Thursday, June 16, 2011

Bình luận: Ý nghĩa ngày Lễ của Me, của Cha sẽ không còn, nếu xã hội không ngăn cấm tuyệt đối việc sản xuất con người trong ống nghiệm.

Bình luận:
Ý NGHĨA NGÀY LỄ CỦA MẸ, CỦA CHA SẼ KHÔNG CÒN, NẾU XÃ HỘI KHÔNG NGĂN CẤM TUYỆT ÐỐI VIỆC SẢN XUẤT CON NGƯỜI TRONG ỐNG NGHIỆM.

Thiện Ý
     
         Cuối tuần này, người Hoa Kỳ sẽ mừng Ngày Lễ Của Cha (Father’s Day), cũng như tháng trước, họ đã mừng ngày Lễ Của Mẹ (Mother’ s Day).Ðây là hai ngày lễ truyền thống hàng năm của người Hoa Kỳ để vinh danh và biểu tỏ lòng biết ơn đối với Cha Mẹ, những người đã có công sinh thành dưỡng dục các con khôn lớn thành người.
        Tục ngữ  Việt Nam có câu: “Nhập gia tùy tục”, người Việt nam sau 36 năm sống trên  đất nước quê người, chúng ta đã hội nhập và làm quen dễ dàng với hai ngày lễ của Cha và của Mẹ  của người bản xứ. Ðó là điều tự nhiên. Là vì dù khác biệt văn hoá và luân lý, song dân tộc Hoa Kỳ và dân tộc Việt Nam, cũng như mọi dân tộc khác trên thế giới đều là con người và đều được tác tạo theo quy luật truyền sinh tự nhiên của Thượng Ðế, từ Cha Mẹ sinh ra. Sự  tác tạo này cho thấy mối liên hệ máu thịt giữa cha mẹ và con cái, dẫn đến một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả: Tình mẫu tử và phụ tử. Một tình cảm vô điều kiện và vô vị lợi, chỉ cho đi mà không cần đáp trả. Một tình cảm mà thực tế  đã thể hiện  qua công lao dưỡng dục, tình yêu thương và sự hy sinh quên mình, đôi khi hy sinh cả mạng sống vì sự sống của con và cho hạnh phúc của con, nơi các bậc cha mẹ chân chính.
       Ðể đáp lại, dù không tương xứng, những người con thường cố gắng thể hiện tình yêu thương, tôn kính và biết ơn cha mẹ bằng những việc làm cụ thể cốt làm vui lòng Cha Mẹ. Chẳng hạn trong ngày Lễ Mother’s Day hay Mother’ s Day, người Hoa Kỳ có thói quen mua quà tặng hay mời Cha Mẹ đi ăn những của ngon vật lạ ở các nhà hàng  hay ở nhà với những món ăn đặc biệt Cha Mẹ vốn ưa thích. Còn người Việt nam nói riêng, người Á Ðông nói chung thì đạo hiếu đối với Cha Mẹ được thể hiện cụ thể không chỉ một ngày mà kéo dài cả một đời, trong việc giúp đỡ, vâng lời Cha Mẹ lúc còn trẻ và phụng dưỡng Cha Mẹ lúc tuổi già. Vì thế tục ngữ Việt nam có câu “Trẻ cậy cha, già cậy con” để nói lên mối quan hệ hai chiều giữa cha mẹ và con cái.
         Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, với những phát minh khoa học trên lãnh vực truyền sinh, đã có nhiều e ngại rằng, mối quan hệ nhân bản và tình  nghĩa thiêng liêng cao cả giữa cha mẹ và con cái có thể bị phá vỡ, nếu  xã hội không ngăn cấm tuyệt đối việc tạo ra con người trong ống nghiệm. Nghĩa là các thai nhi không phải là kết tinh trong cung lòng người mẹ do tình yêu thương giữa cha mẹ, mà kết tinh trong ống nghiệm bằng tinh trùng  nam kết tinh với noãn sào nữ mà tạo ra. Mặc dầu đây không phải là một hành vi “Cướp quyền Tạo Hoá” như một số người quen gọi, mà chỉ là sự áp dụng quy luật thiên nhiên, bắt chước công thức truyền sinh, với chất liệu vẫn phải lấy từ  con người, để hình thành một thai nhi phát triển trong một môi trường có điều kiện sống như cung lòng người mẹ, để thai nhi có thể sống, phát triển đủ thời gian cất tiếng khóc chào đời.
       Thế nhưng một khi con người được tạo ra theo cách phản tự nhiện này đã cắt đứt căn cước với cha mẹ. Mất căn cuớc với cha mẹ, là phá hủy luôn mọi tình cảm thiêng liêng cao quý: Tình Mẩu Tử và tình Phụ tử. Một thứ tình cảm đã như là máu thịt của chính con người và là một trong những ý nghĩa căn bản của cuộc sống và hành phúc của con người.
       Hậu quả sẽ còn tai hại hơn nhiều, không chỉ về mặt tình cảm, mà cả về mặt luân lý, đạo đức và trật tự xã hội, nếu phát minh mới về sinh sản vô tính “Cloning” lại được cho phép ứng dụng vào việc nhân bản con người. Rất may, cho đến lúc này, lương tâm nhân loại khắp nơi và ở những vị thế lãnh đạo chính trị cũng như tôn giáo đã lên tiếng ngăn chặn kịp thời, dù đây đó vẫn có những kẻ muốn và đã sản xuất  một vài con người như những cái máy làm ra sản phẩm.
        Tựu chung, nhân ngày lễ Father’ Day hay Mather’ Day của người Hoa Kỳ, song cũng nhắc nhở người Việt chúng ta về lòng kính trọng, biết ơn đối với Cha Mẹ, những người có công sinh thành dưỡng dục ta khôn lớn thành người. Nhưng đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta về một hiểm hoạ đã và đang đe doạ có thể phá hủy tình cảm yêu thương gắn bó máu thịt giữa cha mẹ và con cái. Ðó là hiểm hoạ của việc ứng dụng một vài phát minh khoa học vào việc tạo ra con người trái với qui luật truyền sinh tự nhiên. Hiểm hoạ này đã manh nha, mà nếu những người lãnh đạo quốc gia có trách nhiệm không cảnh giác và có những biện pháp ngăn chặn kịp thời, sẽ gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, nhiều mặt cho chính con người và xã hội loài người.
                     
