quan hệ bao lâu nay giữa Hoa Kỳ và khối thị trường chung Châu Âu EU, hay Hoa Kỳ đã rút ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, vì hiệp định cũng bị Tổng thống Trump xem là bất lợi cho nước Mỹ. Ông cũng hoài nghi về biến đổi khí hậu, đã rút Hoa Kỳ ra khỏi hiệp định Paris, vì cho rằng hiệp định này bất lợi cho Mỹ, tiết kiệm được khoảng $2 tỷ tiền đóng góp quá nhiều để cho nước khác, đứng đầu là Trung Quốc, thanh lọc môi trường khí thải của họ. Mặc dầu bị nhiều người chỉ trích cho Tổng Thống Trump là người thiếu hiểu biết về khoa học nên không tin là “địa cầu đang nóng lên”.. Trump cũng rút khỏi tổ chức Unesco vì các thành viên chống lại quyết định thừa nhận Jerusalem là thủ đô của Israel của Mỹ, tiết kiệm được $80 triệu/1 năm tiền thuế của dân Mỹ. Đồng thời cũng vì đa số các nước hội viên LHQ đã bỏ phiếu chống lại quyết định thùa nhận này của Mỹ, Trump còn đòi cắt đóng góp cho LHQ gần $300 triệu v.. v... làm cho thế giới rúng động.
Về địa chính trị quốc tế, chính quyền Trump trong một năm qua đã phải đối phó với khủng hoảng hạt nhân Bắc Triều Tiên và vẫn đang tiếp tục cùng với cộng đồng quốc tế gia tăng và đẩy mạnh các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ lên chế độ Bắc Triều Tiên để buộc nước này phải thi hành các nghị quyết của Liên Hiệp, phải từ bỏ chế tạo và tang tữ vũ khí hạt nhân, đe dọa an ninh khu vực và hòa bình thế giới.
KẾT LUẬN.
Tựu chung, trong năm đầu cầm quyền đầy sóng gió do cung cách hành xử vai trò Tổng Thống Hoa kỳ quá đặc thù với nhiều cá tính của Ông Trump, thể hiện chủ yếu qua những tin nhắn trên mạng Twitter, đã liên tục gây sóng gió trên chính trường quốc nội cũng như quốc tế. Người bình dân gọi hệ quả này là là do ‘Vạ miệng”. Tất nhiên, ở cương vị Tổng Thống người khen chê, yêu ghét là điều bình thường, tài năng lãnh đạo quốc gia thực sự chính là thành quả thực tế mà một vị Tổng Thống đem lại cho nhân dân và đất nước Hoa Kỳ từ các chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện bằng những phương cách  hiệu quả. Nhưng phải có thời gian ít nhất 4 năm nhiệm kỳ đầu của một Tổng Thống mới có thể đánh giá. Tổng Thống Donald Trump mới trải qua một năm đầu trong sóng gió, tam tứ đầu thọ địch, vẫn tỏ ra can trường, tự tin, với một số ít thành quả đạt được bên cạnh những thất bại ngoài ý muốnNgươi ta hy vọng Ông sẽ rút kinh nghiệm để trong 3 năm tiếp theo nhiệm kỳ đầu này Ông sẽ thực hiện được điều Ông nói là làm cho “nước Mỹ vĩ đại trở lại” mà đúng là là làm cho “nước Mỹ vĩ đại hơn nữa”. Vì thực tế nước Mỹ đã vĩ đại và vĩ đại từ lâu rồi. Phải không thưa Tổng Thống Trump?
Thiện Ý
Houston, ngày 20-1-2018