Thursday, December 20, 2018

Đôi điều suy tư về mầu nhiệm Giáng Sinh


Đôi điều suy tư về mầu nhiệm Giáng Sinh


Cây thông giáng sinh.
Ðêm 24 rạng ngày 25-12 hàng năm cũng như năm nay 2018, tại thành phố Houston này, cũng như đêm qua, đêm mai tại những vùng đất có dân cư ở những múi giờ khác nhau trêm mặt địa cầu, con người nói chung, các tín đồ Thiên Chúa Giáo nói riêng, bằng nhiều hình thức, nghi lễ khác nhau, với tâm tình khác nhau, đã, đang và sẽ đón mừng kỷ niệm ngày Giáng Sinh lần thứ 2018 của một con người siêu phàm, có tên là Giêsu, đã xưng mình và đã minh chứng Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Như vậy, Giáng Sinh đã là một sự kiện và là một biến cố có thật trong lịch sử nhân loại, mang ý nghĩa lịch sử bên cạnh ý nghĩa mầu nhiệm tôn giáo nói chung, của Thiên Chúa giáo nói riêng.
Là một sự kiện có thật, vì quả thật trong lịch sử nhân loại đã có một con người siêu phàm tên là Giêsu sinh ra cách nay 2018 năm, trong một máng cỏ nơi một hang đá dành cho bò lừa trú ngụ, vào một mùa đông giá lạnh. Hang đá ấy có tên là Bê-lem(Bethlem), miền Giu-đê thuộc nước Do Thái cổ xưa, dưới thời đế quốc La Mã thống trị, nay cũng đã và đang diễn ra tranh chấp đẫm máu giành quyền làm chủ giữa hai dân tộc Israel và Palestin.
Là một biến cố có thật, vì sự xuất hiện của con người phi phàm Giêsu, đã làm cho vua Hê-rô-đê (Herode) lo sợ mất quyền bính, nên đã ra lệnh sát hại hàng ngàn sinh linh trẻ thơ vô tội. Biến cố ấy đã được lịch sử ghi nhận và thực tiễn đã làm thay đổi tư duy, đời sống con người và bộ mặt thế giới. Biến cố ấy cũng đã được con người chọn làm mốc thời gian năm tháng cho cuộc sống (Dương lịch). Nhưng điều hệ trọng hơn là sự kiện và biến cố ấy đã mang một ý nghĩa mầu nhiệm (miraculous) của đức tin tôn giáo, được thể hiện qua các hiện tượng lạ phát sinh từ và chung quanh con người siêu phàm mang tên Giêsu ấy.
Là một mầu nhiệm, vì để hiểu, biết và tin sự kiện “Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần Cứu Chuộc nhân loại” là sự thật, con người không thể bằng tầm tri thức hữu hạn (đức lý), mà cần được trang bị bằng “cặp mắt đức tin” thuộc phạm trù tôn giáo.
Thật vậy, với tầm tri thức hữu hạn, con người làm sao có thể hiểu được và chấp nhận một hài nhi bé nhỏ, sinh ra trong cảnh nghèo hèn, bởi một trinh nữ có tên là Maria, sống chung mà không phải vợ chồng, với một người bạn có chung niềm tin, làm nghề thợ mộc có tên là Giuse. Nghĩa là Hài Nhi Giêsu ấy, đã được thụ thai trong cung lòng Trinh Nữ Maria bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (mà ngày nay khoa học đã chứng minh được qua sự thụ thai không chỉ qua giao hợp lưỡng tính) và Hài Nhi ấy sau này lại xưng mình là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc nhân loại, đã làm nhiều phép lạ cả thể, nhất là những phép lạ xẩy ra vào ba năm cuối đời đi rao giảng Tin Mừng và mạc khải cho loài người về Thiên Chúa và Ơn Cứu Ðộ. Sau cùng đã hoàn tất chương trình cứu độ bằng một cái chết treo khổ nhục trên thập tự giá vào tuổi 33, để rồi sau ba ngày Ðức Giêsu đã sống lại và lên Trời trước mặt nhiều người đương thời.
Những người chứng kiến các phép lạ xảy ra từ và chung quanh con người phi phàm Giêsu có thể biết và tin vào mầu nhiệm Giáng Sinh, song chỉ là số ít. Còn biết bao người đương thời, cũng như con người các thời đại sau này không được tận mắt chứng kiến các phép lạ thì sao?
Hiển nhiên khó mà có lòng tin vào Mầu Nhiệm Giáng Sinh cũng như các mầu nhiệm khác thuộc quyền năng của Thượng Ðế. Tuy nhiên đây chỉ là nói theo luận lý thông thường của tầm tri thức hữu hạn của con người. Ngoài tầm tri thức hữu hạn này, con người còn tiềm ẩn một khả năng vượt trội, siêu hình, đó là Ðức Tin, một khi được khơi động sẽ có thể hiểu biết và cảm nghiệm được mọi mầu nhiệm trong thế giới siêu hình vô hạn. Các tín đồ có niềm tin nơi Thượng Ðế, chính là những con người được trang bị “cặp mắt Ðức Tin” tôn giáo, đễ có thể nhận thức được những gì vượt tầm tri thức hữu hạn của con người.
Hiện tại, sau 2018 năm Hài Nhi Giêsu ra đời, đã có hàng tỉ nhân loại tin vào ơn Cứu Ðộ qua mầu nhiệm Giáng Sinh của Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần cứu chuộc nhân loại. Bằng niềm tin này, người ta có thể lý giải dễ dàng những sự kiện siêu tự nhiên từ một căn bản: Nếu đã tin và chấp nhận một tiền đề Thượng Ðế Toàn Năng đã tác tạo vũ trụ vạn vật và cho nó vận hành theo những quy luật riêng cho từng loài và quy luật chung cho mọi loài, thì không có gì Thượng Ðế không làm được.
Một điển hình, nếu ngày nay con người đã có thể bắt chuớc quy luật cấu tạo con người của Thượng Ðế (chứ không phải “cướp quyền” Thượng Đế) bằng cách lấy chất liệu từ con người vốn là vật thụ tạo của Thượng Ðế, cho thụ thai trong ống nghiệm có điều kiện môi sinh như trong cung lòng người nữ; hay cho thụ thai trong chính cung lòng người nữ, thì đối với quyền năng Thượng Ðế, việc thụ thai của Hài Nhi Giêsu trong cung lòng trinh nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần vào 2018 năm trước đây, là điều hiển nhiên, không có gì phải tranh luận. Trinh Nữ Maria sau khi sinh Hài Nhi Giêsu vẫn còn đồng trinh là hệ quả tất nhiên do cách thụ thai ngoài sự giao hợp lưỡng tính thông thường cũng là điều hiển nhiên không cần biện giải.Vì các tín điều tôn giáo nói chung, Thiên Chúa giáo nói riêng như những định đề toán học không thể chứng minh và không cần chứng minh (Như định đề Euclide: Từ một điểm, ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ một đường thẳng thẳng góc hay hay song song với đường thẳng ấy” chẳng hạn). Nhưng tin hay không tin và chọn niềm tin tôn giáo nào là quyền tự do của con người không thể áp đặt.
Ðến đây vấn đề chỉ còn là mỗi con người có chấp nhận mầu nhiệm Giáng Sinh cũng như các mầu nhiệm khác của Thượng Ðế hay không. Vì đó là quyền tự do lựa chọn của mỗi con người, mà chính Thượng Ðế đuợc tin là Ðấng sáng tạo ra con người, vạn vật, vũ trụ… cũng phải tôn trọng tuyệt đối quyền tự do của con người, kể cả quyền chối bỏ hay chống lại Thượng Đế. Bởi vì chỉ với quyền tự do tuyệt đối, con người mới chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình và Thượng Ðế mới có dữ kiện xét thưởng phạt công minh về các hành vi công phúc hay tội lỗi mỗi con người khi còn sống, sau cái chết, trở về với cát bụi.
Một so sánh cụ thể và tương đối về vai trò của Thượng Ðế có thể ví như người thợ nặn tượng sau khi bán một bức tượng cho người mua, người này có toàn quyền xử dụng tự do bức tượng theo ý muốn. Người xử dụng bức tượng chỉ có hai lựa chọn khi bức tượng cũ hay hư hỏng, nếu muốn tu bổ để tiếp tục xử dụng sẽ tìm đến người thợ nặn tượng nhờ thực hiện, hoặc vứt bỏ bức tượng đó đi. Theo niềm tin tôn giáo nơi Thượng Ðế cũng vậy, một khi tạo ra thân xác con người theo quy luật truyền sinh, là trao cho linh hồn quyền tự do tuyệt đối trong việc xử dụng thân xác. Linh hồn có thể nuôi dưỡng, tu bổ thân xác độc lập tự chủ hay chậy đến cậy nhờ Thượng Ðế giúp sức (cầu nguyện…), hoặc tự hủy thân xác (tự tử, tai nạn…) là quyền tự do lựa chọn của mỗi con người. Thượng Ðế sẽ chỉ xét đoán, định công, tội nơi mỗi con người sau cái chết để được tái sinh trong “Nước Hằng Sống” cực lạc (Thiên đàng) hay nơi cực khổ đời đời (Hoả Ngục đời đời).theo niềm tin Thiên Chúa giáo.
Là những người có niềm tin nơi Thượng Ðế, đôi điều suy tư trên đây về mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng tôi chỉ muốn xác tín rằng: Hơn 2018 năm trước đây, quả thật đã có một Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Trần, thực hiện sứ mạng cứu chuộc con người khỏi tội nguyên tổ, tạo điều kiện cho con người tái sinh trong nước hằng sống. Nếu không có sự Giáng Sinh này, số phận con người đã khác, chắc chắn là bi thảm hơn nhiều.
Ðể cảm tạ và tri ân Thượng Ðế, đêm nay cũng như đêm qua và đêm mai, nơi các giáo đường khắp nơi trên mặt địa cầu, những con người có chung niềm tin vào mầu nhiệm Giáng Sinh đều cất cao lời ca chúc tụng, bằng mọi ngôn ngữ khác biệt của loài người. Chúc tụng và ngợi ca ơn Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng trần cứu độ muôn dân, đem an bình, ơn phúc và yêu thương đến cho mọi người thiện tâm, mọi dân tộc thiện chí qua các thời đại hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế.Đúng như lời chúc mừng và ngợi ca Thiên Chúa của Thiên Thần vào đêm Chúa ra đời cách nay hơn 2018 năm:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người thiện tâm”

Thiện Ý
Giáng sinh 2018

THÂN PHẬN NGHIỆT NGÃ CỦA TRÍ THỨC TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.



