CHẾ ÐỘ VNCH Ở NAM
VIỆT NAM
ĐÃ BỊ
CƯỠNG TỬ NHƯ THẾ
NÀO?
43 năm trước đây (1975-2018), vì không nắm
được ý đồ chiến lược của Mỹ, CS Hà Nội đã hăm hở bước vào giai đọan cuối cùng
của cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam.
Trong giai đọan này, nếu chỉ nhìn qua hiện tượng, người ta thấy như có sự ăn ý
giữa Hoa Kỳ và CSBV, kẻ tung, người hứng để cùng cưỡng tử chế độ VNCH một cách
ngọan mục.
I.- KHỞI ÐI TỪ SỰ KIỆN PHƯỚC LONG BỊ CỘNG
QUÂN ĐÁNH CHIẾM.
Ngày 7-1-1975, bộ đội CSBV đã mở cuộc tiến
công và đã chiếm đóng được tỉnh lỵ Phước Long như một thử nghiệm đầu tiên ý chí
của Hoa Kỳ, thăm dò xem phản ứng đến mức độ nào. Hoa Kỳ đã lập tức lên tiếng tố
cáo mạnh mẽ hành động vi phạm trắng trợn
Hiệp Ðịnh Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình tại Việt Nam
ngày 27-1-1973 của CSBV, kèm theo lời đe dọa sẽ trừng phạt nghiêm khắc nếu CS
không ngưng ngay những hành động lấn chiếm tương tự.
Sau sự
lên án tố cáo có tính chiếu lệ với kẻ thù, Mỹ đã không có hành động nào
khác hơn thể hiện ý chí và quyết tâm giúp “bạn” bảo vệ chế độ VNCH. Không những
thế, dường như ai đó đã vô tình hay cố ý giúp thực hiện đúng ý định của Hoa Kỳ,
khi khuyên T.T. Thiệu không nên đánh chiếm lại Phước Long làm gì cho hao binh
tổn tướng, mà hãy dùng sự kiện Phước Long như là bằng chứng tố cáo trước công
luận thế giới về hành động phá hoại Hiệp Ðịnh Paris của CSBV. Bởi vì giải pháp
cho Việt Nam
bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Có lẽ vì nghe theo lời
“cố vấn” này, nên T.T. Thiệu đã không tìm cách lấy lại Phước Long mà chỉ ra
lệnh đẩy mạnh tuyên truyền, tố cáo CSBV vi phạm Hiệp Ðịnh, đẩy mạnh chiến dịch
vẽ cờ, lấn đất giành dân, chuẩn bị chiếm ưu thế về lãnh thổ trong một giải pháp
chính trị tương lai? Mặc dầu “đầu tháng
Giêng 1975, T.T. Thiệu đã ra lệnh tập trung lực lượng không quân gồm 116 oanh
tạc cơ, 160 phi cơ trực thăng, dội bom và đánh phá trọn một tuần lễ xuống Phước
Long, nhưng vẫn không đẩy lùi nổi 3 sư đòan chính quy Bắc Việt đang chiếm lấy
thị trấn này…” (17)
Trong khi đó, từ sự kiện Phước Long, dư
luận lúc đó ở Sàigòn lan truyền khắp Miền Nam, nói nhiều đến một chính phủ liên
hiệp ba thành phần, nói nhiều đến giải pháp trung lập. Dường như trong tâm lý
quần chúng cũng như quân đội VNCH lúc ấy đều bị hoang mang giao động, tinh thần
chủ hòa đang có chiều hướng lấn ép chủ chiến. Tình cảnh này đã có ảnh hưởng rất
lớn vào tinh thần chiến đấu của binh sĩ quân lực VNCH. Quân dân Miền Nam
như cùng hướng lòng về một giải pháp chính trị, với tâm trạng chờ đợi, mất cảnh
giác chiến đấu và suy giảm nghiêm trọng ý chí chống cộng.
