Wednesday, June 19, 2019

Bình luận: CHIẾN TRANH VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN TỆ HẠI?



Bình luận:
CHIẾN TRANH VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN TỆ HẠI?

Thiện Ý

Xuất hiện trong chương trình truyền hình ‘Chào nước Anh’ hôm 5/6 khi đang có chuyến thăm cấp nhà nước đến nước này, người đứng đầu nước Mỹ đã nói về chiến tranh Việt Nam như sau: “Tôi đã nghĩ đó là một cuộc chiến tệ hại.”; và rằng “Cuộc chiến đó không phải là điều mà chúng ta nên tham gia,”…
Phát ngôn này của Tổng thống Mỹ Donald Trump về chiến tranh Việt Nam đang gây ra những phản ứng khác nhau trong công luận, có người thông cảm, nhưng cũng có người phản đối. Sự bất đồng này mang tính chủ quan theo vị trí, cách nhìn và đánh giá của mỗi cá nhân khi bày tỏ.
Bài viết này, muốn trả lời khách quan hơn cho hai nhận định chủ quan của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.Rằng:
Chiến tranh Việt Nam có là “một cuộc chiến tệ hại như nhận định của Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump không?
Qua nhận định của Tổng thống Trump, rằng “Tôi dã nghĩ đó là một cuộc chiến tệ hại” dường như Ông muốn nói đến sự tệ hại vì “nhiều người đã chết” trong cuộc chiến này. Nhưng có lẽ Ông Trump chỉ nghĩ đến sự tệ hại đối với nước Mỹ, với cái chết của 58 ngàn chiến binh Hoa Kỳ tham chiến và hàng chục ngàn người Mỹ bị thương cách này cách khác; mà không quan tâm, có thể đã không biết đến sự tệ hại hơn nhiều về phía các bên Việt Nam, với cái chết của hàng triệu quân và dân người Việt Nam hy sinh ở cả hai chiến tuyến đối nghịch Miền Bắc (cộng sản Bắc Việt) Miền Nam ( quốc gia Nam Việt).
Có lẽ, sự tệ hại còn là vì Hoa Kỳ đã bỏ ra hàng tỷ dollar tài trợ cho một cuộc chiến  ở “một đất nước rất xa xôi và vào lúc đó không có ai từng nghe đến đất nước đó cả…” như Ông Trump nói, để cuối cùng phải rút chân ra khỏi cuộc chiến mà nhiều người Mỹ như Ông vẫn không hiểu “ điều gì đang xảy ra ở đó vậy?”. Dường như Ông không quan tâm để biết rằng, một điều tệ hại hơn nữa “đã xẩy ra ở đó”là Hoa Kỳ đã thực hiện “chính sách Việt Nam hóa chiến tranh” sau bốn năm “Mỹ hóa chiến tranh” (1965-1969) bằng cách đưa quân tham chiến trực tiếp, nói là để giúp chính phủ và nhân dân Việt Nam nhanh chóng đánh bại cuộc xâm lăng của CSBV, bảo vệ chế độ dân chủ và Miền Nam Việt Nam tự do không bị cộng sản hóa. Thế nhưng mục tiêu này đã không thành đạt, dù Hoa Kỳ đã huy động cao độ mọi khí tài, phương tiện chiến tranh hiện đại, rốt cuộc không đem lại chiến thắng, ngoài lợi nhuận khổng lồ cho các tập đoàn tư bản quân sự quốc phòng Hoa Kỳ và đồng minh. Nay lại tìm cách rút chân ra khỏi cuộc chiến bằng chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, trao lại gánh nặng chiến đấu cho quân lực VNCH (mà Việt cộng gọi là “thay màu da trên xác  chết”), với những cam kết không có bảo chứng.Hậu quả tệ hại là chỉ ít năm sau CSBV đã dùng bạo lực cưỡng chiếm được Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam ngày 27-1-1973, trước sự phủi tay của Hoa Kỳ và làm ngơ của những cam kết quốc tế.
Thực tế là như thế. Vậy mà Tổng thống đương nhiệm Hòa Kỳ đã không biết “ điều gì đang xảy ra ở đó vậy?”. Sự thể này cho thấy tình trạng Tổng thống Trump cũng như nhiều người Mỹ lúc đó và cho đến bây giờ vẫn không hiểu biết gì về sự tham dự của Hoa Kỳ vào  chiến tranh Việt Nam (1954-1975) dù đã kết thúc hơn 44 năm rồi (1975-2019), nhiều tài liệu về chiến tranh Việt Nam đã dược giải mật.
Phải chăng vì vậy mà Tổng Thống Trump đã cho rằng “Cuộc chiến đó không phải là điều mà chúng ta (người Mỹ) nên tham gia”? Ông nói thế và cho biết mặc dù lúc đó ông không xuống đường phản chiến như nhiều người, nhưng ông không hề ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Nhưng cũng có người cho rằng Tổng thống Trump nói ra điều này còn là một phản ứng mặc cảm tâm lý, vì muốn biện minh cho việc trốn tránh nhập ngũ qua chiến đấu tại Việt Nam thời tuổi trẻ, kể cả bằng cách gian lận để được cấp giấy chứng nhận ‘bị gai xương gót chân’. Các đối thủ của ông đã chỉ trích việc ông trốn lính là ‘gian trá’ và giấy tờ ông đưa ra là ‘giả tạo’. Hồi tháng Hai năm nay, ông Michael Cohen, cựu luật sư của ông Trump, đã khai trước Quốc hội rằng ông Trump ‘đã dựng lên chuyện thương tật đó’ để trốn quân dịch.