THÂN PHẬN NGHIỆT NGÃ CỦA TRÍ THỨC TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

Thiện Ý.

Trong bữa ăn họp mặt hậu Lễ Tạ Ơn (Thankgiving Day) ở Hoa Kỳ trưa Chủ nhật 25-11-2018 tại nhà luật sư Ngô H. L. ở Houston, anh em có nhắc đến bài viết “Vai trò của trí thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của người viết mới đăng trên mục “Diễn đàn” của VOA. Nhân dịp này luật sư L. có đề cập đến gia đình người cháu gái họ Ngô điển hình là một gia đình trí thức xã hội chủ nghĩa từ đầu đến chân. Sau đó kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời gian chuân của cặp vợ chồng gốc bác sĩ tốt nghiệp ở Liên Xô này, trước khi đến và lập nghiệp ở Đức. Hiện cặp vợ chồng này đã bỏ nghề y từ lâu, và có việc làm mới chẳng liên quan gì đến việc học hành và làm việc tại Liên Xô.
Bài viết này chỉ là sự tường thuật lại một chuyên thật đời người của một cặp vợ chồng trí thức XHCN, tiêu biểu cho “Thân phận nghiệt ngã của trí thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nói chung.
I/- THÂN PHẬN NGHIỆT NGÃ  CỦA CẶP VỢ CHỒNG TRÍ THỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
Theo lời kề của luật sư L. thì sau hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, dòng tộc họ Ngô kẻ ở lại, người di cư vào Miền Nam. Cha của người cháu gái là anh họ của luật sư L. Người anh này khi đó là một trí thức tiểu tư sản, đã chọn ở lại Miền Bắc, có lẽ vì lúc đó người anh không muốn rời bỏ sản nghiệp gia đình là nhiều căn nhà cho thuê ở Hà Nội, để di cư vào Miền Nam. Và cũng có lẽ ông không biết rằng dưới chế độ cộng sản hay xã hội chủ nghĩa sau này, những căn nhà cho thuê ấy cũng không còn giữ được làm phương tiện giai cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản là người thuê ?
Quả vậy, sau khi “tiếp thu” Hà Nội, Ông Hồ Chí Minh và đảng CS VN đã áp đặt chế độ xã hội chủ nghĩa trên toàn Miền Bắc. Nhà cầm quyền xã hội chủ nghĩa Miền Bắc đã nhanh chóng phát động và tiến hành công cuộc cải tạo toàn diện các giai cấp đối kháng với chủ nghĩa xã hội. Song song với việc cải tạo nông nghiệp qua các cuộc đấu tố dã man “long trời lở đất” những người bị quy kết là giai cấp“địa chủ, cường hào, ác bá” ở nông thôn; là cải tạo công, thương nghiệp, tư bản tư doanh triệt để ở các thành thị. Trong đợt cải tạo này, gia đình người anh họ Ngô với luật sư L. mất các căn nhà cho thuê. Cá nhân người anh thì thuộc diện gốc “trí thức tiểu tư sản” và “tư bản dân tộc” (khác với tư sản mại bản dính dáng với nước ngoài) không thuộc đối tượng kết nạp vào đảng cộng sản để tiến thân.
Phần cháu gái Ngô T. N. sinh năm 1965 là sinh trong chế độ XHCN nên được đào tạo từ đầu đến chân để trở thành trí thức xã hội chủ nghĩa theo đúng tiêu chuẩn của “Đảng và Nhà nước ta” là phải “vừa hồng, vừa chuyên”.Nghĩa là cũng từng là “cháu ngoan Bác Hồ” cá nhân tiên tiến hay xuất sắc khi sinh hoạt Đoàn đội trong nhà trường và sau cùng cũng được kết nạp vào đảng CSVN. Nhờ thành tích sinh hoạt đoàn đội và học văn hóa giỏi nên đã được Đảng và nhà nước tạo điều kiện cho du học Liên Xô về ngành y 7 năm tại Đại học ở Mat-Xcơ-va (Moscow). Trong thời gian học tập cháu đã gặp người chồng tương lai, cùng học chung trường, nhờ có gốc là gia đình liệt sĩ, học giỏi, thành tích hoạt động đảng đoàn tốt. Sau khi cả hai tốt nghiệp bác sĩ y khoa đã trở thành vợ chồng khi về nước.
Thời gian đầu cả hai đều được tạm tuyển làm việc ở Bệnh viện của nhà nước tại Hà Nội, để sau một thời gian sẽ được xét cho vào biên chế công nhân viên nhà nước. Sau khi nhận việc, có người đánh tiếng muốn chạy vào biên chế thì phải chấp nhận quà cáp tương đương với tiền lương 3 năm làm việc. Nghe vậy hai vợ chồng vốn được học tập ở Liên Xô “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” không khỏi kinh ngạc vì nó trái với “lý tưởng cộng sản” và “lời dạy của Bác Hồ”, trái với tinh thần “Chí công, vô tư của một đảng viên cộng sản chân chính”. Trong lòng cảm thấy bất bình và cố nén sự phẫn nộ, chỉ nhỏ nhẹ hỏi lại người môi giới đáng tuổi cha chú mình, rằng “Nếu chúng cháu đồng ý, thì gia đình chúng cháu trong ba năm đi làm sống bằng gì ạ?” Người môi giới trả lời tỉnh bơ “Thì sống bằng “phong bì” của bệnh nhân, có khi còn hậu hĩnh hơn cả lương lậu nữa các cháu à!”. Sau đó, cả hai tham khảo với bố mẹ vợ và mẹ chồng (bố chồng là liệt sĩ đã chết trong cuộc chiến). Người cha vợ (cha của cháu T.N.) thì chỉ nói tùy các con. Còn hai bà mẹ đều khuyên các con dâu rể nên chấp nhận.Vì thời buổi đâu cũng thế cả. Người ta nói sao mình làm vậy vẫn tốt hơn, nếu không thì hậu quả khó lường; có thể là phải rất lâu mới được xét cho vào biên chế hoặc không bao giờ nếu bị sa thải vì nhiều lý do. Thực tế quả không sai, khi hai vợ chồng đã không tìm gặp lại người môi giới để nhờ vả, nên coi như không chấp nhận gợi ý của người này. Thế là sau hai năm làm việc trong chế độ tạm tuyển tại Bệnh viện Hà Nội, cả hai vợ chồng bác sĩ này đều mất việc với lý do rất mơ hồ.
Sau khi mất việc, phải kiếm sống, nhờ vốn liếng tiếng Nga, người chồng đã liên lạc và được một tàu của Liên Xô cho đi lậu qua lãnh thổ Nga. Nơi đây, không thể xin hành nghề y dù có văn bằng tốt nghiệp bác sĩ của đại học y Liên Xô, do sống bất hợp pháp. Anh cháu xoay qua nghề buôn bán. Theo đó, anh mua những mặt hàng của Liên Xô có giá được ưa chuộng tại Việt Nam gửi về cho vợ đem đi tiêu thụ; rồi vợ mua gửi lại  một số mặt hàng Việt Nam có giá bên đất Liên Xô. Một thời gian sau, bạn bè cháu T. N. cảnh giác là vợ chồng trẻ xa nhau nguy hiểm lắm, có thể mất chồng như chơi. Thế là cháu N. ôm con, tìm cách “vượt biên” qua Liên Xô và đã gặp lại chồng ở đây. Sống lây lất ở nhiều nơi, hai vợ chống cháu cuối cùng đã liên lạc với bạn bè đang sống ở Mat-Xcơ-va để sau đó đến sống với họ ở khu vực tập trung người Việt mà hầu hết thuộc thành phần đi du học, trao đổi lao động, công tác đã trốn ở lại sống bất hợp pháp, làm nghề buôn bán chợ trời và các nghề linh tinh khác làm kế sinh nhai. Sau một thời gian sống cực khổ, khó khăn ở đây, vào năm 1989 khi hay tin “Bức tường Berlin sụp đổ”, nước Đức thống nhất với sự ưu thắng của chế độ Dân chủ tư bản Tây Đức đối với chế độ độc tài cộng sản Đông Đức, hai vợ chồng đã tìm cách “vượt biên’ lần thứ hai để vào đất Ba Lan - nước giáp ranh Liên Xô mà chế độ xã hội chủ nghĩa lúc ấy cũng mới sụp đổ kéo theo sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu - rồi từ Ba Lan chạy qua nước Đức thống nhất. Nhờ Trời các cuộc vượt biên đều thành công để sau cùng hai vợ chồng cùng một đứa con gái nhỏ đã đến được thành phố Stuttgart của nước Cộng hòa Liên bang Đức sau khi thống nhất. Hai năm sau vào năm 1992, vợ chồng và con gái đã được chính quyền Đức chấp nhận tư cách thường trú nhân. An tâm hai vợ chồng quyết định sinh thêm đứa con thứ hai. Giờ đây, vào năm 2018 cuộc sống gia đình vợ chồng người cháu gái họ Ngô của luật sư L. đã ổn định. Chồng trở thành Mục sư Tin Lành. Vợ là nhân viên của một cơ sở bách hóa. Hai người con nay đã lớn khôn, đều tốt nghiệp đại học Stuttgart và có công ăn việc làm tại hai công ty lớn của Đức.
Luật sư L. cho hay là trong kỳ hè vừa qua đã đi một vòng thăm anh em con cháu dòng họ Ngô ở Đức và Tiệp Khắc, một trong các nước cộng sản Đông Âu cũ đã sụp đổ.