Trong khi đó, Mỹ đã không có hành động
trừng phạt cương quyết nào với đối phương, mà lại gia tăng áp lực đối với chính
phủ VNCH, thúc đẩy và nuôi dưỡng tình hình bất ổn, xáo trộn nội bộ, đẩy chế độ
vào thế tam, tứ đầu thọ địch. Áp lực mạnh nhất đánh vào cân não quân đội và
dân chúng VNCH là quyết định cắt giảm quan trọng viện trợ kinh tế, quân sự cho
VNCH giữa lúc chế độ đang trong điều kiện thử thách sống còn. Như vậy là Mỹ đã
không giữ lời cam kết khi “Việt Nam hóa
chiến tranh” (Tăng cường viện trợ
quân sự để trang bị đầy đủ cho QLVNCH đủ sức làm công việc tự bảo vệ);
không giữ những lời hứa công khai cũng như riêng tư với Tổng thống Thiệu của
T.T. Hoa Kỳ Nixon (viện trợ kinh tế, quân
sự dồi dào cho VNCH để giúp thành tựu Hiệp Ðịnh Paris theo ý muốn của Mỹ.
). Hậu quả tất nhiên của đòn cân não này là tinh thần chiến đấu của tướng sĩ
QLVNCH suy yếu và tiềm năng chống cộng của cả chế độ VNCH phải sút giảm nghiêm
trọng. Chúng ta hãy nghe sau này ông Thiệu kể lại:
“… vào
năm 1975, tiềm lực chiến đấu của chúng tôi giảm 60%, trong khi đó tiềm lực
chiến tranh của Hà Nội gia tăng ghê gớm. Tôi có thể nói trong hai năm sau khi
ký kết Hiệp Ðịnh Paris, chiến tranh đã dữ dội hơn trước. Tuần nào tôi cũng cử
phái viên tới Washington
để giải thích. Tôi đã gửi thư cho Tổng Thống Mỹ, tôi phân bầy nỗi nguy hiểm với
Ðại sứ Mỹ ở Sàigòn, song không có chuyển biến gì cả...” (18)
Chuyển biến gì được nữa, khi ý định của Mỹ
lúc này là đang muốn trói chặt VNCH về chính trị, kinh tế, quân sự, để chờ cho
CSBV đến ban cho một phát súng ân huệ. Mỹ đã trói chặt VNCH về chính trị trong
một giải pháp liên hiệp với CS, với chiêu bài “hòa giải, hòa hợp dân tộc” để ru ngủ và làm tê liệt ý chí chống
cộng của quân dân MNVN. Mỹ đã trói chặt về kinh tế khi cắt giảm tối đa về mọi
mặt, là cắt nguồn máu nuôi sống chế độ. Mỹ đã chặt tay chặt chân về quân sự,
khi không thực hiện trang bị, cung cấp vũ khí đạn dược đủ để cho trụ cột chủ
yếu chống cộng đủ sức làm công việc tự bảo vệ. Việc Quốc hội Hoa Kỳ chỉ thông qua một ngân khỏan
viện trợ hàng trăm triệu (700 triệu)
so với nhu cầu thực tế hàng tỉ, trong lúc tình hình chiến sự nguy ngập, thử hỏi
QLVNCH còn đâu tinh thần và sức mạnh chiến đấu để mà làm công việc tự bảo vệ?
Mặt khác, đúng lúc này, không biết ai xui
khiến cho T.T. Thiệu ra lệnh giải giới các lực lượng bán quân sự như Nhân Dân
Tự Vệ và các giáo phái có trang bị vũ khí, gọi là để tập trung lực lượng và sức
mạnh chiến đấu của QLVNCH. Ðiển hình là vụ giải giới lực lượng bán quân sự của
Phật Giáo Hòa Hảo khỏang 10.000 người, bắt giam ông Hai Tập, Tổng Chỉ Huy Lực
lượng Bảo An Hòa Hảo.
“. .
. Cuối tháng Giêng 1975, ông Hai Tập, ông Lương Trọng Tường thành lập một sư
đòan Bảo An Hòa Hảo với mục đích tiếp tục chiến đấu kháng cộng, nếu VNCH sụp
đổ. Ông Thiệu lập tức giải tán và bắt giam ông Hai Tập vì sợ lực lượng Hòa Hảo
lật đổ ông...” (19)
Việc làm này của ông Thiệu như là hành động tự chặt tay mình về mặt quân sự.