Vậy thì Tổng thống Hoa Kỳ nói  Cuộc chiến đó không phải là điều mà chúng ta nên tham gia…” có đúng không ?
Theo nhận định của chúng tôi, vấn đề không phải là nên hay không nên mà do tình thế  buộc Hoa Kỳ phải tham gia vào cuộc chiến Việt Nam. Vấn đề chỉ là Hoa Kỳ tham gia đến mức độ nào để dỡ tệ hại nhất mà vẫn thành đạt được mục đích tham chiến tối hậu của mình.
Bởi vì, sau khi Thế Chiến II  kết thúc (1939-1945) đã hình thành một cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Liên Xô đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, phất cao ngọn cờ “Cách mạng vô sản” để giải phóng giai cấp, chống các đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc bị áp bức, để xây dựng một “xã hội không còn cảnh người áp bức bóc lột người…”. Hoa Kỳ lãnh đạo phe tư bản chủ nghĩa (còn gọi là Thế giới tự do) thì phất cao ngọn cờ “Đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa tự do”. Để lôi kéo các nước nghèo yếu đi vào quỹ đạo của mình.
Liên Xô đã thông qua các đảng cộng sản bản xứ làm lính xung kích, phát động và tiến hành các cuộc chiến tranh dưới ngọn cờ “giải phóng dân tộc” (ngụy dân tộc, vì chủ nghĩa quốc tế CS không có hấp lực mà xa lạ và còn là hiểm họa gây kinh hoàng đối với người dân ở các nước) để cộng sản hóa các nước, mở mang bờ cõi cho phe XHCN. Trong tình thế này và với vai trò cường quốc lãnh đạo phe các nước tư bản chủ nghia, Hoa Kỳ buộc lòng phải tìm cách giúp các nước đang có hiểm họa bị cộng sản hóa, trong đó có Việt Nam cũng rất cần sự tham chiến của Hoa Kỳ.
Hiểm họa cộng sản hóa Việt Nam khởi sự từ năm 1930, sau khi đảng CSVN được Ông Hồ Chí Minh nhận lệnh từ Đệ tam quốc tế CS đứng ra thành lập. Cuộc nội chiến ý thức hệ giữa những người Việt Nam mang ý thức hệ quốc gia (gọi tắt Việt Quốc)  và những người Việt Nam theo ý thức hệ cộng sản (gọi tắt Việt Cộng) khởi phát từ đây. Theo thời gian cuộc nội chiến này ngày một gia tăng mức độ, cường độ, phạm vi, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975). Cuộc chiến tranh này là một giai đoạn của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam (hai giai đoạn kia là “Tiền chiến tranh Quốc- Cộng” (1930-1954) và hậu chiến tranh Quốc Cộng”(1975-nay vẫn chưa kết thúc).Vì vậy cuộc chiến tranh Việt Nam mang ý nghĩa song đôi, nội chiến giữa người Việt Nam vốn mang ý thức hệ quốc gia (Nationalism) đối kháng với ý thức cộng sản (communism). Nhưng vì cuộc chiến này lồng trong khung cảnh cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên cả hai gọi chung là cuộc chiến Việt Nam.
Cuộc chiên Việt Nam mang hai ý nghĩa song đôi này khởi sự từ năm 1954, sau khi thực dân Pháp thất thủ trận Điện Biên Phủ, đã phải ký Hiệp Định Genève 1954 chia đôi Việt Nam. Hệ quả là Pháp đã mất một nửa thuộc địa Miền Bắc Việt Nam cho Việt cộng, với đảng CSVN thiết lập chế độ độc tài toàn trị cộng sản dưới bảng hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (ngụy dân chủ ngụy cộng hòa từ trong kháng chiến chống Pháp để dấu mặt cộng sản). Thực chất cũng như thực tế đảng và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã là công cụ tri tình cho cộng sản quốc tế  làm tên lính xung kích, chủ động phát động và tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam, cộng sản hóa cả nước, mở mang bờ cõi cho phe XHCN đứng đầu là hai tân đế quốc CS Nga-Tàu.
Thế nhưng, để tạo chính nghĩa lôi kéo được quần chúng tham gia cuộc chiến này, CSBV đã ngụy trang cuộc chiến dưới ngọn cờ “ Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước” để khơi động lòng yêu nước, tinh thần chống ngoại xâm của người Việt Nam. Vì vậy, khi khởi sự phát động chiến tranh vào tháng 12-1960, CSBV đã thành lập một công cụ quân sự ngụy dân tộc là “Mặt trân dân tộc giải phóng Miền Nam” và sau đó thành lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” (1967).Cuộc chiến tranh này đã được Liên Xô, Trung cộng và các nước xã hội chủ nghĩa tài trợ tối đa tài lực, nhân lực, vũ khí đạn dược và mọi phương tiên chiến tranh hiện đại để xâm chiếm cho kỳ được Miền Nam Việt Nam.
