Thursday, August 9, 2018

NHẤT NGUYÊN CỘNG SẢN VÀ NHẤT NGUYÊN CHỐNG CỘNG SẢN LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM.



NHẤT NGUYÊN CỘNG SẢN VÀ NHẤT NGUYÊN CHỐNG CỘNG SẢN LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM.

Thiện Ý
Nhất nguyên cộng sản (The mono-communist) và nhất nguyên chống cộng (The mono-anticommunist) là gì? Vì sao hai cái nhất nguyên “đối kháng” này lại làm chậm tiến trình dân chủ hóa Việt Nam? Nội dung bài viết nhằm giải đáp hai câu hỏi vừa nêu.

I/- NHẤT NGUYÊN CỘNG SẢN VÀ NHẤT NGUYÊN CHỐNG CỘNG LÀ GÌ?

1.- Nhất nguyên cộng sản: là con đường những người Việt Nam theo ý thức hệ cộng sản, tập hợp dưới bảng hiệu đảng Cộng sản Việt Nam (gọi tắt là Việt Cộng), đã và đang theo đuổi để thiết lập chế độ độc tài tòan trị duới sự thống trị độc tôn và độc quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện chủ nghĩa nhất nguyên cộng sản tại Việt Nam. Những người theo chủ nghĩa nhất nguyên này coi con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa (giai đoạn đầu) tiến đến xã hội cộng sản chủ nghĩa(cùng đích) là duy nhất đúng. Từ đó, họ không chấp nhận bất cứ cái nguyên nào khác; và vì vậy họ đã bằng mọi cách tiêu diệt bất cứ ai chủ trương và có hành động thực hiện chủ nghĩa dân chủ đa nguyên đa đảng tại Việt Nam.

2.- Nhất nguyên chống cộng sản: là con đường những người Việt theo ý thức hệ quốc gia (gọi tắt là Việt Quốc) đã và đang theo đuổi để chống lại con đường nhất nguyên cộng sản chủ nghĩa, nhằm lật đổ chế độ độc tài toàn trị, để thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam (cùng đích).Nhưng để đạt được cùng đích này,một số người Việt quốc lại coi chủ trương, đường lối chống cộng của mình là duy nhất đúng, không chấp nhận chống cộng đa nguyên, nên bằng mọi cách loại trừ bất cứ chủ trương đường lối chống cộng nào khác mình.
Cả hai con dường nhất nguyên cộng sản và nhất nguyên chống cộng sản, tuy mục tiêu khác nhau, đối kháng nhau, nhưng đều có chung một đặc tính chủ quan, cực đoan, coi con đường, phương thức thực hiện để đi đến mục tiêu tối hậu của mình là duy nhất đúng, không chấp nhận và quyết liệt loại trừ bất cứ cái nguyên nào khác cái nguyên của mình. Cả hai cái nhất nguyên đối kháng này đều dẫn đến hệ quả làm chậm tiến trình dân chủ hóaViệt Nam. Vì sao?

II/- VÌ SAO CẢ HAI NHẤT NGUYÊN “ĐỐI KHÁNG” NÀY LẠI LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM?
 
Vì cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài quá lâu chưa phân thắng bại do các mục tiêu tối hậu của Việt cộng (xây dựng chủ nghĩa xã hội) cũng như Việt quốc (dân chủ hóa đất nước)chưa bên nào thành đạt.Trong khi tình hình thế giới chuyển biến rất nhanh đã ảnh hưởng đến tình hình quốc nội Việt Nam, tạo chuyển biến nội bộ cả hai phe Quốc-Cộng. Hệ quả là, nội bộ Việt Cộng đã phân hóa thành hai con đường nhất  nguyên cộng sản và đa nguyên dân chủ xã hội. Trong khi từ nội bộ Việt Quốc thì cũng phân hóa thành hai con đường nhất nguyên chống cộng và đa nguyên chống cộng.

1.- Vì sao nhất nguyên cộng sản làm chậm tiến tình dân chủ hóa Việt Nam?
    