Ai đã cố vấn cho ông Thiệu làm việc này, hay do sáng kiến cá nhân, điều này chỉ
có ông biết. Người bàng quang chỉ có thể suy đóan, có thể là sáng kiến cá nhân
vì mối lo sợ riêng, song cũng có thể là sự gợi ý của các “Cố vấn” là người Mỹ, hoặc là người của Việt cộng “nằm vùng” bên
cạnh Ông. Vì rằng vào thời điểm này, tuy khác ý đồ, nhưng Mỹ và Việt cộng dường
như đã gặp nhau ở mục tiêu chung: Triệt
tiêu chế độ VNCH càng sớm càng tốt.
Thế nhưng cho đến lúc này dường như người
lãnh đạo cao nhất của chế độ VNCH vẫn chưa nắm bắt được ý định thực sự của “ người bạn đồng minh Hoa Kỳ”. Vẫn như còn
cố tin vào những lời cam kết, hứa hẹn bí mật hay công khai trên giấy trắng mực
đen của chính phủ cũng như cá nhân Tổng thống Hoa Kỳ R. Nixon. Như vậy, quả
thực tập đòan lãnh đạo chế độ công cụ ngoại bang ở Hà Nội đã tài giỏi hơn nhiều
so với chế độ ở Sài gòn. Tổng thống Thiệu vẫn ngây thơ tin rằng những hành động
đích thân của ngài Ðại sứ Martin bay từ Sàigòn về Washington như là để bênh vực cho lập trường
của mình. Sau khi cộng quân lấn chiếm Phước Long, ông Thiệu vẫn tin tưởng và
chờ đợi Hoa Kỳ thực hiện những lời hứa và cam kết trong những bức thư trao đổi
riêng tư với T.T. Nixon. Trong khi đó, các lãnh tụ cáo già CSBV thì tỏ ra hết
sức chú tâm và nương theo ý đồ của Mỹ để đạt ý đồ của mình. Sau khi đánh chiếm
được Phước Long, cộng quân như tạm ngưng các cuộc tiến công lớn để thăm dò phản ứng của Mỹ.
Nhớ lại phản ứng của Mỹ lúc ấy là ngoài
những lời lên án, tố cáo, đe dọa “Sẽ trả
đũa”, Mỹ chỉ tăng cường các chuyến bay do thám, mà theo nhận xét của ông
Thiệu “Việc ấy chẳng khác gì dùng bồ câu
thay thế B-52…”. Ðồng thời, T.T. Gerald Ford, người kế vị T.T. Nixon bị mất
chức giữa nhiệm kỳ vì vụ Watergate, cũng cố làm ra vẻ hết lòng xin Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung 300 triệu Mỹ kim
cho VNCH.
Thế nhưng theo lời Ðại sứ Martin “… Nam Việt Nam không nhận được viện trợ bổ
sung mà còn không nhận được chút viện trợ nào trong năm tài chánh sắp tới, bắt
đầu từ Tháng 6-75… Nói khác đi, nội trong 3 tháng nữa ông Thiệu sẽ đứng trước
sự kiện bị cúp viện trợ…” (20). Ông Martin kết luận: “Cố gắng bơm thêm sức mạnh cho ai đó bằng những bảo đảm mà chính mình
không tin thì sẽ chẳng đi đến đâu hết…” (21)
Ðến đây, trước phản ứng yếu ớt của Mỹ với
thù (CSBV), sự gia tăng áp lực chính trị, kinh tế của Mỹ với bạn (VNCH), các
lãnh tụ CS ở Hà Nội càng tin tưởng chắc chắn Mỹ sẽ không can thiệp trực tiếp
trở lại, dù họ có gia tăng áp lực quân sự đến đâu. Họ bắt đầu lên kế họach thôn
tính MNVN với dự liệu ít nhất 2 năm nữa mới “giải phóng” được MN. Hà nội vẫn thực sự chưa biết ý đồ này của Mỹ:
Không phải chỉ không can thiệp trở lại mà còn muốn khai tử chế độ VNCH càng sớm
càng tốt. Nghĩa là Mỹ đã có ý định xóa bàn cờ cũ chơi bàn cờ mới. Trong khi đó
ông Thiệu và tập đòan lãnh đạo VNCH thì vẫn nghĩ Mỹ sẽ không bao giờ “dám” bỏ rơi MN, mọi áp lực chẳng qua chỉ
để buộc cá nhân ông Thiệu và phe cánh của ông phải từ bỏ quyền hành, trao lại
cho ê-kíp khác, nên nội bộ đã rơi vào sự xâu xé tranh giành quyền lợi cá nhân,
phe đảng, quên cả mục tiêu sống còn là ngăn chặn CSBV xâm lăng. Một cách vô
tình “phe quốc gia” đã như tự đào hố
chôn mình. Mặc dầu ai cũng đồng ý với nhận định của ông Thiệu lúc ấy “Chế độ VNCH còn là còn tất cả, nếu mất vào
tay CS là mất tất cả”. Nhưng tất cả trên thực tế đã có những hành động góp
phần làm tiêu vong chế độ.