Trong khi đó, còn nửa nước Miền Nam, sau Hiệp Định Genève 1954, Pháp phải trao trả độc lập hoàn toàn, sau khi đã trao trả độc lập từng phần cho chính quyền chính thống quốc gia của vua Bảo Đại từ 1948, qua các Thủ tướng chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Bửu Lộc, Nguyễn Văn Tâm và sau cùng là Thủ tướng chính phủ quốc gia Ngô Đình Diệm. Cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 đã truất phế vua Bảo Đại, cáo chung chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm lịch sử, chuyển đổi qua chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa và Thủ tướng Ngô Đình Diệp được coi là vị Tổng Thống đầu tiên của Đệ Nhất VNCH trên nền tảng Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956.Hệ quả tất nhiên là chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa phải thực hiện một cuộc chiến tranh tự vệ, trước mắt là để chặn đứng cuộc chiến tranh xâm lăng của CSBV để bảo vệ độc lập, chủ quyền trên một nửa đất nước còn lại như di sản của tiền nhân; để sau đó về lâu dài tìm cách thống nhất giang sơn về một mối. Thống nhất một cách hòa bình bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị VNCH và giầu mạnh của Miền Nam, đối với chế độ độc tài toàn trị cộng sản nghèo yếu, lạc hậu đang tạm chiếm Miền Bắc Việt Nam.(như thực tế nước Đức thống nhất sau Chiến tranh Lạnh, với ưu thế chế độ Tây Đức dân chủ trên chế độ Đông Đức độc tài CS…).
Tất nhiên để thực hiện được mục tiêu gần xa này, trong gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, chính quyền chính thống quốc gia VNCH rất cần và phải được sự trợ giúp toàn diện từ ngoại viện, không chỉ từ cường quốc Hoa Kỳ mà của tất cả các quốc gia đồng minh khác trong phe thế giới tự do. Điều này cũng là hiển nhiên, để đối xứng với sự chi viện tối đa mọi mặt của Liên Xô, Trung cộng và các nước XHCN cho công cụ xâm lăng của cộng sản quốc tế là CSBV.
Tuy nhiên, vấn đề chỉ là Hoa Kỳ tham chiến đến mức độ nào để dỡ tệ hại nhất mà thành đạt được mục đích tối hậu của mình. Theo nhận định của chúng tôi, thì ngay từ khi CSBV phát động cuộc chiến, Hoa Kỳ chỉ nên tham gia đúng với vai trò một nước đồng minh, có mức độ theo yêu cầu của chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa; tôn trọng, độc lập chủ quyền của một quốc gia độc lập, không can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của VNCH; coi vai trò chống cộng chủ yếu, chủ động là của VNCH và chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến giữa người Việt quốc gia và người Việt cộng sản để giải quyết mâu thuẫn ý thức hệ đối kháng; Hoa Kỳ chỉ đóng vai phụ trợ giúp, tuyệt đối không đưa quân trực tiếp tham chiến tại Việt Nam. Vì điều này sẽ (và đã) là “Mỹ hóa chiến tranh”, làm mất chính nghĩa quốc gia “độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa tự do” của chính quyền VNCH, giúp đối phương CSBV ngụy dân tộc tạo được chính nghĩa “chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng, Miền Nam, thống nhất đất nước”…Như thực tế đã xẩy ra.
Đến đây, có thể tạm kết luận là Hoa Kỳ cần phải tham gia vào cuộc chiến Việt Nam do vai trò lãnh đạo phe Thế giới tự do tư bản chủ nghĩa, để trợ giúp chính quyền chính thống quốc gia VNCH ngăn chặn, đẩy lùi hiểm họa xâm lăng của phe xã hội chủ nghĩa đứng đấu là Nga-Tàu,  trong bối cảnh cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu hình thành sau Thế chiến II. Tuyệt nhiên không phải như Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump nói, rằng “Cuộc chiến đó không phải là điều mà chúng ta nên tham gia”. Còn chiến tranh Việt Nam vẫn luôn là tệ hại (vì chiến tranh nào cũng là điều tệ hại) chẳng ai mong muốn xẩy ra. Vì đó cũng là điều mà nhân dân Việt Nam trên cả hai miền Bắc-Nam đều không bao giờ muốn có cuộc chiến tranh “cốt nhục tương tàn” này. Tất cả chỉ là nạn nhân của lịch sử và trách nhiệm lịch sử thuộc về những kẻ cầm quyền trên hai miền Bắc Nam trong cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt 44 năm qua (1975-2019)
Thiện Ý
Houston, ngày 14-6-2019