Vì chiều hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam là Việt Nam phải có tự do dân chủ; chế độ độc tài toàn trị độc đảng nhất nguyên cộng sản sớm muộn phải bị tiêu vong  để hình thành chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên, đa đảng tại Viêt Nam. Chiều hướng phát triển này không thể đảo ngược, vì phù hợp với xu thế thời đại toàn cầu hóa về kinh tế (thị trường tự do hóa) và chính trị (dân chủ hóa chế độ độc tài các kiểu)trên phạm vi toàn cầu.  Vì thế những người cộng sản Việt Nam nào còn theo đuổi con đường nhất nguyên cộng sản chủ nghĩa là đi ngược với chiều hướng phát triển và xu thế này, tạo sức cản làm chấm tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.
    
Thật vậy, sau khi Liên Xô sụp đổ kéo theo sự tiêu vong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu vào cuối thp niên 1980 và đầu thập niên 1990, nội bộ đảng CSVN đã chuyển biến theo chiều hướng số lượng đảng viên cộng sản mất đức tin vào chủ nghĩa cộng sản ngày một gia tăng, cho đến bây giờ thì hầu như đã mất đức tin toàn đảng. Trên thực tế chỉ còn một thiểu số đảng viên CS nắm quyền, bề ngoài vẫn phải tiếp tục tuyên xưng “đức tin cộng sản” ( như một tôn giáo vô thần) làm vỏ bọc cho tham vọng nắm quyền thống trị độc tôn, độc tài kéo dài thêm thời gian, dù thâm tâm họ đều biết sự tiêu vong đã là một tất yếu. 
    
Thế nhưng, dù mất đức tin toàn đảng, biết rằng chủ nghĩa cộng sản đã ở “Giờ thứ 25”, không thể và vĩnh viễn không bao giờ có thể thực hiện được tại Việt Nam, cũng như trên tòan thế giới; song để duy trì và bảo vệ ưu quyền đặc lợi của một tập đoàn thống trị độc quyền, nên bề ngoài một bộ phận thiểu số trong Cộng đảng Việt Nam đang nắm quyền vẫn cố giữ cái vỏ “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” như một chiêu bài lừa mị; vẫn bảo nhau bầy tỏ quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nambằng con đường “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa(lừa bịp),dù thâm tâm đều biết là thực tế kinh tế thị trường(tất yếu phải) định hướng tư bản chủ nghĩa(là thực).
    
Mặc dầu  một bộ phận Cộng đảng Việt Nam vẫn cố giữ cái vỏ nhất nguyên “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” chỉ là thiều số, nhưng nhờ ưu thế nắm quyền, lại được chống lưng của Cộng đảng Trung quốc, nên đã và đang tiếp tục thẳng tay trấn áp nhân dân và thanh trừng những đảng viên cộng sản nào “phản tỉnh”, hay “mất đức tin cộng sản” dù chiếm đa số. Những đảng viên cộng sản này dù tại chức hay đã về hưu, ai mà dám công khai bầy tỏ quan điểm hay có hành động tham gia cùng quần chúng nhân dân đấu tranh chống lại con đường nhất nguyên độc tài cộng sản, lập tức bị trấn áp bằng khai trừ, tước đoạt mọi ưu quyền đặc lợi của một đảng viên. Thực trạng này dẫn đến xung đột nội bộ đảng cộng sản Việt Nam giữa hai khuynh hướng bảo thủ “nhất nguyên cộng sản” và cấp tiến “ đa nguyên dân chủ xã hội”. Hệ quả là đã phá nát sự đòan kết, sức mạnh cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành nội bộ đảng, bộ máy nhà nước và đẩy chế độ độc tài toàn trị CS hiện nay theo chiều hướng tiêu vong từng bước tiến đến tiêu vong hoàn toàn về mặt bản thể đã là một tất yếu khách quan. Đây là một sự chuyển thể tịnh tiến mà Cộng đảng ngoài miệng thường hô hoán là âm mưu “Diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch”, nhưng thực tế đã và đang phải uốn mình theo diễn biến hòa bình, sẵn sàng đóng vai trò công cụ chiến lược quốc tế mới trong vùng, vì quyền lợi của một tập đòan thống trị độc quyền trong hiện tại, để được tồn tại trong chiều hướng mới ở tương lai. Vì thế đã có hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” đã và đang diễn ra một cách gia tốc trong nội bộ đảng CSVN, khiến các lãnh đạo chóp bu của “Đảng Ta” chỉ còn biết cảnh giác các đảng viên như một nguy cơ có thể làm “Mất đảng”. Đây là nỗ lực ngăn cản làm chậm lại diễn tiến này, tức là làm chậm tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.
    
Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bầy trong bài viết trước đây để cho thấy những căn cứ  trả lời cho câu hỏi “Vì sao cộng sản Việt Nam suy mà chưa sụp”. Một trong những căn cứ ấy là sự ngoan cố của thiểu số tập đoàn cộng sản cầm quyền hiện nay, dù biết rằng “con đường nhất nguyên xã hội chủ nghĩa” đã thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn trên toàn thế giới và tại Việt Nam là không bao giờ đi đến “xã hội chủ nghĩa không tưởng”. Chính người đứng đầu tập đoàn công sản nắm quyền hiên nay là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng thú nhận “cho đến cuối thiên niên kỷ 21 này không biết Việt Nam đã có xã hội chủ nghĩa hay chưa”. Thế những tập đoàn thiểu số nắm quyền này vẫn lừa bịp trắng trợn nhân dân bằng sự kiên định tiếp tục thực hiện mục tiêu xậy dựng “Xã hội Chủ nghĩa” bằng “con đường kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.Chính hành động ngoan cố của tập đoàn “nhất nguyên cộng sản này” đã làm tiến trình dân chủ hoá Việt  Nam bị chậm lại, dù nó không thay đổi được chiếu hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam, rằng chế độ độc tài cộng sản tại Việt Nam tất yếu phải tiêu vong để hình thành chế độ tự do dân chủ pháp trị đích thực theo đúng ý nguyện của toàn dân.

2.- Vì sao nhất nguyên chống cộng sản cũng làm chậm tiến trình dân chủ hóa Việt Nam?

Vì trong nhiều thập niên qua,người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản chống chế độ nhất nguyên cộng sản độc tài, độc đảng là để thành đạt mục tiêu tối hậu là thiết lập chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Muốn thành đạt mục tiêu tối hậu này, điều tiên quyết là Việt quốc phải  đoàn kết thống nhất được mọi khuynh hướng và lực lượng chống cộng để kết hợp được sức mạnh  tổng hợp, toàn diện đối nội cũng như đối ngoại của các lực đẩy, lực xoay cùng chiều về phía dân chủ. Nhất nguyên chống cộng đã làm phân hóa lực lượng chống cộng là giúp nhất nguyên cộng sản tồn tại thêm thời gian, cũng là làm cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam chậm lại.Bởi vì khuynh hướng này đã quyết liệt chông lại khuynh hướng chống cộng đa nguyên trên thực địa cũng như trên lãnh vực truyền thông đại chúng.

Thật vậy, sau khi chiến tranh Quốc - Cộng (1954-1975) kết thúc vào ngày 30-4-1975, cuộc nội chiến ý thức hệ quốc-cộng tại Việt Nam bước vào giai đoạn cuối cùng để khẳng định chân lý thuộc về ai, chung cuộc Việt quốc và Việt cộng ai thắng ai. Do tương quan lực lượng không cân sức giữa Việt quốc và Việt cộng, nên hơn 40 năm đã qua, kết quả chung cuộc vẫn chưa có được, dù đã đẩy được chế độ độc tài nhất nguyên cộng sản lùi dần về phía dân chủ đa nguyên. Trước những biến chuyển ngày một gia tốc của tình hình quốc tế và quốc nội nội, ngày càng có đông người Việt quốc gia chống cộng muốn đi theo con đường đa nguyên chống cộng để phù hợp với chiến luợc toàn cầu mới sau Chiến tranh Lạnh (Cold War) của các cường quốc cực, để có hiệu quả hơn, để mau chóng thành đạt mục tiêu tối hậu của sự nghiệp chống cộng là dân chủ hóa cho Đất nước.