Sau này chính ông Thiệu kể: “… Mỹ để lại 300.000 quân tại Châu Âu sau khi
Thế Chiến II đã chấm dứt 30 năm; để lại 50.000 quân ở Nam Hàn sau khi chấm dứt
20 năm. Lúc chúng tôi để Mỹ rút quân, chúng tôi chỉ yêu cầu được giúp đỡ để
tiếp tục chiến đấu, không còn phải duy trì nửa triệu quân ở Việt Nam, Mỹ chỉ phải chi tiêu 1 phần 20 so với
trước kia. Vậy họ còn đòi hỏi gì hơn ở chúng tôi?...” (22)
Nhận định này của ông Thiệu chứng tỏ quan
điểm lãnh đạo lỗi thời do không nhìn thấy đã có sự đổi thay chiến lược của Mỹ.
Theo đó, Mỹ không phải chỉ muốn cá nhân ông Thiệu mà muốn cả cái chế độ mà ông
cầm đầu bấy lâu nay phải biến đi càng nhanh càng tốt. Bởi vì đã qua rồi những
cơ hội tốt để tồn tại vững vàng như Nam Hàn, để không bị hủy diệt vào những lúc
Hoa Kỳ có nhu cầu phải thay đổi chiến lược như thế này.
II/-
ÐẾN SỰ KIỆN BUÔNMÊTHUỘT THẤT THỦ – THỬ THÁCH CUỐI CÙNG CHO TRỤ CỘT CUỐI CÙNG
CỦA CHẾ ÐỘ VNCH.
Ðến đây các bước người ta chuẩn bị cho một
chế độ sụp đổ như đã hòan bị. Tình hình nội bộ chế độ VNCH hoàn toàn rối ren,
tê liệt. Quân lực VNCH, cây trụ cột cuối cùng chống đỡ cho sự tồn tại thêm thời
gian của chế độ thì ra sao?
Theo tài liệu đọc được sau này thì, sau
Hiệp Ðịnh Paris năm 1973 về VN, Quân lực VNCH thực sự chỉ còn sáu đến bẩy trăm
ngàn quân chiến đấu. Về trang bị đạn dược và các phương tiện chiến tranh hiện
còn có thể giúp QLVNCH tiếp tục chiến đấu ít nhất 2 năm. Tương quan lực lượng
giữa quân lực VNCH và bộ đội CSBV theo tỉ lệ 4-1. Ðến tháng 1-1975 tỉ lệ này
chỉ còn 2-1. Bởi vì sau 2 năm ngưng ném bom, một phần đường mòn HCM đã được
CSBV sửa chữa và đặt ống dẫn dầu dọc theo đường mòn này. Trong một thời gian
ngắn, 150.000 quân CSBV đã xâm nhập thêm vào chiến trường MNVN. Sau khi chiếm
được Phước Long, Hà Nội đã có thể chuẩn bị cho một lực lượng 300.000 quân bám
sát đường mòn HCM tiến vào MN. Tất cả những họat động này, người Mỹ biết rất
rõ, song đã không có hành động gì. Vì sao?
Chúng ta hãy nghe một chuyên viên phân
tích tình báo Mỹ kể lại: “Khởi đầu cuộc
tấn công cuối cùng của CS… lúc đó chúng tôi đã biết rằng CSBV đưa vào MNVN một
lực lượng to lớn hơn nhiều so với lực lượng chúng tôi biết đang có ở đây. Họ đã
tập trung số quân này phía Tây Cao Nguyên. Bấy giờ Buônmêthuột xét về mặt lịch
sử, luôn luôn là điểm tựa phòng thủ của chính quyền trên cao nguyên.