                     Thiện Ý
Houston, ngày 16 tháng 6 năm 2011.

Bình luận: Chính sách xâm lăng hai mặt của Trung Cộng

Bình luận:
CHÍNH SÁCH XÂM LĂNG HAI MẶT CỦA TRUNG CỘNG.

Thiện Ý
        
        Trước ngày khai mạc hội nghị Đối thoại Shangri-la 2011 ít hôm, vụ việc tầu Trung cộng cắt cáp tàu Bình Minh 02 trong lãnh hải của Việt Nam ngày 26/5 đã làm cho tình hình Biển Đông nóng lên. Trong Hội nghị này, Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt cộng Phùng Quang Thanh đã nếu sự kiện này một cách ôn hoà, có lẽ là vì sợ mất lòng quan thầy Trung Quốc, nên đã không giám tố cáo, lên án mạnh mẽ như là hành động xâm lăng trắng trợn bằng bạo lực của Trung Quốc, vi phạm chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, vi phạm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 và vi phạm bản Tuyên bố chung năm 2002 về ứng xử của các quốc gia đang có tranh chấp trong vùng biển Đông.
        Trong khi đó, cũng tại Hội Nghị Đối thoại Shangri-la 2011 này,như để làm giám tính chất nghiệm trọng của hành động cắt cáp tàu Bình Minh 02 trong lãnh hải của Việt Nam ngày 26/5, trong phát biểu Bộ trưởng Quốc phòng Trung cộng  Lương Quang Liệt đã coi biến cố này chỉ là chuyện bình thường để bảo vệ cái gọi là “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trong vùng Biển Đông”, tương tự như các hành động ngang ngược của Trung Quốc trước đây từng tấn công,sát hại, bắt giữ các ngư phủ Việt Nam khi họ đang đánh bắt cá trong vùng biển của Việt Nam. Để che dấu bộ mặt thật hiếu chiến của chính quyền Trung Quốc, ông ta nói: "Nhiều người đang có xu hướng tin rằng sự tăng trưởng kinh tế, cùng với sự phát triển của quân đội Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa quân sự. Tuy nhiên, Trung Quốc tuân thủ chính sách quốc phòng tự vệ. Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ hay đe dọa bất cứ nước nào".
         Thế nhưng, bộ mặt xâm lược, hiếu chiến của Trung Quốc một lần nữa đã bị bóc trần trước công luận quốc tế, khi chỉ sau Hội Nghị Đối Thoại Shangri-la 2011  ít ngày và chỉ hai tuần sau sự kiện tầu Bình Minh -2 , vào lúc 6 giờ sáng ngày 9-6-2011, trong khi tàu Viking 2 thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) đang tiến hành thăm dò địa chấn 3D trong khu vực thềm lục địa Việt Nam thì bị một  tàu hải giám Trung Quốc với sự yểm trợ 2 tàu ngư chính lao vào cắt cáp.
         Đứng trước những hành động xâm lược trắng trợn mới nhất nhưng chưa phải là sau cùng này của Trung Quốc,  đã tự tố giác những lời phát biểu bịp bợm của Bộ Trưởng Quốc Phòng nước này: rằng sự tăng trưởng kinh tế, cùng với sự phát triển của quân đội Trung Quốc sẽ (không) mà thực sự đã trở thành mối đe dọa quân sự không riêng gì đối với Việt Nam mà cho cả các quốc gia đang có tranh chấp trong Biển Đông cũng như các quốc gia khác trong vùng Châu Á Thái Bình Dương.Và rằng Trung Quốc không hề thực hiện “chính sách quốc phòng tự vệ” như họ rêu rao mà là đã và đang thực hiện “chính sách quốc phòng xâm lược mở mang bờ cõi”  để thực hiện chủ nghĩa Đại Hán, bá quyền, nên luôn  là mối đe dọa bất cứ nước nào trong vùng và  là hiểm hoạ chung cho hoà bình thế giới.