Vì sao Nguyễn Phú Trọng vẫn‘kiên định CNXH, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng’



Vì sao Nguyễn Phú Trọng vẫn‘kiên định CNXH, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng’

Thiện Ý
Theo tin tổng hợp truyền thông quốc tế và Việt Nam, thì sau nhiều tuần lễ vắng mặt, Tổng bí thư-Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ngày 6/6 tái xuất hiện qua một văn bản chỉ đạo công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào năm tới 2020. Trong văn bản này, đã “kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH” “tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng” là 2 trong số các “quan điểm định hướng” mà ông Trọng nhấn mạnh cần phải “quán triệt”.
I/- CÂU HỎI ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI ĐẶT RA
Là vì sao đến giờ này mà người đứng đầu đảng và nhà nước Việt Nam vẫn“kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH” là thế nào ? Bởi vì, ai cũng thấy là chủ nghĩa xã hội đã ở vào giờ Thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “Cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được; phải “mở cửa” cho các nước tư bản tràn vào để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Từ đó, Việt Nam, đã từng bước vượt qua khó khăn, khắc phục những hậu quả nghiêm trọng, toàn diện do xây dựng chủ nghĩa xã hội thất bại thảm hại gây ra. Đồng thời nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao và nhà cầm quyền đã phải từng bước trao trả cho người dân các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền từng bị tước đoạt nhiều năm trước đó. Mặc dù đảng và nhà cầm quyền CSVN có ngụy biện cách nào, thì người dân ai cũng biết tất cả thực tế này không phải do “chủ nghĩa xã hội” mà có được. Thực tế là nhờ con đường làm ăn “Kinh tế thị trường, theo định hướng tư bản chủ nghĩa” (là thật) dù “đảng ta” có ngụy biện là “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (là giả) thì cũng chẳng ai tin.Ngay chính Tổng Bí thư đảng CSVN cũng còn hoài nghi đến cuối Thế kỷ này không biết đã có xã hội chủ nghĩa hay chưa mà.
Sau đây chúng tôi thử đưa ra câu trả lời tổng quát cho câu hỏi vừa nêu. Theo đó, chúng tôi cho rằng trong tình cảnh lỡ chọn lầm đường (XHCN) dẫn đến hậu quả nghiêm trọng toàn diện cho dất nước về đối ngoại cũng như đối nội bao lâu nay.Nhưng vì thể diện và uy tín của tập đoàn muốn tiếp tục nắm giữ độc quyền thống trị  trong một chế độ độc tài toàn trị,Ông Trọng và đảng CSVN, cần phải tiếp tục chủ trương, chính sách lừa dối nhân dân bằng ngụy biện thêm một thời gian nữa, cho đến khi hoàn tất tiến trình “xoay trục” về đối ngoại cũng như đối nội, mà họ cho rằng theo hướng có lợi cho đảng và đất nước. Do đó, tiến trình xoay trục này cần do họ chủ động, diễn ra tịnh tiến sẽ giúp giai cấp cầm quyền “hạ cánh an toàn”, không kết thúc bi thảm như số phận các chế độ độc tài các kiểu trước đây trên thế giới, với hy vọng còn có cơ hội giữ được phần nào tài sản, quyền lợi kế thừa cho con cháu mà các cán bộ đảng viên đã tạo dựng được trong những năm cầm quyền. Nghĩa là, cho đến khi kết thúc quá trình “xoay trục” này, đảng cầm quyền vẫn phải tiếp tục giả danh “Đảng Cộng sản Việt Nam”, vẫn độc quyền thống trị trong chế độ giả hiệu “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (dù thực tế cũng như thực chất đảng và chế độ này đã chết lâm sàng từ lâu về bản thể…). Đồng thời, dù thực tế đã và đang theo con đường “kinh thế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” song “Đảng ta” vẫn phải chơi trò gian thương “treo đầu dê, bàn thịt chó”, ngụy biện rằng  “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và vì vậy, để bảo đảm cho tiến trình “Xoay trục” này theo đúng hướng, Ông Trọng mới chỉ đạo cho Đại Hội 13 của đảng CSVN, phải “kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH” “tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng” để chủ động thực hiện kịch bản “lộng giả thành chân” này.
II/- TIẾN TRÌNH XOAY TRỤC ĐỐI NGOẠI CŨNG NHƯ ĐỐI NỘI.
1.- Xoay trục đối ngoại thế nào?
   Ai cũng thấy là vì những vướng mắc nặng nề của quá khứ trong cuộc chiến cộng sản hóa Miền Nam (1954-1975), cùng với sự thất bại hoàn toàn tham vọng đưa cả nước “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” sau cuộc chiến, đã đưa Việt Nam đến sự lệ thuộc Trung cộng nhiều mặt và bị chèn ép đủ điều. Hệ quả này đã khiến các thế hệ lãnh đạo đảng CSVN không thể thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập tự chủ được.