Thế nhưng, mặc dầu khuynh huớng đa nguyên chống cộng dường như khá đông nhưng vẫn giấu mặt, chỉ có rất ít cá nhân hay chính đảng quốc gia dám bầy tỏ công khai một cách dè dặt, có tính thăm, chấp nhận bị đánh phá, bôi bẩn, xuyên tạc, chụp mũ “tay sai cộng sản nằm vùng”, “hòa giải hòa hợp với Việt cộng” do phản ứng của những kẻ cực đoan trong khuynh hướng nhất nguyên chống cộng biểu hiện công khai còn mạnh mẽ. Vì thực tế tại hải ngọai, mặc dầu khuynh hướng nhất nguyên chống cộng không hẳn còn là đa số; vì theo quy luật thời gian sau hơn 40 năm kết thúc chiến tranh Quốc-Cộng, số người theo khuynh hướng này đã mai một dần.Thế nhưng khuynh hướng này vẫn ở thế mạnh vì vẫn nắm “Chính nghĩa chống cộng truyền thống  từ thời Việt Nam Cộng Hòa”; nay tiếp tục thực hiện phương thức và kinh nghiệm chống cộng trong thời chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975). Họ vẫn tin rằng con đường chống cộng này đã có hiệu quả và là con  đường duy nhất đúng dẫn đến thắng lợi  sau cùng.Do đó đã có phản ứng quyết liệt để chống lại, loại trừ từ trong trứng nước những khuynh hướng đa nguyên chống cộng nào mà khuynh hướng “Nhất nguyên chống cộng” cho là đã đi ngược lại chủ trương “Bất hợp tác, không đối thoại, không hoà giải hòa hợp với Việt cộng, đối kháng đến cùng để tiêu diệt chế độ độc tài toàn trị nhất nguyên cộng sản(nhưng chưa đưa ra được phương cách tiêu diệt VC nào có tính thuyết phục),để thiết lập chế độ dân chủ đa nguyên tại Việt Nam(cũng chưa đưa ra được mô hình chế độ dân chủ nào có tính khả thi, phù hợp thực trạng Việt Nam hậu CS) ”. Điển hình không cần viết ra thì người ta cũng có thể tìm thấy khá nhiều trong sinh hoạt đấu tranh chống cộng ở hải ngoại, với các trường hợp xung đột quyết liệt, giữa cá nhân với cá nhân hay với các tổ chức, đảng phái chống cộng. Những xung đột có thễ diễn ra trên sinh hoạt chống cộng thực địa hay trên lãnh vực truyền thông trên mạng, có khi “cạn tàu ráo máng” giữa hai khuynh hướng “nhất nguyên chống cộng”“đa nguyên chống cộng ”
Hệ quả của sự xung đột dẫn đến phân hóa trong nội bộ Việt quốc, lại được đối phương Việt cộng khai triệt để qua “Đặc tình thực địa” và “Đặc tình truyền thông” để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ hay tạo ra mâu thuẫn để  phá nát sự đòan kết, sức mạnh cơ cấu tổ chức chống cộng vốn đã lỏng lẻo, làm băng hoại niềm tin quần chúng chống cộng vào vai trò lãnh đạo chống cộng của các cá nhân hay các chính đảng Quốc gia và niềm tin tất thắng của chính nghĩa đấu tranh chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam. Hệ quả thực tế là ngày càng có nhiều người không tham gia các hoạt động chống cộng và công ích trong các tổ chức cộng đồng tỵ nạn cộng sản. Nhưng, trong mọi trường hợp, dù chán nản, vẫn kiên định  ý chí chống cộng đến cùng, không bỏ cuộc và khi cần vẫn có hành động tham gia hay yểm trợ công cuộc chống cộng theo khả năng. Nghĩa là phần đông người Việt hải ngọai, vẫn tin tưởng cuối cùng “chính nghĩa Quốc gia dân tộc dân chủ” tất thắng “ngụy nghĩa cộng sản, phi dân tộc, độc tài, phản dân chủ”.
    
Tất nhiên,mọi hệ quả này, nếu bất lợi cho nội bộ Việt quốc, thì lại có lợi cho đối phương Việt cộng, giúp đối phương kéo dài thời gian thống trị độc tài, độc tôn và độc quyền. Và như thế, sự thành đạt mục tiêu tối hậu của chống cộng là “dân chủ hóa đất nước” sẽ chậm lại, sẽ mất thêm thời gian. Mặc dù đó đã là một tất thắng của chân lý, là chiếu hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sự Việt Nam, rằng: Chính nghĩa quốc gia dân tộc dân chủ  tất thắng ngụy nghĩa cộng sản độc tài, độc tôn, phản dân chủ;    dân chủ đa nguyên tất thắng độc tài toàn trị nhất nguyên cộng sản và các kiểu độc tài toàn trị khác. Vì chiều hướng này phù hợp với xu thế không thể đảo ngược của thời đại:Dân chủ hóa các chế độ độc tài và thị trường tự do hóa các nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu.