        Để thực hiện mục tiêu bất chính và ý đồ đen tối trên đây đế quốc Trung cộng đã và đang tiến hành chính sách hai mặt:Kiên định về chính trị,uyển chuyển trong chính sách ngoại giao lừa mị, để che đậy hành động xâm lược quân sự lấn chiếm từng bước Việt Nam và các nước trong vùng.
      Trung cộng kiên định về chính trị bằng việc xác định “chủ quyền không thể tranh cãi về lãnh thổ, lãnh hải” , với các quyết định pháp lý, hành chánh đơn phương, căn cứ trên các tài liệu lịch sử, pháp lý, hành chánh ngụy tạo; song song với chính sách ngoại giao uyển chuyển lừa mị, để được cộng đồng thế giới tin rằng Trung Quốc hiếu hoà,luôn tuân thủ luật pháp quốc tế và chủ trương giải quyết mọi tranh chấp lãnh thổ lãnh hải với các lân bang một cách hoà bình. Mặt khác, ỷ vào ưu thế quân sự, Trung Quốc tiến hành các hoạt động xâm lấn từng bước lãnh thổ lãnh hải lân bang bằng bạo lực theo kiểu “Tằm ăn rỗi” và biện minh cho hành động này chỉ là để xác nhận “chủ quyền không thể tranh cãi” đã được kiên định về mặt chính trị.
       Mục tiêu sau cùng mà Trung Quốc muốn thành đạt bằng chính sách xâm lược hai mặt này là lấn và chiếm từng phần bằng bạo lực và thiết lập chủ quyền vĩnh viễn trên các phần lãnh thổ, lãnh hải và các hải đảo đã lấn chiếm được. Bởi vì Trung Quốc tin rằng, do có ưu thế trong một tương quan lực lượng quân sự không cân sức với các nước trong vùng hiện nay, Việt Nam nói riêng cũng như các nước khác sẽ không đủ khả năng ngăn chặn, hay đánh chiếm lại các phần lãnh tổ, lãnh hải và hải đảo đả bị Trung Quốc xâm lấn. Và như thế sự xâm chiếm của Trung Quốc sẽ là vĩnh viễn như tiền lệ từng xẩy ra trước đây ở một số nước, tiêu biểu như quần đảo Kurins của Nhật bị Nga chiếm đóng, sau Thế Chiến II chấm dứt, đến nay vẫn chưa lấy lại được, dù chỉ là chế độ ủy trị, cho dù ngày nay Nhật đã là một cường quốc hàng đầu thế giới và nhiều lần thương thảo vớ Nga xin chuộc lại vẫn không thành…
        Biết được ý đồ và mục tiêu chính sách xâm lược hai mặt trên đây của đế quốc Trung cộng, vấn đề đặt ra là Việt Nam, cụ thể trước mắt là nhà cầm quyền Việt cộng hiện nay, với trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ lãnh hải của Tổ Quốc Việt Nam phải có đối sách như thế nào để làm thất bại chính sách xâm lược hai mặt này của Trung cộng?
       Thực tế chưa có câu trả lời. Quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước đang phẫn nộ và thất vọng trước cách ứng xử lung túng, nhu nhược của nhà cầm quyền Việt cộng trước các hành động của Trung cộng ngang nhiên xâm lấn từng bước lãnh thổ, lãnh hải và hải đảo của Tổ Quốc Việt Nam. Tất nhiên, thất vọng nhưng không buông suôi, Quốc Dân Việt Nam đã và đang làm tất cả những gì có thể làm được để đập tan cuồng vọng xâm lăng của Đế quốc Trung Cộng, trước mắt cũng như lâu dài, để vệ  sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải của Tổ Quốc Việt Nam.
   Thiện Ý
Houston, ngày 13-6-2011    
      