Vì vậy, Việt Nam trên nguyên tắc, từ sau thời kỳ “Mở cửa” dường như đã có nỗ lực thoát dần “vòng Kim cô đỏ” của Trung cộng bằng cách “đa phương hóa” về đối  ngoại. Theo đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao song phương cũng như đa phương với mọi quốc gia và làm ăn với các tổ chức kinh tế quốc tế, trên cơ sở tôn trọng độc lâp chủ quyền của nhau và đôi bên cùng có lợi. Đồng thời, Việt Nam cũng thực hiện chủ trương không liên minh quân sự với nước nào, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam….
Đặc biệt, trong quan hệ với hai cường quốc hàng đầu là Hòa Kỳ và Trung quốc, nhà cầm quyền Việt Nam đã thực hiện “chính sách đối ngoại đi dây”, cố gắng giữ thế quân bình để không làm phật ý Bắc Kinh. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dầu cộng sản Hà Nội đã hết sức nhún nhường, tỏ ra thân Trung cộng hơn Hoa Kỳ, tỏ rõ sự  thần phục, nhưng Bắc kinh vẫn ỷ thế mạnh ngày một lấn lướt, ức hiếp Việt Nam, nhất là trên vấn đề tranh chấp chủ quyển hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như khai thác tài nguyên ở Biển Đông. Chính vì vậy mà dường như đảng và nhà đương quyền Việt Nam đã và đang thực hiện một chính sách “xoay trục đối ngoại” trong quan hệ với Trung quốc và  với Hoa Kỳ?
Đó là chính sách đối ngoại hai mặt: bên ngoài Việt Nam vẫn tỏ ra kiên định trong “chính sách đối ngoại đi dây” giữa Trung cộng và Hoa Kỳ. Nhưng bên trong, Việt Nam đã và đang kín đáo, thận trọng, ngày càng nghiêng dần về phía Hoa Kỳ qua các hình thức trao đổi quân sự song phương có vẻ bình thường, gia tăng theo một tốc độ vừa phải để không đưa Việt Nam vào thế đối đầu với Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng tỏ ra cảm thông và tìm cách tránh cho Việt Nam rơi vào tình trạng khiêu khích Trung Cộng, dù Hoa Kỳ thực sự cũng cần và cũng muốn Việt Nam nghiêng hẳn về mình, tạo thuận lợi cho chính sách bao vây gián chỉ tham vọng bá quyền và xâm lấn biển đảo các quốc gia trong vùng của Trung quốc, trong đó có Việt Nam. Một số hoạt động trao đổi quân sự, quốc phòng song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong thời gian gần đây mà ai cũng thấy, phải chăng là những dấu hiệu đã thể hiện cụ thể cho chính sách ngọai giao xoay trục này của Việt Nam?
Tất nhiên, Trung cộng chắc cũng đoán biết được ý đồ “xoay trục đối ngoại” này của Việt Nam. Nhưng chúng tôi nghĩ, vấn đề là lãnh đạo Việt Nam có đủ khôn ngoan, tránh né được những đòn cản hay trừng phạt của Trung cộng, để hoàn tất ở cuối quá trình xoay trục một thế dựa  vững chắc để “thoát Trung”, trong thế chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình dương mà Hoa Kỳ và các cường quốc đồng minh đã và đang thực hiện nhằm bảo vệ cho các quốc gia nhỏ yếu trong vùng, trong đó có Việt Nam, trước tham vọng của bá quyền Trung quốc. 
Một số sự kiện mới đây theo chiều hướng này có lợi cho chính sách “xoay trục đối ngoại” của Việt Nam được truyền thông loan tải:
Tại hội thảo nhan đề ‘Diễn đàn Ngoại giao Meridian: Các nước sông Mê Kông’ do Trung tâm Quốc tế Meridian tổ chức hôm 6/6 tại thủ đô Washington D.C.
Ông Mark Clark, quyền phó trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, Văn phòng Đông Á và Thái Bình Dương sự vụ, phát biểu tại buổi hội thảo, rằng mặc dù  5 nước trong khu vực này chỉ có Thái Lan là nước có quan hệ đồng minh theo hiệp ước với Mỹ, nhưng Việt Nam lại được đánh giá là ‘đối tác ngày càng quan trọng’,
Ông Randall Schriver, trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng phụ trách An ninh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cũng có nhận định như thế về tầm quan trọng của Việt Nam đối với Mỹ trong chiến lược an ninh mới của Washington trong khu vực.Ông chỉ ra liên tục các chính quyền Mỹ khác nhau đều đã tích cực xây dựng mối quan hệ với Việt Nam và cho rằng chính quyền của Tổng thống Donald Trump ‘đưa quan hệ này lên một mức độ cao hơn nữa’
Ông Jim Webb, cựu thượng nghị sỹ liên bang Hoa Kỳ, Trả lời câu hỏi của VOA rằng Mỹ có sẵn sàng nâng cấp quan hệ ‘đối tác toàn diện’ Việt-Mỹ thành ‘đối tác chiến lược’ hay không, nói rằng ‘bất cứ khi nào chúng tôi có thể cải thiện quan hệ với Việt Nam thì chúng tôi nên làm’.
Trả lời câu hỏi cũng của VOA về làm sao Mỹ-Việt có thể mở rộng quan hệ chiến lược mà không chọc giận Trung Quốc, ông Webb lưu ý rằng Việt Nam ‘luôn muốn đảm bảo rằng họ nằm ở giữa các cường quốc (tức không ngả về một bên nào)’.