Buônmêthuột mất thì sự phòng thủ có thể bị đánh ngang sườn. CSBV rất khôn
ngoan, họ chuyển quân mà không sử dụng
liên lạc vô tuyến điện. Họ đưa vào vùng Buônmêthuột ba sư đòan mà chúng
tôi không hề hay biết…” (23).
Có thực là người Mỹ không hay biết hay là
họ biết mà đã cố tình không cho chính quyền VNCH biết, lại còn tìm cách đánh
lạc hướng dùm cho đối phương? Vì chẳng lẽ tình báo Hoa Kỳ chỉ dựa trên sự theo
dõi liên lạc vô tuyến của VC để nắm bắt tình hình? Vậy thì chỉ có thể do bị che
mắt của “Bạn” và thế nghi binh của “Thù”, mà các nhà quân sự VNCH đã đoán sai ý
đồ của VC. Đoán sai nên đã cho rằng cộng quân có thể lập lại cuộc tấn công Mùa
Hè Ðỏ Lửa năm 1972, vượt qua khu phi quân sự. Vì vậy họ đã tập trung quân ở
phía Bắc Ðà Nẵng để đối phó? Trong khi đó, Buônmêthuột vốn là một vị trí chiến
lược trọng yếu thì quân đội Sàigòn đã không chuẩn bị phòng thủ tương xứng, chỉ
triển khai 40.000 quân ở đó. Họ đâu ngờ rằng lúc ấy, 300.000 quân CSBV đã ẩn
nấp bao vây, chờ giờ hành động. Ðể đánh lạc hướng, bộ đội CSBV đã cho truyền đi
các bức điện giả làm như mục tiêu tiến công của họ là Pleiku, nơi đặt bản doanh
của Quân Ðòan II quân lực VNCH.
Quân cộng sản đã thành công trong ý đồ
này, vì các nhà quân sự VNCH bao lâu nay quen dựa vào chiến lược, chiến thuật
đánh CS do người Mỹ họach định sẵn, nên đã có thói quen ỷ lại, lười “động não”
để sáng tạo nên đã dễ dàng bị đánh lừa của cả bạn lẫn thù. Sự thể là đúng 2 giờ
sáng ngày 10-3-1975, bộ đội CSBV đã mở cuộc tấn công Buônmêthuột. Vì quá bất
ngờ, không kịp tăng viện và không có quân yểm trợ nên sau 30 giờ bị vây hãm,
phản công yếu ớt, Buôn-mê-thuột đã thất thủ. Rồi cũng như Phước Long,
Buôn-mê-thuột thất thủ, Mỹ vẫn không có hành động gì để trừng phạt, ngăn chặn
bước xâm lăng của CSBV.
Dư luận thắc mắc,
phải chăng ai đó lại “Cố vấn” cho
T.T. Thiệu với cùng luận điệu, rằng không nên đánh chiếm lại Buôn-mê-thuột làm
gì cho hao binh tổn tướng, lại vẫn nên dùng sự kiện BMT để đẩy mạnh tuyên
truyền tố cáo CSBV trắng trợn vi phạm Hiệp Ðịnh Paris trước thế giới. Rằng lý do không cần đánh chiếm lại đất đai còn là vì giải pháp cho vấn đề Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ
không phải quân sự. Vậy thì chỉ nên “co
cụm lại” để tập trung lực lượng bảo vệ các thành phố chiến lược quan trọng,
để chờ giải pháp chính trị… Sau này tài liệu cho biết, một trong những cố vấn
đã ảnh hưởng đến quyết định “rút lui chiến thuật” của T.T. Thiệu là
Vũ Ngọc Nhạ, tình báo chiến lược của CSBV, như đã trích dẫn ở phần trên.
Nhưng tựu chung, có lẽ vì nghe theo mọi
lời khuyên xem ra có vẻ hợp lý, mà ngày 15-3-1975, tức bốn ngày sau
Buôn-mê-thuột thất thủ, T.T. Thiệu đã vội triệu tập các Tướng lãnh cao cấp
trong một phiên họp ở căn cứ Cam Ranh, để đi đến quyết định vô tiền khóang hậu
trong quân sử QLVNCH cũng như quân sử thế giới: Rằng cao nguyên và miền Trung
phải bị bỏ rơi! Nghĩa là ông Thiệu đã quyết định bỏ luôn Quân Ðòan I và Quân
Ðòan II. Quyết định này đã gây bàng hoàng, choáng váng cho nhiều người. Vì như
thế là chỉ qua một đêm, ông Thiệu đã nhượng cho đối phương một nửa lãnh thổ
VNCH!