Bình luận:Trung cộng xâm lăng,Việt cộng bất lực, quốc dân Việt Nam phải làm gì?

Bình luận:
TRUNG CỘNG XÂM LĂNG, VIỆT CỘNG BẤT LỰC, QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI LÀM GÌ?

Thiện Ý
       
         Như mọi người đã biết, trong nhiều năm qua, nhà cầm quyền Trung Cộng đã nhiều lần ra những quyết định pháp lý, hành chánh và bằng hành động quân sự bạo lực xâm chiếm nhiều vùng lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam, vi phạm trắng trợn chủ quyền quốc gia Việt Nam và vi phạm công ước quốc tế cũng như các hiệp định song phương về biên giới lãnh thổ và lãnh hải giữa hai nước Việt Trung đã ổn cố và được tôn trọng từ hàng thế kỷ qua.
           Hành động xâm phạm mới nhất, nhưng chưa phải là vi phạm cuối cùng, là vào sáng ngày 26-5-2011, ba tàu hải giám của Trung cộng đã bao vây, uy hiếp, cắt giây cáp và phá hủy dụng cụ thăm dò của tàu Bình Minh 02 thuộc công ty dầu khí Việt Nam đang làm nhiệm vụ tại vùng biển cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý. Đây là hoạt động trong vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế, trong thềm lục địa của Việt Nam, theo đúng các quy định của Công ước quốc tế 1982 về Luật biển.
        Đứng trước quốc nạn trên, quốc dân Việt Nam yêu nước trong cũng như ngoài nước đều phẫn nộ và rộn lên trong lòng tiếng réo gọi của Hội Nghị Diên Hồng năm xưa “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến”, “hận thù đằng dằng đằng, biên thùy rung chuyển”…
        Trong khi đó, nhà cầm quyền Việt cộng đã tỏ ra lung túng, sợ hãi, bất lực trước hành động xâm lăng trắng trợn mới nhất này, cũng như nhiều hành động xâm lược trước đây của quan thày Trung Cộng, chỉ vì sợ mất lòng, mất chỗ dựa cho sự củng cố và kéo dài quyền thống trị độc tôn, độc tài toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam.
        Bằng chứng của sự sợ hãi là ngày 27-5-2011, tức một ngày sau sự kiện xâm lăng  xẩy ra,  tạp chí Cộng sản điện tử đã đưa hai tin “Tàu hải giám Trung Quốc vi phạm lãnh hải Việt Nam “Trung Quốc phải bồi thường thiệt hại cho Việt Nam .”  Nhưng chỉ sau đó vài giờ hai bản tin trên đã bị bóc khỏi tờ Tạp chí Cộng sản -cơ quan ngôn luận của Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN. Đồng thời, tờ điện tử Quân đội Nhân dân (cơ quan ngôn luận của Quân uỷ Trung ương và bộ Quốc phòng Việt cộng) và tờ Nhân dân (cơ quan ngôn luận trung ương của đảng CSVN) trong suốt hai ngày 27 và 28-5 đã hoàn toàn im lặng, không đưa tin về việc xâm phạm chủ quyền VN và tấn công ngang ngược của các tầu hải quân Trung quốc. Rốt cuộc cho đến nay Việt cộng vẫn chỉ dám phản ứng chiếu lệ, yếu ớt bằng một công bố phản kháng của Bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam.
         Trong khi đó, quốc dân Việt Nam trong và ngoài nước đã phẫn nộ bầy tỏ sự phản kháng mạnh mẽ Trung cộng khắp nơi. Mặc dầu nhà cầm quyền Việt cộng bằng mọi cách ngăn cản, nhưng các cuộc biểu tình lớn vào Chủ nhật 5-6 vừa qua ,với sự tham dư đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân đã nổ ra ở Hà Nội và Sàigòn, tuần hành qua các đường phố quanh Đại sứ quán Trung cộng ở Hà Nội và Lãnh sự quán Trung cộng tại Sàigòn, với các biểu ngữ và hô vang các khẩu hiệu tố cáo và lên án hành động xâm lược lãnh thổ lãnh hải Việt Nam của Trung cộng. Vì có sứ ngăn cản quyết liệt của lực lượng công an chìm, nổi, để bảo vệ những hang ổ của nước xâm lược, nên các đoàn biểu tình đã không tiếp cận được với Đại sứ quan và lãnh sự quán Trung Cộng ở Hà nội cũng như Sàigòn; Và cũng vì các biện pháp ngăn chặn trước bằng sự đe doạ kỷ luật nội bộ đối với các công nhân viên và đuổi học các sinh viên học sinh nào tham gia biểu tình chống Trung cộng, nên số người tham gia bị giới hạn và lực lượng thanh niên sinh viên học sinh vốn là chủ lực đã đã không huy động được tối đa.