2.- Xoay trục đối nội thì sao?
Để phù hợp với “xoay trục về đối ngoại” đảng và nhà cấm quyền CSVN cũng đã và đang tìm cách “xoay trục về đối nội” trên hai trục chủ yếu là chính trị và kinh tế theo một tốc độ vừa phải, chủ động và có thể điều tiết được.
Bề ngoài bao lâu nay đảng và nhà cầm quyền Việt Nam vẫn khẳng định “đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị” nhưng thực tế ai cũng thấy “đổi mới kinh tế đã và đang đổi mới chính trị”. Vì như chúng tôi đã lập luận trong các bài viết trước đây, rằng trong môi trường mật ngọt kinh tế thị trường “vi trùng độc tài” tiêu vong dần (mật ngọt chết ruồi mà) song song với “sinh trùng dân chủ” lớn dần. Sau một quá trình thời gian phù hợp, chế độ độc tài toàn trị sẽ chuyển đổi tịnh tiến qua chế độ dân chủ pháp trị theo quy luật duy vật biện chứng “lượng đổi, chất đổi” như con ngài sau một thời gian biến hóa thành con bướm, hay nước đun sôi đến 100 độ C thì bốc hơi. Chính vì vậy mà Ông Tổng Trọng đã nhiều lần cảnh giác cán bộ đảng viên cộng sản về “âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch” và lưu ý hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” đang diễn ra trong nội bộ đảng ngày một nghiêm trọng. Chúng tôi đánh giá sự cảnh giác này của Ông Trọng có tính chiếu lệ, vì hơn ai hết Ông phải biết rõ đó là “chiều hướng tất yếu không thể đảo ngược”. Kính tế thị trường tất yếu đi đến chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng, để rồi coi có đúng vậy không nào?
Do đó nói gì thì nói, Ông Trọng và đảng cầm quyền của Ông vẫn đã và đang cố gắng chuyển đổi lý luận từ “lập trường giai cấp với chủ nghĩa xã hội” qua “lập trường dân tộc với chủ nghĩa yêu nước” để tìm sự hậu thuẫn của người dân.Đồng thời chuyển đổi thực tế từ độc tài toàn trị qua hướng dân chủ pháp trị để từng bước đáp ứng đòi hỏi chính đáng của nhân dân và xu thế thời đại. Mặc dầu bề ngoài đảng và nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tỏ ra cứng rắn trong các biện pháp trấn áp các tiếng nói đối lập đấu tranh cho dân chủ, có thể chỉ là để chủ động được  tiến trình xoay trục, tránh bất ổn chính trị xáo trộn xã hội thế thôi…
Phải chăng vì thế mà trong bài viết dài gần 7 trang gửi cho các cấp ủy đảng về công tác chuẩn bị đại hội, mà báo chí Việt Nam đồng loạt đăng tin vào ngày 6/6, người đứng đầu nhà nước và đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra 6 “quan điểm định hướng”.
Ngoài hai quan điểm đầu tiên là “kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc (đang củng cố là thật) gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin (đã tiêu vong là động thái giả để che đậy), tư tưởng Hồ Chí Minh (là trờ về với chủ nghĩa yêu nước trước khi Ông Hồ  đến với chủ nghĩa xã hội)” và “tăng cường vai trò của Đảng” (để chủ động được tiến trình xoay trục), ông Nguyễn Phú Trọng nhắc đến việc “phát huy dân chủ rộng rãi, tập hợp cao độ trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân”, “chỉnh đốn Đảng”, “nâng cao niềm tin” đối với Đảng, “đổi mới công tác nhân sự”, tiếp tục phòng chống tham nhũng…
III/- KẾT LUẬN.
Tổng Bí thư –Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nói thế nhưng không phải thế đâu. Ông chỉ đạo bằng văn bản cho các mục tiêu của Đại Hội 13 cùa đảng CSVN, trong đó có “kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”chỉ là mục tiêu giả vì “Thời thế thế thời phải thế” thôi. Sự kiên định mục tiêu này Ông Tổng cũng chỉ nhắc lại định thức chung “Kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” (đã là mục tiêu giả). Vì “kinh tế thị trường,(tất yếu) định hướng tư bản chủ nghĩa” (mới là mục tiêu thật mà Đảng đang hướng tới để có cái giai đoạn kinh tế tư bản phát triển trước đã,theo đúng lý luận của Marx, xã hội chủ nghĩa tính sau… ).
Tuy nhiên Ông Tổng và “Đảng ta” chắc thâm tâm cũng mong người dân  thông cảm cho hoàn cảnh chẳng đặng đừng buộc phải “nói lái” không thể “nói thật” được. Vậy chúng ta chỉ còn cách “chờ xem” thực tế sự thật sẽ là thế nào? Sự thật có phải Ông Tổng và các lãnh đạo hàng đầu “Đảng và Nhà nước ta” đã và đang “xoay trục đối ngoại” cũng như “Xoay trục đối nội” theo chiếu hướng có lợi cho đất nước, phù hợp với ý nguyên của quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước hay không?
Thiện Ý
Houston, ngày 12-6-2019