II/- NHẬN ĐỊNH.
Qua câu chuyện thật đời người trên đây, chúng tối có một vài nhận định như sau:
1.- Quãng đời chuân chuyên của cặp vợ chồng bác sĩ, cháu của luật sư L. đã cho thấy một điển hình thân phận nghiệt ngã của những trí thức sinh trước hay sinh sau ngày đảng CSVN cướp được chính quyền trên một nửa nước Miền Bắc sau Hiệp định Genève 1954, áp đặt chế đô độc tài toàn trị XHCN.Nghĩa là dù trí thức cũ hay mới, dù có “vừa hồng, vừa chuyên” cũng không tránh được số phận bi thảm nếu không tuân phục chế độ, chấp nhận sống theo qui luật vận hành tiêu cực của cái gọi là “ chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt”.
Theo cô cháu gái nói với luật sư L. thì vợ chồng cô đã tránh được số phận nghiệt ngã, nếu như ngày ấy chấp nhận lời đề nghị của người môi giới mất 3 năm lương (theo qui luật vận hành tiêu cực xã hội) như vợ chồng hai người bạn cùng học ở Liên Xô, cùng về nước, đã chấp nhận; thì vợ chồng cô cháu gái đã được vào biên chế như họ và trở nên giầu có, danh vọng lên như diều gặp gió. Vì sau đó, vợ chồng người bạn, nhờ chức quyền, đã làm giầu rất nhanh trên quan lộ - dù bất chính, bất lương – để có được đời sống vinh thân, phì gia, cho được các con đi du học nước ngoài. Nhưng cô cháu nói, chúng cháu không hề ân hận về sự lựa chọn này. Vì thực tế hiện nay, hai người bạn chấp nhận theo qui luật XHCN lúc bấy giờ, nay lại phải sống xa các con đi du học nước ngoài, lấy vợ lấy chồng ở lại các nước sở tại. Trong khi vợ chồng người bạn thì không thể rời xa đất nước mà phải giữ lòng trung kiên với “Đảng takhông thể sốngôm chân đế quốcđược. Trong khi gia đình cháu thì đoàn tụ ở một đất nước văn minh, tự do dân chủ, nhiều cơ hội thăng tiến; cha mẹ,vợ chồng, con cái đều sống đoàn tụ, nên chưa biết ai hạnh phúc hơn ai. Phải không ạ?
2.- Tất cả những trí thức trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ là nạn nhân của lịch sử, “thời thế, thế thời phải thế”, phải chấp nhận và có cách xử thế khác nhau để tồn tại vì cuộc sống cá nhân và gia đình. Thiết tưởng, người bàng quan nên cảm thông, trân quý những trí thức xã hội chủ nghĩa “phản tỉnh” dù sớm hay muộn; mà không nên chủ quan kết án nặng nề, như một số ý kiến phản hồi dưới bài viết mới đây của chúng tôi về “Vai trò của tri thức trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”đăng tải nơi mục “Diễn Đàn” của VOA  (Xin đọc giả vào xem).
Chúng tôi nghĩ, mọi người nên đặt mình vào hoàn cảnh chẳng đặng đừng của những trí thức hay những người theo đảng CS, buộc lòng phải phục vụ chế độ, vì hoàn cảnh phải sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, không có cơ hội chọn lựa khác hơn,  để cảm thông, thán phục sự chịu đựng của họ; dù từ lâu họ cũng biết được những sai trái của chế độ; biết sự hiện thực chủ nghĩa xã hội chỉ là không tưởng (lý tưởng thì cao đẹp, nhưng tuyệt đối không thể, không bao giờ thực hiện được). Thế nhưng họ vẫn phải nhẫn nhục sống một thời gian lâu dài dưới chế độ này. Điển hình trường hợp của tôi, trước khi Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, khi đó cha tôi (Giáo Tiến) đang hoạt động chống Pháp trong phong trào công nhân ở đồn điền Cao su Hớn Quản, Quản Lợi ở Miền Nam, viết thư về nói mẹ con tôi cứ ở lại Miền Bắc đợi cha tôi trở về, vì “nước nhà sắp độc lập”. Nếu giả như mẹ tôi nghe lời, ở lại Miền Bắc không đem tôi di cư vào Miền Nam, thì sau đó chắc là tôi cũng được giáo dục học tập để trở thành một trí thức xã hội chủ nghĩa như bao người. Trong hoàn cảnh này, tôi cũng phải sống trong chế đô XHCN, phải chọn lựa theo hai cách ứng xử khác nhau như giữa hai cặp vợ chồng bác sĩ cùng tốt nghiệp ở Liên Xô trong câu chuyển kể, phải không ạ?
3.- Khi chúng tôi ngồi viết bài này, thì tin truyền thông cho hay, Tổng Bí thư đảng CSVN kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong buổi tiếp xúc cử tri ở Hà Nội hôm thứ Bảy 24-11-2018, đã nói về Giáo sư Chu Hảo, một trí thức lớn XHCN và là một trong những trí thức công thần của chế độ bị kỷ luật khai trừ khỏi Đảng. Ông nói đây là một biện pháp cần thiết để chống lại quá trình “tự diễn biến, tự chuyển hóa” gây nguy hại cho an ninh chính trị đất nước. Và rằng hình thức kỷ luật này là để “cứu muôn người.”. Người viết muốn đưa ra vài nhận xét rằng Ông Tổng Trọng nói đúng mà không đúng. Vì sao?
Ông Tổng Trọng nói đúng là việc khai trừ Giáo sư Chu Hảo khỏi đảng là biện pháp cần thiết để chống lại quá trình “tự diễn biến, tự chuyển hóa” đang ngày càng lan rộng trong nội bộ “Đảng ta” nhất là giới trí thức, không phải mới đây mà đã từ lâu rồi. Chẳng qua vì muốn bảo vệ cuộc sống trước cường quyền, họ phải cam chịu “giả mù sa mưa”, “giả câm giả điếc” để qua cầu thế thôi!
Và rằng hình thức kỷ luật này là để “cứu muôn người” cũng đúng luôn. Nhưng phải hiểu “cứu muôn người” ở đây không phải là cứu nhân dân, mà là cứu “muôn người đảng viên cộng sản chí cốt”.Nghĩa là “muôn người” mà ông Tổng Trọng muốn cứu chỉ là thiểu số “muôn người” trong số 4 triệu đảng viên CS trên danh nghĩa” còn gắn bó với ông tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chính ông cũng hoài nghi đến cuối Thế kỷ này không biết đã có xã hội chủ nghĩa hay chưa.
Trong khi đa số hàng triêu đảng viên CS, hàng đầu là các trí thức đảng viên CS như giáo sư Chủ Hảo, thì từ lâu đã hoài nghi về sự hiện thực chủ nghĩa xã hội, đã “phản tỉnh” mà còn giấu mặt (vì quyền lợi và an toàn cá nhân, gia đình trong cuộc sống…), đã “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Trong thâm  tâm họ đang đồng cảm với 90 triệu nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại về kết cuộc tiến trình “tự diễn biến” ấy sẽ giết chết “muôn người” (là đảng viên CS ngoan cố như Ông) mà ông muốn cứu cũng không cứu được đâu. Chính kết cuộc này sẽ cứu hàng triệu nhân dân Việt Nam thoát ách độc tài toàn trị cộng sản để thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, tái lập quyền làm chủ thật sự của nhân dân, vốn bị đảng CSVN tước đoạt và chà đạp trong nhiều thập niên qua.
III/- KẾT LUẠN.
Xin được lưu ý Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về tiến trình “tự diễn biến, tự chuyển hóa là một tiến trình có thật, đã và đang diễn ra và không thể đảo ngược; với kết cuộc đã là một tất yếu, không thể cưỡng lại được đâu. Vì nó phù hợp với xu thế thời đại và chiếu hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam, đáp ứng đúng nguyện vọng thiết tha bao lâu nay của tuyệt đại đa số quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Người dân tự hỏi, năm nay Ông Tổng đã 74 tuổi (tuổi con khỉ 1944, hơn tôi 1 tuổi 1945 là tuổi con gà), cái tuổi “gần đất xa trời”cả rồi. Thử hỏi liệu ông Tổng còn thời gian bao lâu nữa (trước khi đi gặp Bác Hồ và các cụ tổ Mác-Lê) để mà chống đỡ cho sự tồn tại của một chế độ xã hội chủ nghĩa không tưởng, lỗi thời, đã sụp đổ hầu hết trên hành tinh này; trong đó có “tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô” đã phải chuyển đổi hòa bình qua chế độ dân chủ pháp trị  gần 3 thập niên rồi (1991- 2018) . Ông Tổng có thấy không, mà sao vẫn còn ngoan cố bám lấy “cái vỏ xã hội chủ nghĩa không tưởng” lâu quá vậy, thưa Ông Tổng?
Thiện Ý
Houston, 9-12-2018