         Quốc dân Việt Nam bất bình tự hỏi: Vì sao đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tỏ ra “Hèn với giặc, ác với dân” như thế? Phải chăng cũng vì hèn  với giặc, nên  trước hành động giặc xâm lược lãnh thổ, lãnh hải mới nhất, lực lượng hải quân và không quân Việt cộng đã không dám can thiệp kịp thời, khi cuộc tấn công của 3 tầu hải quân Trung quốc đã diễn ra suốt 4 tiếng đồng hồ, từ 5 giờ tới 9 giờ sáng ngày 26.5? Phải chăng các lực lượng quân sự này đã không được sự cho phép của  cơ quan có trách nhiệm bảo vệ an toàn lãnh thổ theo tổ chức của chế độ độc tài đản trị hiện nay là  Quân Ủy Trung Uơng, mà lãnh đạo chóp bu là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, kiêm Bi thư Quân Ủy và Bộ Trưởng Quốc Phòng  Phùng Quang Thanh, Phó bí thư Quân Ủy Trung Ương?
          Vậy thì, trước hành động xâm lăng ngày một leo thang, với ý đồ mở mang bờ cõi, thực hiện chủ nghĩa đại Hán bá quyền vốn có từ ngàn xưa của các nhà cầm quyền Trung Quốc, vấn đề đặt ra cho quốc dân Việt Nam, những thừa kế chính danh và là sở hữu chủ thực sự mọi di sản của tiền nhân, trong đó có lãnh thổ, lãnh hải của Tổ Quốc, cần làm gì và có thể làm gì cấp thời và trong lâu dài?
      Về cấp thời, thiết tưởng quốc dân Việt Nam, các tổ chức chính trị, xã hội trong cũng như ngoài nước có thể làm như đã từng làm, là phát động các cuộc biểu tình, hội thảo liên tục trong nhiều ngày, lập kiến nghị, ra thư phản kháng gửi đến tổ chức Liên Hiệp Quốc và chính phủ các quốc gia hội viên, để  cực lực lên án và tố cáo trước công luận quốc tế, hành động xâm lược leo thang của Trung Quốc, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc là một hội viên có trách nhiệm phải tuân thủ.
        Đồng thời, đòi hỏi nhà cầm quyền Việt cộng, với  trách nhiệm bảo vệ đất nước, phải thực hiện kịp thời mọi đối sách chính trị, ngoại giao, quân sự cần thiết, triệt để và kiên quyết trước các hành động xâm lăng trắng trợn gia tăng theo thời gian của nhà cầm quyền Trung Quốc.
        Trước mắt chính quyền Việt cộng cần mau chóng đưa những vi phạm chủ quyền lãnh thổ lãnh hải Việt Nam, vi phạm luật quốc tế  xẩy ra liên tục của Trung Quốc, ra trước Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, các cơ quan tài phán hay trọng tài quốc tế có thẩm quyền, để giải quyết tranh chấp một cách hoà bình theo tinh thần Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và bản Tuyên bố chung năm 2002 về ứng xử của các quốc gia đang có tranh chấp trong vùng biển Đông.
        Về lâu về dài, quốc dân Việt Nam cần thông qua các chính quyền hợp pháp, chính đáng, độc lập tự chủ của mình, hoạch định chiến lược lâu dài để đòi lại các phần lãnh thổ lãnh hải đã bị ngoại bang dùng bạo lực xâm chiếm khi có diều kiện thuận lợi. Nội dung chiến lược này  sẽ đề ra được các phương cách khả thi, hữu hiệu trên bình diện pháp lý cũng như quân sự.
         Như vậy, để có được chiến lược lâu dài này, điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải có một chính quyền hợp pháp, chính đáng, độc lập tự chủ. Hiện tại Việt Nam không có một chính quyền hội đủ các tính chất này, mà chỉ có một chính quyền Việt Cộng, hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang đang có tham vọng xâm lược Việt Nam là Trung Cộng.
         Vì vậy nỗ lực chung của quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước trước mắt vẫn phải là tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh để sớm hoàn thành mục tiêu dân chủ hoá đất nước. Vì chỉ khi đó, Việt Nam mới có được một chính quyền hợp pháp, chính đáng, độc lập tự chủ, Đó mới là chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, sẽ đoàn kết thống nhất được toàn lực quốc gia, tập trung được sức mạnh toàn dân tộc để bảo vệ Tổ Quốc hữu hiệu và xây dựng, phát triển toàn diện đất nước đến  giầu mạnh, theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại.

Thiện Ý
Houston, 6-6-2011