Công lý cho nạn nhân formosa



Công lý cho nạn nhân formosa

Thiện Ý

Chúng tôi vừa nhận được bản tin ngày 27-5-2019 từ hội Công Lý Cho Nạn Nhân Formosa (JFFV). Theo đó, Trước những bằng chứng mới đây về việc công ty gang thép Formosa Hà Tĩnh tiếp tục xả thải hóa học độc hại vào biển và hàng triệu tấn thải rắn lan tràn, thay mặt cho hàng ngàn nạn nhân bị ảnh hưởng vì thảm họa môi trường Formosa, nên Hội này đã chính thức gửi đơn khiếu nại lên Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc có trụ sở ờ Genève Thụy Sĩ,  để tố cáo những vi phạm môi trường của công ty Formosa qua việc xả thải làm cá chết và ô nhiễm môi trường cũng như những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng của nhà cầm quyền Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề bồi thường cho nạn nhân.

Bản tin của Hội Công Lý cho nạn nhân Formosa cho hay, đơn khiếu nại gồm 2 văn bản:

I. Văn bản thứ nhất gồm 20 trang nêu 6 vi phạm trầm trọng của nhà nước Việt Nam; bao gồm (1) vi phạm quyền được sống trong môi trường, bình an, trong sạch và lành mạnh, (2) quyền hưởng thực phẩm sạch và lành mạnh, (3) quyền được làm việc và phương tiện sinh sống, (4) quyền được biết những thông tin và quyền được phát biểu, (5)quyền tự do lập hội và (6) quyền khắc phục những mất mát một cách hữu hiệu.