Wednesday, December 12, 2018

Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền, nhớ lại…

Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền, nhớ lại…

10/12/2018

Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Thiện Ý

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền Việt Nam 1977 do người viết khởi thảo theo yêu cầu của Mặt trận Nhân quyền Việt Nam, một tổ chức đấu tranh cho nhân quyền được thành lập và hoạt động rất sớm, sau ngày cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam (1976-1978). Sau khi bị bắt cầm tù, chấp pháp công an của chế độ đã yêu cầu viết lại, cùng với các tài liệu khác do chúng tôi viết (1). Do thực tế lúc bấy giờ, truyền thông chưa có internet, thông tin bị khép kín, nên bản Tuyên ngôn nhân quyền này không được phổ biến rộng rãi ở trong nước cũng như hải ngọai; mà chỉ bí mật phổ biến truyền tay các bản đánh máy hay quay ronéo rất hạn chế đến những ai cùng chung lý tưởng, nghĩ là sẽ không trình báo công an. Sau khi ra hải ngoại, trong nhiều bài viết trước đây, chúng tôi đã trích đoạn từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền Việt Nam 1977.
Hôm nay, nhân kỷ niệm 70 năm ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 10-12-1948, chúng tôi viết lại toàn văn bản Tuyên ngôn Nhân quyền Việt Nam 1977 theo trí nhớ. Vì vậy sẽ không đúng như nguyên bản, nhưng chắc chắn thể hiện đầy đủ, trung thực nội dung ý tưởng về các nhân quyền và dân quyền bị nhà cầm quyền CS Việt Nam thời đó vi phạm nghiêm trọng. Mặc dầu sau 41 năm (1977-2018) Việt Nam vẫn chưa có nhân quyền, tình trạng đàn áp những người đấu tranh cho nhân quyền vẫn còn tiếp diễn. Thế nhưng thực tế cho thấy chính nhờ các cuộc đấu tranh cho nhân quyền của các thế hệ tiếp nối, cùng với áp lực quốc tế, đã buộc được đảng và nhà quyền cộng sản Việt Nam từng bước phải trả lại cho nhân dân các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền cơ bản. Mặc dầu thực tế chế độ đương quyền CSVN vẫn tiếp diễn những hành vi đàn áp nhân quyền và dân quyền nghiêm trọng, tinh vi và tàn độc hơn. Đúng như sự tố cáo mới đây nhất của các quốc gia khối Liên hiệp Âu Châu (EU) và Quốc hội Hoa Kỳ cáo buộc về tình trạng đàn áp nhân quyền vẫn tồi tệ của nhà đương quyền CS Việt Nam.
Sau đây là nội dung toàn văn bản Tuyên ngôn Nhân quyền Việt Nam 1977:
“Khẳng định rằng: Con người sinh ra có quyền sống và phải được sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị con người.
Sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị con người, là mọi người sinh ra không phải chỉ để sống như một sinh vật, mà có yêu cầu khẩn thiết hơn, là phải được sống và sống tự do.
Sống tự do, là mọi người không phân biệt giai tầng xã hội, chủng tộc, phái tính, chính kiến, tôn giáo…phải được tôn trọng, bảo vệ và hành xử những nhân quyền cơ bản đã được ghi trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến chương Liên Hiệp quốc (2):Các quyền tự do tư tưởng, tự do chính trị, tự do kinh tế…
Vì đó là những quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm, không thể tiêu diệt !
Vì tự do và con người là một thực thể bất khả phân, có con người là phải có tự do, thiếu nó con người sẽ sống trong lo âu, sầu tủi và nhân phẩm bị hạ thấp ngang tầm loài vật.
Tiếc thay! Một dân tộc đã và đang phải sống ngang tầm loài vật ! Đó là dân tộc Việt Nam. Vì dân tộc này đã và đang phải sống dưới ách thống trị của một chế độ độc tài đảng trị cộng sản, mọi nhân quyền, dân quyền đều bị tước đoạt và chà đạp.
Vì vậy, chúng tôi, những người Việt Nam yêu chuộng tự do,dân chủ chống độc tài, soạn thảo và công bố bản Tuyên ngôn Nhân quyền này để mời gọi quốc dân Việt Nam tham gia và kêu gọi Liên Hiệp Quốc, chính quyền và nhân dân các quốc gia dân chủ trên thế giới, các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, yểm trợ cho các hoạt động đấu tranh ôn hòa, dưới mọi hình thức, bằng nhiều phương cách hữu hiệu, để đòi buộc nhà đương quyền cộng sản Việt Nam phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các nhân quyền và dân quyền cơ bản về tư tưởng, chính trị, kinh tế sau đây:
1 - Quyền tự do ngôn luận: Là mọi người được tự do suy tư, lưu trữ và truyền bá những tư duy qua các phương tiện truyền thông, như phát hành báo chí, in ấn sách vở,phát thanh, truyền hình, thuyết trình, hội luận…Đồng thời được quyền tự do tìm xem các sách báo, phim ảnh, để tiếp thu những tư duy của người khác ở trong nước cũng như trên thế giới. Vì đó là nhu cầu tinh thần không thể thiếu, thể hiện nhân cách con người khác con vật. Vì tự do ngôn luận góp phần rất quan trọng trong việc bảo vệ các nhân quyền và dân quyền cơ bản, được mệnh danh là “đệ tứ quyền” sau tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp).
Việc nhà đương quyền CSVN áp đặt hệ tư tưởng độc tôn Marxist-Leninist để tiêu diệt, ngăn chặn mọi tư duy và hệ tư tưởng tinh hoa khác của nhân loại; độc quyền các phương tiện truyền thông, bóp chết truyền thông tư nhân, là vi phạm thô bạo quyền tự do ngôn luận của người dân.
2 - Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Là mọi người được tự do tin, tôn thờ và thực hành theo tín ngưỡng cá nhân, hay đức tin tôn giáo của tập thể(các Giáo hội) một cách độc lập, trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật dân chủ (khác độc tài).
Việc nhà đương quyền CSVN can thiệp các hoạt động tín ngưỡng cá nhân hay công việc nội bộ của các tập thể pháp nhân tôn giáo (Giáo hội); cũng như tìm cách bách hại, loại trừ ảnh hưởng tôn giáo vì lợi ích chính trị cho chế độ, là vi phạm thô bạo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vì tín ngưỡng và tôn giáo là một nhu cầu tâm linh không thể thiếu của con người. Vì bản chất tín ngưỡng và tôn giáo không mang tính mê hoặc mà góp phần vào nền đạo đức xã hội. Vì một xã hội có thần linh mà tội ác còn gia tăng, thì một xã hội phi thần linh, tội ác phải gia tăng nhiều hơn nữa.
3 - Quyền ứng cử vào các chức vụ dân cử hay công cử: Là mọi người dân, không phân biệt giai cấp, lý lịch gia đình, chính kiến, giới tính, sắc tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, nếu hội đủ các điều kiện luật định (Luật ứng cử và bầu cử) về năng lực, phẩm cách, đều có quyền ra ứng cử vào các chức vụ dân cử (Quốc hội, Hội đồng dân cử các cấp…) hay phải được tuyển dụng vào các chức vụ công cử các cấp, các ngành trong guồng máy công quyền quốc gia.
Việc nhà đương quyền CSVN độc quyền chọn ứng cử viên dân cử hay xét lý lịch để tuyển dụng vào các chức vụ công cử là vi phạm trắng trợn quyền ứng cử và công cử của người dân.
4 - Quyền bầu cử: Là mọi người dân, nếu hội đủ các điều kiện công dân lương hảo, đều có quyền tham gia hay không tham gia các cuộc bầu cử tự do để chọn người đại diện vào các cơ quan dân cử các cấp trong guồng máy công quyền quốc gia.
Việc nhà đương quyền CSVN thực hiện chủ trương “Đảng cử, dân bàu” và cưỡng ép người dân phải đi bàu là vi phạm thô bạo quyền tự do ứng cử và bầu cử của người dân.
5 - Quyền tự do lập hội và sinh hoạt đoàn thể: Là mọi người dân đều có quyền thành lập các chính đảng và các hiệp hội xã hội, nghề nghiệp, để sinh hoạt theo tôn chỉ, mục đích riêng. Đặc biệt là các chính đảng, với các sinh hoạt có mục đích giành chính quyền một cách ôn hòa, hợp pháp để thực hiện mục tiêu lý tưởng của đảng. Nghĩa là nắm chính quyền bằng phương thức hòa bình,thông qua các cuộc tranh cử và bầu cử tự do, nếu đảng nào được đa số nhân dân tín nhiệm, là được trao quyền điều hành và quản lý đất nước theo ý nguyện của nhân dân và vì lợi ích của đất nước.
Việc nhà đương quyền CSVN cấm các hiệp hội tư nhân cũng như các chính đảng thành lập và hoạt động, ngoài đảng cộng sản và các đoàn thể vốn là tổ chức ngoại vi của đảng CSVN (công đoàn, Mặt trận Tổ Quốc, đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh…) ; nhất là tìm cách tiêu diệt các chính đảng khác để đảng cộng sản Việt nam độc chiếm chính quyền trong một chế độ độc tài toàn trị, điều hành quản trị đất nước vì lợi ích của đảng cầm quyền, trái với ý nguyện của nhân dân và lợi ích đất nước, là tước đoạt quyền làm chủ của nhân dân, vi phạm thô bạo quyền tự do lập hội và sinh hoạt đoàn thể vốn có trong bất cứ xã hội dân sự văn min nào.
6 - Quyền tự do biểu tình: là mọi người dân, cá nhân hay tập thể công dân có quyền bầy tỏ thái độ bất bình, hành động đấu tranh đòi hỏi các quyền lợi chính đáng và hợp pháp về mọi vấn đề chính trị,kinh tế, xã hội, nghề nghiệp tín ngưỡng, tôn giáo…đối với bất cứ đối tượng là cá nhân hay pháp nhân thuộc guồng máy công quyền quốc gia hay lãnh vực tư nhân.
Việc nhà đương quyền CSVN ngăn cấm, trấn áp các cuộc biểu tình của người dân, ngoài các cuộc biểu tình do nhà nước tổ chức và sẵn sàng đàn áp bất cứ cuộc biểu tình dân sự hay tôn giáo, tín ngưỡng…Là vi phạm nghiêm trọng quyền tự do biểu tình của người dân.
7 - Quyền tự do cư trú và vãng lai: Là mọi người dân được quyền tự do chọn nơi cư trú thuận lợi cho cuộc sống và quyền đi lại đến bất cứ đâu trên đất nước của mình mà không cần xin phép và phải được phép của nhà cầm quyền.
Việc nhà đương quyền CSVN dùng chế độ quản lý hộ khẩu và thủ tục xin phép tạm trú, tạm vắng đã vi phạm trắng trợn quyền tự do cư trú và vãng lai của người dân.
8 - Quyền tự do hoạt động kinh tế: Là mọi người dân có quyền chọn lựa các hoạt động kinh tế phù hợp để thu lợi nhuận hầu có phương tiện tài hóa đáp ứng các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần trong cuộc sống, để mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và gia đình.
Việc nhà đương quyền CSVN ép buộc toàn dân từ bỏ các hoạt động kinh tế cá thể tư nhân, đi vào con đường làm ăn tập thể quốc doanh (tập thể hóa nông nghiệp, công, thương nghiệp quốc doanh…), dưới sự lãnh đạo và quản lý duy nhất của nhà nước. Đồng thời, cưỡng bách nhân dân thành thị rời bỏ cửa nhà, đi lập nghiệp vùng kinh tế mới nơi hoang vu,rừng thiêng nước độc… là vi phạm nghiêm trọng quyền tự do hoạt động kinh tế để sinh sống của người dân, làm khổ nhân dân, làm nghèo đất nước; vì đã triệt tiêu mọi sáng kiến và các động lực của mọi hoạt động kinh tế trên mọi lãnh vực.
9 - Quyền tư hữu và sở hữu tài sản: Là mọi người dân có quyền có tài sản riêng, tích lũy, bảo quản, sử dụng và định đoạt (cho, bán…) các tài sản do công khó mình làm ra hay do thừa kế, tặng dữ vô điều kiện hay có điều kiện. Tài sản bao gồm các bất động sản (như nhà cửa, đất đai…) và các động sản (như quần áo, tiền bạc, quý kim…).
Việc nhà đương quyền CSVN quốc hữu hóa đất đai (sở hữu của nhà nước..) và tịch thu nhà cửa đất đai, vàng bạc, quý kim của người dân qua các cuộc “đổi tiền bình quân”, “cải tạo công,nông, thương nghiệp”, “đánh tư sản”…là vi phạm thô bạo quyền tư hữu và sở hữu tài sản của người dân, làm nghèo đất nước, làm giầu cho giai cấp thống trị mới (giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản có chức có quyền chiếm dụng nhà cửa, của cải trong các đợt cải tạo, đánh tư sản …).
Vì vậy, quốc dân Việt Nam, là những công dân của Tổ quốc Việt Nam, là chủ đất nước, kiên quyết và mạnh mẽ đấu tranh đòi buộc nhà đương quyền Cộng sản Việt Nam phải trả lại các nhân quyền và dân quyền cơ bản trên đây.
Quốc dân Việt Nam tin tưởng mãnh liệt rằng:
1 -Với ý chí, nghị lực và sự kiên trì đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, cùng với sự yểm trợ tích cực của Liên Hiệp Quốc, chính phủ và nhân dân các nước dân chủ, các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế, cuộc đấu tranh ôn hòa, trường kỳ cho nhân quyền và dân quyền của quốc dân Việt Nam sẽ tất thắng.
2 - Vì một chế độ độc tài toàn trị cộng sản đã áp đặt bằng bạo lực, duy trì bằng bạo lực, trái với ý nguyện của toàn dân, thì sớm muộn cũng sẽ bị sụp đổ do tự bản chất và do sức mạnh vùng lên của những con người bị áp bức, bóc lột và bị tước đoạt các nhân quyền và dân quyền cơ bản.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền này được một tập thể quốc dân Việt Nam qui tụ trong “Mặt trận Nhân quyền Việt Nam”, một tổ chức quần chúng đấu tranh cho nhân quyền, soạn thảo và công bố tại Sài Gòn, Việt Nam ngày 10-12-1977, nhân kỷ niệm ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 10-12-1948.”.
Ghi chú:
  1. Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1977 tại tư gia Ông Nguyễn Đình Phượng (Giáo Phượng, gốc đảng Đại Việt, sau được anh em bầu là Chủ tịch Mặt Trận, sau 10 năm tù ở khám Chí Hòa đã chết sau khi hết hạn tù) nhà ở khu Bình An, Quận 8 Saigon. Đây là một quần thể những người Bắc Kỳ di cư sau 1954 lánh nạn cộng sản, bao gồm nhiều xứ đạo, trong đó có xứ đạo của Linh mục Hoàng Quỳnh, từng là Tổng chỉ huy lực lượng tự trị Bùi Chu - Phát Diệm (nên thường gọi tắt Cha Tổng) dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giám mục Lê Hữu Từ, là lực lượng bán quân sự chủ trương chống cả thực dân Pháp lẫn Việt Minh cộng sản. Sau 30-4-1975, LM. Hoàng Quỳnh đã bị Việt cộng bắt cầm tù và đã chết trong tù. Khoảng cuối năm 1978, người viết được đưa từ nhà tù Số 4 Phan Đang Lưu qua Sở Công an Thành phố HCM, khi đó nghe nói LM. Hoàng Quỳnh cũng đang giam trong cùng khu bị biệt giam với người viết ở đây.
Trong cả tháng trời chấp pháp đã yêu cầu tôi viết lại bản Tuyên ngôn Nhân quyền 1977 và những tài liệu khác như Chính cương và sách lược đấu tranh của MTNQVN, Việt Nam trong chiến lược toàn cầu mới của các cường quốc cực (Sau triển khai viết thành sách “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”ấn hành ba năm sau khi đến định cư ở Hoa Kỳ (!992-1995) và tái bản 2005…).Tôi đã viết lại một cách say sưa đến độ cán bộ chấp pháp tên Quyết đôi lần nhắc “Tôi thấy anh làm việc “căng quá”, thôi tạm nghỉ để nói chuyến với nhau cho vui”. Mục đích muốn tôi viết lại các tài liệu này, là chấp pháp muốn xem có đúng như lời khai là do một mình tôi viết, nếu có ai khác hợp soạn sẽ bắt thêm để cầm tù. Chính những tài liều này, theo nhận xét của chúng tôi, qua các biểu hiện, dường như đã có tác động đến suy tư trái chiều với chế độ của một số công an chấp pháp vụ án Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam, là gián tiếp ngầm đồng ý với những quan điểm hữu lý của tôi, để tôi suy đoán có lẽ là trong thâm tâm nhiều đảng viên cộng sản đã “phản tỉnh từ lâu” nhưng phải câm lặng để bảo vệ sự sống bàn thân và gia đình. Những biểu hiện đó như thế nào, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết chứng minh trong một bài viết khác.
(2)Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de ChaillotParis, Pháp. Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ. Tuyên bố phát sinh trực tiếp từ những kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai và là tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên trên thế giới, trong đó liệt kê các quyền cơ bản mà mọi cá nhân, được hưởng, không phân biệt chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác (điều 2). Nó bao gồm 30 điều đã được xây dựng trong các Thỏa ước quốc tế, thỏa ước nhân quyền khu vực, hiến pháp và luật pháp quốc gia. Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế bao gồm Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cùng hai Nghị định thư không bắt buộc III. Năm 1966, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua hai Công ước trên, qua đó hoàn thành cơ bản Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi quốc gia và mọi dân tộc. Tinh thần của bản Tuyên ngôn là dùng truyền đạt và giáo dục để nỗ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc tôn trọng các quyền con người cơ bản được đưa ra trong Tuyên ngôn.
Điều khoản cuối cùng thuộc về bản Tuyên ngôn có viết "Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này". (Theo Wikipedia Tiếng Việt)
12
luatkhoavietnam