Sau này ông Thiệu đã biện bạch rằng: “Chúng tôi phải rút quân về bảo vệ các vùng
quan trọng, vì chúng tôi đánh giá là Mỹ sẽ không giúp nữa. Nếu họ giúp thì đã
giúp rồi. Chúng tôi không thể chờ đợi đến khi quá chậm. Phải chấp nhận nỗi hiểm
nghèo có tính tóan. Biết rằng rút lui mà không có khả năng cơ động và hỏa lực
mạnh thì sẽ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi vẫn phải làm.” (25)
Tại sao ông Thiệu dám chọn giải pháp này
dù biết rằng nguy hiểm như vậy? Vì ông ta muốn tạo áp lực để phút chót thấy
tình hình nguy ngập Mỹ có thể can thiệp chăng? Vì một lời khuyên trực tiếp hay
chỉ là sự gợi ý gián tiếp song có hiệu quả của quan chức Mỹ ở Saigon?
Có thể cả hai. Vì ngài Ðại sứ Martin quả đã có sự gợi ý này: “Chỉ còn một con đường khôn ngoan duy nhất
là cắt bớt các tuyến quân sự và chỉ giữ lại một phần đất mạnh về kinh tế là
vùng châu thổ phía Nam”(26).
Như vậy là sự gợi ý của ngài Ðại sứ Mỹ cuối cùng ở Sàigòn cộng với lời khuyên
của các “cố vấn” đã được ông Thiệu
cảm nhận và thực hiện như một sáng kiến táo bạo. Có điều kết quả thu lượm được
thuộc về phía Hoa Kỳ và Việt Cộng, còn hậu quả được dành cho nhân dân Miền Nam
yêu chuộng tự do, những người đã nằm xuống trong cuộc chiến và những kẻ sống
sót sau cuộc chiến!
Thực vậy, giải pháp trên đã được thực hiện
bằng một cuộc “di tản chiến thuật” mà
thực tế đã biến thành một cuộc “tháo chậy
tán lọan” vô tiền khóang hậu trong lịch sử các cuộc hiến tranh cục bộ. Các
chiến lược gia đã phải gọi đó la “Một
cuộc rút lui được vạch ra tồi nhất và thi hành tệ hại nhất trong lịch sử quân
sự”. Một cuộc di tản chiến thuật gọi là co cụm lại để bảo toàn lực lượng và
để đủ sức bảo vệ các vùng chiến thuật trọng yếu, rốt cuộc đã chẳng bảo vệ được
gì khác hơn là góp phần làm cho quá trình sụp đổ của một chế độ nhanh chóng
hơn. Vì cuộc rút quân tàn tệ này nó đã phá hủy mau chóng quân phong quân kỷ và
tinh thần chiến đấu của quân sĩ Quân Lực VNCH. Một quân đội mà trước đó đã bị
hoang mang giao động bởi những đòn cân não của cả bạn lẫn thù. Hậu quả tất
nhiên là quân sĩ sẽ không còn muốn chiến đấu mà chỉ muốn tháo chậy sao cho an
tòan bản thân và lo cho gia đình, để có
cơ may tồn tại trong một giải pháp chính trị tương lai đã được định đoạt. Hầu
như binh lính VNCH đều có tâm trạng không muốn là người phải hy sinh cuối cùng
của cuộc chiến.
Thiện Ý
*Ghi chú: Trích “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quôc Tế Mới” của Thiện Ý, ấn hánh
lần đầu Tháng 4 năm 1995 và tái bản Tháng 4 năm 2005 tại Houston, Texas, Hoa
Kỳ.
- (17,
(19), (24):Gián Điệp Nhị Trùng, Trần
Trung Quân, nhà xuất bản Nam
Á, Paris 1990 (trang 335, 337, 338)
- (18),
(20) đến (23, (25)và (26): Theo “The Ten
Thousand day War” của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng Pulitzer nhờ
những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào: luatkhoavietnam.com , mục “Diễn
Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu
lý luận “Việt Nam
Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe
Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.