Đơn tố khiếu nại cũng yêu cầu Ủy Ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc hãy khuyến cáo và có biện pháp chế tài thích đáng với nhà nước Việt Nam nếu họ không thực hiện những điểm sau đây:

1.- Thành lập một Ủy Ban điều tra để tìm hiểu và đòi hỏi việc bảo đảm cho tất cả nạn nhân phải được đền bù xứng đáng về những mất mát vật chất cũng như tinh thần.
2.-Thành lập một Ban điều tra độc lập gồm có những chuyên viên quốc tế tham dự để tìm hiểu ngọn ngành những gì đã xảy ra và ai là những người phải chịu trách nhiệm.

3.- Thành lập nhóm làm việc của Ủy Ban Nhân quyền để tái đàm phán với công ty Formosa về tiền bồi thường cho nạn nhân một cách công bằng.

4.- Nhà nước CSVN phải:
   -  Làm ra những luật lệ bảo đảm về môi trường và sự thanh tra chặt chẽ. Đồng thời đưa ra những đạo luật với những hình phạt nặng nề đối với những người vi phạm để phòng ngừa những thảm họa môi trường như Formosa không thể xảy ra.
   - Thường xuyên kiểm soát và đánh giá sự an toàn của nước.
   - Thả lập tức và vô điều kiện các tù nhân lương tâm, cũng như bảo đảm quyền phát biểu của người dân.

5.- Thành lập nhóm nghiên cứu quốc tế, độc lập và chuyên ngành về những chất độc và những dung dịch độc hại để theo dõi tình trạng an toàn của nước để bảo đảm người dân có nguồn thực phẩm hải sản an toàn,

II. Văn bản thứ hai dài 18 trang có nội dung tương tự và được gửi tới các Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc để thành lập những Ủy Ban điều tra dưới đây:

1.-Working Group on the issue of human rights and transnational corporations and other business enterprises: ·Mr. Githu Muigai; Mr. Surya Deva; Ms. Elzbleta Karska; Ms. Anita Ramasastry; Mr. Dante Pesce

2.-Special Rapporteur on human rights and the Environment : Mr. David R. Boyd Special Rapporteur on the right to food: ·Ms. Hilal Elver
3.-Special Rapporteur on the promotion and protection of the right to freedom of opinion and expression: ·Mr. David Kaye
Special Rapporteur on the rights to freedom of peaceful assembly and of association: ·Mr. Clement Nyaletsossi Voule

4.-Special Rapporteur on the implications for human rights of the environmentally sound management and disposal of hazardous substances and wastes: Mr. Baskut Tuncak

5.- Special Rapporteur on the right of everyone to the enjoyment of the highest attainable standard of physical and mental health: Mr. Dainius Puras

Vẫn theo Bản tin trên, theo thủ tục, Ủy Ban Nhân Quyền sẽ cứu xét và sẽ có thư trả lời cho hội JFFV về quyết định của Ủy Ban. Điều mà hội JFFV mong mỏi là Ủy Ban Nhân Quyền sẽ lập một nhóm điều tra để nếu họ tìm ra những vi phạm, họ sẽ có thế đưa ra những quyết định khuyến cáo hoặc các biện pháp chế tài tùy theo mức độ vi phạm.

Chúng tôi cho rằng, cách ứng xử khôn ngoan nhất, là nhà đương quyền Việt Nam cần quan tâm đúng mức đến  những yêu cầu hợp tình hợp lý của đơn khiếu nại này để chủ động thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu ngõ hầu chấm dứt vĩnh viễn thực trạng công ty gang thép Formosa Hà Tĩnh tiếp tục xả thải hóa học độc hại vào biển và hàng triệu tấn thải rắn lan tràn, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển của Việt Nam. Vì thực trạng này có ảnh hưởng sống còn lâu dài đến đời sống ngư dân ven biển và sức khỏe của người dân tiêu thụ cá đánh bắt từ các vùng biển bị ô nhiễm các chất độc thải của Formosa. Đồng thời, đề nghị chính quyền chức năng Việt Nam cần nghiêm túc xem xét, kiểm tra lại xem mức độ bồi thường cho các nạn nhân Formosa mấy năm trước đây có công bình, hợp lý và thỏa đáng và có thực sự đến tay các nạn nhân Formosa hay đi về đâu; để điều chỉnh theo đúng những đòi hỏi chính đáng và hợp pháp của các ngư dân bị thiệt hại trước mắt cũng như lâu dài.

Thiện Ý

Houston, ngày 1-6-2019