Friday, December 7, 2018

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM



VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thiện Ý

Hôm 23/11, Báo Pháp luật trong nước dẫn nguồn tin từ Bộ Tư pháp cộng sản Việt Nam tường thuật rằng luật sư Võ An Đôn (*)  có gửi thư khiếu nại về việc Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên ra quyết định xóa tên ông khỏi đoàn luật sư vào tháng 11/2017 và một quyết định của Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam liên quan đến việc giải quyết khiếu nại đối với ông vào tháng 5/2018. Báo Tuổi trẻ online đưa tin, Bộ Tư pháp đã bác toàn bộ nội dung khiếu nại của luật sư này.
Mọi người còn nhớ, cách đây đúng một năm, Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên đưa ra quyết định kỷ luật luật sư Võ An Đôn (27-11-2017), chỉ vài ngày trước phiên xử phúc thẩm Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (30-11-2017) mà ông nhận bào chữa. với hai lý do cơ bản là luật sư Đôn “ đã trả lời phỏng vấn của các báo đài nước ngoài và nói xấu luật sư…”.

Đứng trước sự kiện trên, chúng tôi nghĩ đến: (1)Vai trò của luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa việt nam. (2) Hiệu quả và ý nghĩa việc  đi kiện Bộ trưởng Tư pháp, người đã đưa ra quyết định bác đơn khiếu nại của luật sư Đôn.

I/- VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

Năm 1989, khi còn ở Việt nam, theo yêu cầu của Hội Luật Gia thành phố HCM, để góp ý với Đại Hội VII của Đảng CSVN, chúng tôi đã viết một bài tham luận “Vai trò của luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa”. Khoảng 2 năm sau, một nữ nhân viên Báo Sàigon Giải Phóng đã tìm gặp trao cho tôi 30 đồng (thời bấy giờ) tiền nhuận bút về bài viết này mới được đăng tải. Tôi thắc mắc hỏi “Bài này tôi viết cách đây 2 năm gửi cho Hội Luật gia thành phố, sao giờ này báo cho đăng tải?”. Nữ nhân viên trả lời “Khi nhân được bài viết này bên Hội Luật gia chuyển qua, Ban biên tập thấy hay giữ lại, không đăng tải. Vì lúc đó “Đảng” chưa có quan điểm về pháp quyền”. Nữ nhân viên này còn  nói “Lãnh đạo muốn mời anh cộng tác viết bài cho báo được không?”. Tôi trả lời “cộng tác thường xuyên thì không được.Vì tôi bận lo sinh kế. Nhưng nếu có cảm hứng với đề tài nào tôi sẽ viết gửi đến quý báo…”. Nói thế, nhưng sau đó cho đến khi rời Việt Nam 1992, tôi không viết thêm bài nào nữa.

Thực ra, khi dùng tiêu đề trên, chỉ là cách “viết lách”, hay “viết lái” để né tránh một đề tài nhậy cảm với chế độ, chứ làm gì có “dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa”. Tôi đã dùng cụm từ này một cách cưỡng ép. Vì  chế độ xã hôi chủ nghĩa” là một “chế độ độc tài toàn trị” được ngụy biện bằng cái gọi là “dân chủ tập trung”. Nghĩa là một thứ dân chủ tập trung trong tay đảng CSVN, để sau đó ban phát “dân chủ” cho những người dân nào chấp nhận quyền lãnh đạo độc tôn, ngoan ngoãn thi hành các chủ trương chính sách của “Đảng ta” bất kể đúng sai, lợi hại cho dân cho nước, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của “Đảng ta”. Khi đảng CSVN đưa ra quan điểm về “nhà nước pháp quyền” (cai trị bằng pháp luật), kêu gọi nhân dân sống theo khẩu hiệu tuyên truyền “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật (của Đảng)”chỉ là biến tướng của “nhà nước nghị quyền” (cai trị bằng nghị quyết của đảng). Bằng cách đưa các nghị quyết của đảng, cho một Quốc hội công cụ của đảng, để “luật hóa” thành cái mà chúng tôi gọi là “nghị luật”.Sự biến tướng này, chẳng qua, đảng CSVN muốn chuẩn bị cho một bộ mặt “ngụy dân chủ” cho phù hợp thời kỳ “Mở cửa” làm ăn với các nước dân chủ tư bản; sau khi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thất bại hoàn toàn (1975-1985) dù “Đổi mới” cũng không cứu vãn được (1985-1995), đành “mở toang cửa” đón “Đế quốc Mỹ” (sau khi Mỹ bỏ cấm vấn, cho thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm1995).  và các nước “Tư bản không rãy chết mà phồn vinh” tràn vào đầu tư, cứu nguy chế độ Thế nhưng trên thực tế trước sau cai trị bằng “nghị quyết” hay “Nghị luật” vẫn không làm thay đổi bản chất chế độ độc tài toàn trị “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” đâu. Tất cả vẫn chỉ là công cụ chuyên chính của nhà cầm quyền, theo đúng luật điểm Marxist-Leninist, rằng “luật pháp chỉ là công cụ pháp lý của giai cấp thống trị để trấn áp giai cấp bị trị là nhân dân” mà thôi.

Thành ra, luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đối với nhà đương quyền, cũng không có vai trò nào khác hơn là công cụ pháp lý trang trí cho bộ mặt tư pháp Việt Nam sao cho, về hình thức gần giống với tư pháp của các nước có chế độ dân chủ và nền kinh tế thị trường tự do. Vì thế, “đoàn luật sư” hiện nay cũng chỉ là hậu thân của “Đoàn Bào chữa viên nhân dân” trong thời kỳ kinh tế chỉ huy bao cấp đều là những công đoàn do nhà nước tổ chức và lãnh đạo. Có khác chăng, bào chữa viên nhân dân trước đây không được đào tạo bài bàn về năng lực như luật sư sau này; điều kiện trước hết phải là công nhân viên (công chức), có kiến thức, kinh nghiệm về việc thực thi các chủ trương, chính sách liên quan đến pháp luật của nhà nước. Luật sư sau này đòi hỏi tốt nghiệp văn bằng cử nhân luật (**), thời gian tập sự 3 năm tương tự như quy chế luật sư đoàn dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trước 1975. Thế nhưng, khác với Luật sư đoàn Việt Nam Cộng hòa, là một đoàn thể nghề nghiệp  tư nhân, độc lập tuyệt đối với chính quyền về tổ chức, điều hành và hoạt động nghiệp vụ theo Quy chế Luật sư đoàn và trong khuôn khổ pháp luật. Trong khi Đoàn luật sư dưới chế độ XHCN hiện nay, luôn có chi bộ đảng CSVN lãnh đạo, là một thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN để quản lý các đoàn thể quần chúng.

Nhớ lại, một năm trước đây, khi Quốc hội khóa 14 họp vào tháng 6-2017, trong lập pháp đã “cải lùi” hệ thống tư pháp Việt Nam khi giữ lại trong dự thảo sửa đổi, bổ sung nơi Điều 19, Khoản 3 Bộ luật Hình sự 2015, buộc luật sư phải tố cáo những điều thân chủ tiết lộ riêng với mình; và khi Đoàn luật sư Phú Yên ra quyết định kỷ luật luật sư Võ An Đôn, chúng tôi đã lên tiếng bằng hai bài viết được VOA cho đăng tải trên diễn đàn này nhan đề “ Luật Sư Đoàn có phải là công cụ của Đảng?”( 13/09/2017 ) “Luật sư Đoàn mà cũng thế ư?”( 28-11-2017). Nội dung hai bài này, chúng tôi đã trình bầy chi tiết về vai trò của luật sư trong chế độ xã hội chủ nghĩa hiện nay tại Việt Nam, khác với luật sư trong chế độ dân chủ pháp trị VNCH trước đây ở Miền Nam nói riêng và các quốc gia dân chủ trong thế giới văn minh ngày nay nói chung.( Xin Bạn đọc tìm đọc lại có thể còn lưu trên Diễn Đàn này…).

II/- HIỆU QUẢ VÀ Ý NGHĨA VIỆC LUẬT SƯ VÕ AN ĐÔN KIỆN BỘ TRƯỞNG TƯ CHẾ ĐỘ XHCNVN.

1.- Hiệu quả:
Sự thể hôm 23-11-2018 vừa qua, Luật sư nhân quyền Võ An Đôn nói với VOA rằng ông sẽ kiện người đứng đầu Bộ Tư pháp sau khi bộ này bác đơn khiếu nại của ông về việc ông bị xóa tên khỏi Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Lý do kiện theo luật sư Đôn  là vì “Vừa qua Bộ Tư pháp có trả lời nói rằng họ giữ nguyên kết quả giải quyết khiếu nại của Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên về việc bác đơn yêu cầu giải quyết khiếu nại của tôi, với lý do đưa ra hết sức mơ hồ, cho rằng tôi nói xấu các luật sư, cũng như trả lời phỏng vấn báo đài nước ngoài. Họ chỉ nói chung chung, không chỉ rõ cái nào. Như vậy là không đúng quy định của pháp luật, cũng như các văn bản hướng dẫn kỷ luật luật sư.”.
Mặc dầu chưa kiện, nhưng ai cũng biết có đi kiện, thì hiệu quả dâu lại hoàn đấy thôi. Vì ai cũng biết tư pháp trong chế độ XHCN tại Việt Nam là một chế độ độc tài toàn trị, Đảng lãnh đạo tất cả, làm gì có độc lập  theo nguyên tắc tam quyền phân lập như trong các chế độ dân chủ pháp trị. Chi bộ đảng ở Đoàn luật sư Phú Yên, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đảng bộ Bộ Tư pháp đã quyết định thế thì nhất định phải thế thôi. “Sợi chỉ đỏ” là sự lãnh đạo của “Đảng ta” luôn xuyên suốt mà. Đúng là “con kiến mà kiện cũ khoai”. Luật sư Nguyễn An Đôn cũng biết thế nên đã nói ““Sắp tới tôi sẽ khởi kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp ra tòa án tỉnh Phú Yên, khởi kiện ông về quyết định của ông. Tôi không hy vọng rằng việc khởi kiện này đem lại kết quả dù các cơ quan này ra quyết định sai trái.”. Biết vậy nhưng luật sư Đôn vẫn kiện vì sao?
2.- Ý nghĩa của việc đi kiện của luật sư Võ An Đôn.
Biết rằng kiện không có hiệu quả, cũng như luật sư có cãi trước tòa cũng không làm thay đổi được bản án tiền định của Tòa, nhưng các luật sư vẫn cãi, cũng như luật sư Đôn vẫn kiện.Theo nhận định của chúng tôi, việc đi kiện không hiệu quả, nhưng sẽ có được những nghĩa sau đây:
-         Một là dịp để tố cáo trước công luận thế giới, về một quyết định trái chiều với thế giới văn minh. Vì trong thế giới ngày này, việc tước quyền hành nghề luật sư chỉ vì người luật sư ấy có lời nói, bài viết thể hiện quyền tự do tư tưởng, ngôn luân như luật sư Đôn là điều không thể chấp nhận được.
-         Hai là sự tước quyền luật sư ấy lại do một đoàn thể mang tính công đoàn (do nhà nước thành lập, chỉ đạo từ tổ chức đến chế tài các hoạt động của luật sư đều do đảng và nhà cầm quyền quyết định), cũng là trái với tính tư nhân, độc lập với chính quyền của các đoàn luật sư.Việc tổ chức, điều hành và hoạt động nghề nghiệp và các biện pháp chế tài đều theo Quy chế Luật sư Đoàn. Vì thế việc Bộ trưởng Tư pháp ra quyết định chung thẩm khiếu nại của luật sư Đôn cũng là trái chiều, gây bất bình và phẫn nộ trong công luận quốc tế. Vì nhà cầm quyền CSVN đã vi phạm thô bạo quyền hành nghề luật sư của luật sư Võ An Đôn; một nghề nghiệp cao quý mà các nước dân chủ văn minh coi là đóng vai trò “phụ tá công lý”, cùng Tòa án bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân. Luật sư mà bị trấn áp như thế thì công luận quốc tế sẽ nghĩ sao về việc thực thi các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền đối với thân phận những người dân thấp  cổ, bé miệng đây?
-         Ba là việc đi kiện hiện tại không đem lại hiệu quả gì cho bản thân luật sư Võ An Đôn, cũng như các nhà đấu tranh cho dân chủ hiện tại không đem lại tự do dân chủ ngay cho nhân dân, còn bị bắt cầm tù. Thế nhưng ít nhiều đã góp phần tăng tốc tiến trình dân hóa hóa cho Việt Nam. Dẫu rằng “Một con én không làm nên Mùa xuân dân tộc” (khi đất nước thoát ách độc tài đảng trị,nhân dân được sống trong độc lập, tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc thật sự), nhưng “Những xác én sẽ góp phần làm nên Mùa Xuân Dân Tộc”. Vì mỗi xác én sẽ có tác dụng làm chậm lại tốc độ quay của bánh xe lịch sử theo chiều hướng tiêu cực có hại cho nhân dân và đất nước. Cho đến một lúc lượng xác én thừa đủ làm ngừng bánh xe lịch sử để khởi động theo chiều hướng tích cực có lợi cho dân cho nước. Đúng theo quy luật “lượng đổi, chất đổi” phải không ạ, thưa Ngài Tổng Bí kiêm Quốc trưởng Nguyễn Phú trọng và mấy triệu đảng viên cộng sản đang nắm quyền thống trị, độc quyền “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, độc quyền áp bức, bóc lột bao năm qua?
III/- KẾT LUẬN.
Từ lâu ai cũng biết, để đáp ứng với yêu cầu “mở cửa” làm ăn với thế giới văn minh, đảng và nhà cầm quyền CSVN vẫn chỉ coi luật sư như những công cụ pháp lý phục vụ cho ý đồ chính trị, và Đoàn luật sự chỉ là một công đoàn trá hình được điều hành và hoạt động dưới dự lãnh đạo của đảng CSVN. Vì vậy người ta không ngạc nhiên mà chỉ phẫn nỗ trước việc người đứng đầu cơ quan tư pháp CS Việt Nam vừa ra quyết định bác đơn khiếu nại của luật sư Võ An Đôn về quyết định của Ban chủ nhiệm đoàn luật sư Phú Yên tước quyền hành nghề của đương sự.
Là một luật sư từng hành nghề trong ngành tư pháp chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975 và nay đang được sống tại Hoa Kỳ, một nước có tiếng là dân chủ bậc nhất trên thế giới, người viết không khỏi phẫn nộ và xin bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ những áp bức, bất công và hiểm nguy khi hành nghề với luật sư Võ An Đông và các luật sư đồng nghiệp đang hành nghề trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản (đỏ vỏ xanh lòng) hiện nay tại Việt Nam.
Chúng tôi ước mong rằng, đất nước Việt Nam ta sớm chuyển đổi hòa bình, tịnh tiến từ chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị hiện nay qua chế độ dân chủ pháp trị, để quyền hành nghề độc lập, tự do của giới luật sư cũng như các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam phải được nhà cầm quyền tôn trọng, bảo vệ và hành xử trọn vẹn như trong các nước dân chủ, văn minh trên thế giới ngày nay.
Thiện Ý
Houston, ngày 23-11-2018
CHÚ THÍCH:
(*) Trong bài này, chúng tôi không dùng cụm từ “cựu luật sư Võ An Đôn” mà luôn viết “luật sư Võ An Đông”. Vì chúng tôi quan niệm “luật sư” là danh vị nghề nghiệp sẽ đi kèm với tên người hành nghề cho đến chết. Dù người này đang hành nghề, hay đã về hưu, đều được gọi là “luật sư X… hay Luật sư Y…” ; tương tự như danh vị nghề y, thường gọi “Bác sỉ X…hay Bác sĩ Y…”. chứ không ai gọi “Cựu Bác sĩ X..hay Cựu Bác sĩ Y…”. Danh vị nghề nghiệp này chỉ bị mất khi bị có quyết định của tổ chức nghề nghiệp độc lập với chính quyền (như Hội Đồng Điều hành luật sư Đoàn Saigon trước đây chẳng hạn)  căn cứ trên vi phạm nghiêm trọng được ghi rõ trong Quy chế Luật sư Đoàn. Trường hợp của luật sư Võ An Đôn, không mất tư cách luật sư, dù sau này phải về làm ruộng, vì là một quyết định của một tổ chức luật sư đoàn nhà nước, tước quyền vì lý do chính trị, phi lý, bất công đối với một luật sư có thành tích đấu tranh cho nhân quyền, dân quyền.
(**) Sau khi cưỡng chiếm Miền Nam vào ngày 30-4-1975, CSBV đã đóng cửa các Trường Luật ở Miền Nam. Trường Đại học Luật khoa Saigon trên “đường Duy Tân, cây dài bóng mát” bị đổi thành Trường Đại học Kinh tế. Sau khi đưa cả nước “tiên nhanh, chết nhanh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”, đảng và nhà cầm quyền CSVN phải “Mở cửa” mời đón tư bản nước ngoài vào đầu tư. Để thích dụng, Phân khoa Luật được mở ra ở Sài gòn có cơ sở ở Bình Triệu. Khoa Trưởng đầu tiên là cựu sinh viên Luật khoa Saigon Triệu Quốc Mạnh, từng làm Biện lý Tòa Sơ Thẩm Gia Định, hoạt động nằm vùng và được kết nạp vào đảng CSVN trong bí mật. Dường như ông đã mất chức sau đó vì bị coi là mất quan điểm, lập trường giai cấp, khi mời một số đông những đồng môn tốt nghiệp cử nhân tiến sĩ,luật sư hành nghề lâu năm vào Ban giảng Huấn. Trước đó, Triệu Quốc Mạnh từng giữ chức Trưởng Đoàn bào chữa viên nhân dân Thành phố HCM, rồi Trưởng Đoàn Luật sư Thành phố HCM khi mới thành lập. Khi được điều qua làm Khoa Trưởng Luật khoa Saigon, Nguyễn Đăng Trừng, một đồng môn luật khoa Saigon cũng hoạt động nằm vùng cho CS trong thời chiến tranh, đang là Phó đoàn Luật sư được đôn lên làm Trưởng đòan luật sư TP.HCM thay Triệu Quốc Mạnh. Mấy năm trước đây đã mất chức, bị khai trừ khỏi đảng vì mất quan điểm lập trưởng cộng sản…


Tuesday, November 27, 2018

THÁNG 11 NGHĨ VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946.



THÁNG 11 NGHĨ VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946.

Thiện Ý

Trong bài trước, chúng tôi đã viết về nền cộng hoà được xác lập và thực hiện đầu tiên tại Việt Nam là bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam. Mặc dầu trước đó, tại Việt Nam đã có một bản Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng thông qua ngày 9/ 11/ 1946, tuy có xây dựng trên nền tảng cộng hòa thật, theo đúng ý nghĩa chân chính của từ ngữ cộng hòa, nhưng chưa bao giờ được thực thi, nên chưa có giá trị pháp lý và thực tế, mà chỉ mang ý nghĩa lịch sử và chính trị. Vì sao?
Bài viết lần lượt trình bày:
-         Bối cảnh lịch sử và sự hình thành Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946.
-         Nội dung Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946
-         Nhận định và so sánh giá trị lập hiến của Hiến pháp 1946 với các bản Hiến pháp sau đó của đảng cộng sản Việt Nam.

I/- BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA  1946.

1.- Bối cảnh lịch sử.
     Theo sử liệu tổng hợp, thì ngày 11-3-1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20, Nhật đã trao trả độc lập cho vua Bảo Đại. Sau đó chính phủ quốc gia Trần Trọng Kim được thành lập.

Tháng 8 năm 1945, lợi dụng tình hình tranh tối tranh sáng, sự rụt rè của chính quyền quốc gia Trần Trọng Kim và sự phân tán của các chính đảng quốc gia,  đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN)  nhờ tính tổ chức cao và kinh nghiệm đấu tranh lật đổ, đã cướp được chính quyền từ tay chính quyền chính thống quốc gia Trần Trọng Kim mới tiếp nhận độc lập từ tay Nhật chưa đầy 6 tháng, ép của Vua Bảo Đại thoái vị. Việt Minh cộng sản gọi cuộc cướp chính quyền không đổ máu này là “Cách mạng Tháng 8” như là cuộc “Cách mạng Tháng 10 Nga” của đảng cộng sản Bolsevick Nga lật đổ chế độ Nga Hoàng cướp chính quyền năm 1917, thành lập nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Xô-Viết” (gọi tắt là Liên Xô).

Nhưng vì thế lực của đảng CSVN vào thời khoảng này còn yếu kém so với các chính đảng quốc gia; và cũng vì quốc tế đang coi chủ nghĩa cộng sản là một hiểm họa toàn cầu của nhân loại cần ngăn chặn loại trừ;  nên lãnh tụ cộng đảng Việt Nam Hồ Chí Minh buộc lòng phải đứng ra thành lập một chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng và sau đó đẻ ra một Quốc hội Liên hiệp Quốc-Cộng tiền định ngụy dân tộc,ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ (1)
Sau khi cướp được chính quyền không đổ máu, bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân biểu tình khắp nơi, ngày 02/ 09/ 1945, lãnh tụ Cộng đảng Việt Nam Hồ Chí Minh  đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp đầu tiên của chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách trước mắt, một trong sáu nhiệm vụ đó là xây dựng hiến pháp.

2.- Sự hình thành Hiến Pháp 1946.

Ngày 20/ 9/ 1945, Chính phủ Lâm thời ra sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp (2). Ngày 9/ 11/ 1946, sau 10 ngày làm việc, tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng, khoá.1, Quốc hội đã thông qua bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 19/ 12/ 1946 Việt Minh cộng sản phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Do hoàn cảnh chiến tranh hiến pháp 1946 không được công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện Nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên, chính phủ và quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng sau đó do Việt Minh (mặt nạ của đảng CSVN) độc chiếm, lũng đoạn, dưới sự chủ đạo kháng chiến chống Pháp của lãnh tụ cộng đảng Hồ Chí Minh và đảng CSVN.
Thế nhưng, Việt Minh cộng sản luôn dùng Hiến pháp 1946 để “ngụy dân chủ, ngụy cộng hòa” để che dấu bộ mặt cộng sản trước nhân dân (vốn sợ chủ nghĩa cộng sản tam vô: vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo)) và trước thế giới (vốn coi chủ nghĩa cộng sản là hiểm họa toàn cầu). Thực tâm Ông Hồ và đảng CSVN không bao giờ muốn thực hiện bản Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946 tại Việt Nam. Điều họ muốn là phải thực hiện một bản Hiến pháp Xã hôi Chủ nghĩa rặp khuôn bản Hiến pháp Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-Viết 1936 của đảng cộng sản Liên-Xô. Điều muốn này của ông Hồ và đảng CSVN đã được thực hiện sau khi cướp được chính quyền trên một nửa nước Miền Bắc qua Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam, với các bản hiến pháp 1959, 1980, 1992…
Qua nội dung các bản Hiến pháp này của đảng CSVN, dù hình thức Hiến pháp 1959 vẫn giữ bảng hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa” của Hiến pháp 1946, để che đây bộ mặt “ngụy dân tộc” để tiến hành cuộc chiến tranh cộng sản hóa Miền Nam dưới ngọn cờ chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc.Thế nhưng sau khi cưỡng chiếm được Miền Nam bằng bạo lực quân sự, đã lộ nguyên hình là chế độ độc tài toàn trị cộng sản mệnh danh “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa”, vẫn còn chút “ngụy cộng hòa” (chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân). Vì thực chất cũng như thực tế chế độ mệnh danh “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” từ quá khứ đến hiện tại chỉ là một “chế độ độc tài Đảng trị hay toàn trị cộng sản”, với chủ quyền tuyệt đối thuộc về đảng CSVN; độc lập, tự do, dân chủ, nhân quyền chỉ là bánh vẽ, biến thành ân huệ của nhà cầm quyền CSVN ban phát cho người dân nào chỉ biết phục tùng mệnh lệnh của “Đảng và Nhà nước ta” mà thôi ! Kẻ nào giám chống lại sẽ bị đàn áp dã man bởi các  công cụ “chuyên chính vô sản (cộng sản)” là mật vụ, công an, quân đội, tóa án, nhà tù, pháp trường…

II/- NỘI DUNG HIẾN PHÁP VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 1946

Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là một văn bản lập hiến tương đối ngắn, gọn, song khá đầy đủ những điều cơ bản hiến định. Nội dung Hiến pháp gồm có lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.
Lời nói đầu khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của bản Hiến pháp này:
   1.-"Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai
        cấp, tôn giáo.”
   2.-"Bảo đảm các quyền tự do dân chủ”.\.
   3.-"Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân."

Chương I quy định chính thể của Việt Nam là Dân chủ xây dựng trên nề tảng Cộng hòa (Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân).
Chương II quy định nghĩa vụ và quyền lợi công dân, xác nhận sự bình đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.
Chương III quy định về nghị viện nhân dân.(Quốc hội)
Chương IV quy định về chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc
Chương V quy định phương diện hành chính, bộ, tỉnh, huyện, xã; quy định về cơ quan hành chính (ủy ban hành chính và hội đồng nhân dân) các cấp.
Chương VI quy định về cơ quan tư pháp bao gồm toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có quyền phúc quyết hiến pháp của dân.

III/- NHẬN ĐỊNH VỀ BẢN HIẾN PHÁP  1946
     
Nhận định tổng quát của chúng tôi: về hình thức và nội dung, Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946 mang tính tiến bộ, hiện tại vẫn còn phù hợp, nếu được thực thi tại Việt Nam sau khi tu chỉnh để hoàn chỉnh, thích dụng với trình độ dân trí và trào lưu dân chủ thời đại, đáp ứng được khát vọng tự do dân chủ bấy lâu nay của quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Bởi vì, đây đúng là một bản hiến pháp dân chủ xây dựng trên nền tảng cộng hòaChủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân” và quy định tương đối đầy đủ ngắn gọn, các dân quyền cơ bản: dân chủ, dân sinh, nhân quyền ; với các cơ chế tổ chức guồng máy công quyền quốc gia theo nguyên tắc tam quyền phân lập (Lập pháp-Hành pháp-Tư pháp độc lập nhưng không biệt lập) bảo đảm được các quyền tự do dân chủ của người dân. Sở dĩ có được các ưu điểm này, có lẽ là nhờ trong Ban Dự thảo Hiến pháp có một số thành viên là các nhà luật học, trong đó chúng tôi thấy có tên của Tiến sĩ Nguyễn Cao Hách, sau năm 1954 đã là một trong các Giáo sư Khoa Trưởng Đại học Luật khoa Sài gòn, nay đã quá vãng.

Theo đánh giá của nhiều người thì đây là một văn bản Hiến pháp tiến bộ nhất so với các bản Hiến pháp sau đó cho đến Hiến pháp “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” hiện hành.
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng ở trong nước cho rằng Hiến pháp 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền - "những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ". Điều đó, theo ông được thể hiện ở 5 điểm:
1.    Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân (tức Quốc hội) không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
2.    Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
3.    Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
4.    Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.
5.    Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các cơ quan khác không có quyền can thiệp.
Ts. Dũng đánh giá "Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới".
Giáo sư Trần Ngọc Đường, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội CSVN (năm 2006), đã từng nhận xét đúng khi cho rằng các điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là:Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân; Tư tưởng pháp quyền; Những quy định về quyền con người và đảm bảo quyền công dân; Cơ chế bảo hiến; Sửa đổi hiến pháp.v.v. Nhưng không đúng và chủ quan khi cho rằng Hiến pháp 1946 dựa trên Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam.
Đúng ra phải như nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Đại học Saarland, Cộng hòa Liên bang Đức quốc :Rằng đây là bản hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần "tam quyền phân lập": lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) chịu ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp, và hiến pháp của các nước cộng hòa khác. Điều 1 của Hiến pháp 1946 ghi rõ: "Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa". Nó không hề có một điều khoản nào quy định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà 1959 hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam.(1980-1992-2013) . Ông cho rằng thực tế Hiến pháp 1946 đã có những yếu tố nhất định thể hiện cơ chế phân công quyền lực, kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội, thì cho rằng Hiến pháp năm 1946 là "bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất Đông Nam châu Á lúc bấy giờ" và "đã có thể là một bản khế ước tốt để ràng buộc và khống chế công bộc với lợi ích của ông chủ nhân dân". Ông tỏ ý tiếc rằng sáu mươi năm sau Việt Nam "đã không có cơ hội đi xa hơn trong chủ nghĩa lập hiến." Theo ông, Hiến pháp 1946 vẫn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam và "vẫn còn nguyên giá trị cho một xã hội dân chủ pháp quyền ở Việt Nam".
IV/- KẾT LUẬN:

Hiến pháp Viết Nam Dân Chủ Cộng Hòa được hình thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, nên chưa được ban hành và thực thi, nên không có giá trị pháp lý cũng như thực tế, mà chỉ có ý nghĩa lịch sử và chính trị. Bản Hiến pháp này được các nhà lập hiến soạn thảo trên nền tảng cộng hòa đúng theo ý nghĩa chân chính của từ ngữ “cộng hòa”(chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân), với cơ cấu tổ chức chính quyền dân chủ được thiết định thể hiện và bảo đảm được các quyền tự do dân chủ của người dân buộc nhà cầm quyền phải tôn trọng, bảo vệ và hành xử (nguyên tắc tam quyền phân lập) .

Tiếc rằng cho đến nay bản Hiến pháp này chưa có cơ may được thực hiện. Vì trước cũng như sau khi cướp được chính quyền, trong nhiều thập niên qua, đảng Cộng sản Việt Nam chỉ “ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ, ngụy dân tộc” để thực hiện một chế độ độc tài toàn trị cộng sản “Phản cộng hòa, phản dân chủ, phản dân tộc”. Hệ quả tàn hại nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhân dân, dân tộc và đất nước như thế nào không cần nói ra thì quốc dân Việt Nam từng là nạn nhân đều đã biết rõ qua thực tiễn.

Vì vậy, từ lâu đã có nhiều ý kiến, nhất là ý kiến của chínhnhững người cộng sản phản tỉnh”, đề nghị đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tu chỉnh Hiến pháp hiện hành dựa trên Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa 1946. Đây như là một thông điệp, rằng đã đến lúc, tuy có quá trễ, những chưa quá muộn, đảng CSVN cần “phản tỉnh tập thể”, được thể hiện qua “một quá trình tự diễn biến, tự chuyển hóa” chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay qua chế độ dân chủ pháp trị theo đúng ý nguyện của toàn dân, vì lợi ích quốc gia dân tộc và tương lai của các thế hệ dân Việt mai sau. Tổng bí thư đảng CSVN kiêm Chủ tịch nước “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Nguyễn Phú Trọng và các đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam nghĩ sao? – Bao giờ Việt Nam mới có một chế độ dân chủ pháp trị, với một bản Hiến pháp dân chủ xây dựng trên nền tảng cộng hòa từng được Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xác lập năm 1946, mà chưa thực hiện được?

Thiện Ý
Houston, ngày 9-11-2018

Chú thích:
 (1)- Theo tài liệu lịch sử, thành phần Quốc hội Liên hiệp Quốc-Cộng: cho thấy các chính đảng quốc gia được chia cho 70 đại biểu trên tổng số 403 còn lại là của đảng CSVN  và các tổ chức ngoại vi hay những cá nhân không đảng phái do đảng CSVN chọn lựa và khống chế.
Cụ thể tổng số đại biểu Quốc hội là 403, trong đó có 333 đại biểu được bầu (trá hình tiền định do đảng CSVN lựa chọn đưa vào) bao gồm Việt Minh 120 ghế, Đảng Dân chủ Việt Nam 46 ghế, Đảng Xã hội Việt Nam 24 ghế, không đảng phái 143 ghế. Số đại biểu không qua bầu cử là 70 người gồm 20 đại biểu thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) và 50 đại biểu thuộc Việt Nam Quốc dân Ðảng (Việt Quốc). Việc có các đại biểu đặc cách không qua bầu cử này là theo thoả thuận trước cuộc bầu cử đạt được ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Việc này thể hiện chủ trương của Việt Minh về “hoà hợp dân tộc”, để che đậy bộ mặt cộng sản hầu tập trung được các lực lượng kháng chiến quốc gia chống thực dân Pháp.
(2).-Theo tài liệu lịch sử : Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3 năm 1946 gồm có 11 thành viên: Tôn Quang Phiệt,Trần Duy Hưng, Nguyễn Thị Thục Viên, Đỗ Đức Dục (Dân chủ Đảng), Cù Huy Cận (Dân chủ Đảng), Nguyễn Đình Thi (Việt Minh), Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ (4 vị thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng). Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo hiến pháp. Đa số cũng thuộc đảng CSVN (6/5).
Bản hiến pháp được Quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu. Sau đó, Quốc hội ra nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc hội "cùng với chính phủ ban bố và thi hành hiến pháp khi có điều kiện". Tuy nhiên, Kháng chiến chống Pháp bùng nổ vào ngày 19 tháng 12 năm 1946 đã làm việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân (Quốc hội) không có điều kiện để thực hiện. Do tình hình chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chính thức công bố và chưa từng có hiệu lực về phương diện pháp lý.