III/- KẾ`T LUẬN.
    Phải thấy rằng có sự khác biệt giữa sự phân hóa đưa đến xung đột nội bộ nhất nguyên cộng sản và sự phân hóa nội bộ nhất nguyên chống cộng sản: Việt cộng thì phân hóa cả mục tiêu tối hậu lẫn con đường đi đến mục tiêu tối hậu. Việt Quốc thì vẫn thống nhất trong mục tiêu tối hậu, chỉ phân hóa con đường đi đến mục tiêu tối hậu mà thôi. Và vì vậy hệ quả của sự phân hóa dẫn đến xung đột nội bộ hai nhất nguyên này rất khác nhau, trái chiều nhau.

Nhận định khách quan: Sự phân hóa nội bộ nhất nguyên cộng sản hiện nay là có lợi cho mục tiêu chống cộng của Việt quốc là dân chủ hóa cho quê Mẹ Việt Nam. Vì đa số “phản tỉnh” trong nội bộ cộng đảng Việt Nam đã di theo con đường “đa nguyên Dân chủ xã hội” mặc nhiên trở thành đồng minh của Việt quốc thì tại sao không thể kết hợp để gia tốc cho tiến trình dân chủ hóa đất nước?. Đồng thời nhất nguyên chống cộng  và đa nguyên chống cộng đều có chung cùng đích “dân chủ hóa đất nước”, thay vì chống phá lẫn nhau, làm phân hóa nội bộ, mất niềm tin trong hàng ngũ chống cộng,làm giảm sức mạnh chiến đấu và làm chậm tiến trình dân chủ hóa Việt Nam; thì tại sao hai khuynh hướng chống cộng không ngồi lại với nhau, kết hợp với “đa nguyên dân chủ xã hội” của những người cộng sản phản tỉnh,  để cùng hoạch định và tiến hành một sách lược chống cộng chung, khả thi, có hiệu quả để sớm đưa tiến trình dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam đến kết thúc nhanh chóng hơn ?
 Thiện Ý

*  Góp ý về bài viết này của Gs. Tạ Văn Tài: Tiến sĩ chính trị học, nguyên giáo sư Học Viện Quốc gia Hành chánh, Đại học Luật khoa Saigon và các Trường Luật Việt Nam, hiện là giảng sư và phụ khảo nghiên cứu Harvard Law School.
  Cám ơn Thiện Ý về bài này, và xin góp ý: Tạ Văn Tài
     Với cách trình bày rõ ràng các nhận định và lập luận, đặc biệt với chữ màu đỏ khi nói về phe cộng sản và chữ màu xanh khi nói về phe chống cộng, anh Thiện Ý đã tỏ ra là một lý thuyết gia về các vấn đề chiến lược lớn. Anh đã tả rõ thực tế chia rẽ nội bộ trong 2 phe, do khuynh hướng nhất nguyên ở mỗi nơi muốn đè bẹp khuynh hưóng đa nguyên ở nơi đó, và làm hại cho chính quyền lợi hay mục tiêu tối hậu của họ.
     Tôi xin góp ý thế này: đó là sự xung dột, trong cả hai phe, giữa GIÁO ĐIỀU cứng nhắc và nguyên tắc suy tư và hành động KHÔNG giáo điều mà THEO THỰC TIỄN (PRAGMATISM) MÀ TÌM QUY LUẬT THỰC CỦA XÃ HỘI MÀ HÀNH ĐỘNG THÍCH ỨNG, QUYỀN BIẾN-THỰC TIỄN trong sinh Hoạt xã hội này cũng là theo TINH THẦN KHOA HỌC  là tự do tư tưởng để theo đuổi các gỉa thuyết khác nhau, thử nghiệm mãi, không gạt bỏ mà cũng xét đến gỉa thuyết hay ý kiến trái ngược nào ai khác đưa ra, cho đến khi tìm được giả thuyết nào gần sự thực của thiên nhiên và thực trạng xã hội con người nhất (và ngay gỉa thuyết này cũng sẽ tiếp tục thử nghiệm mãi để điều chỉnh nếu cần).
     Cái tư tưởng giáo điều trong việc điều hành kinh tế trong nước trước "Đổi Mới" đã làm Việt Nam lụn bại cho đến khi họ nhận ra phải "đổi mới hay là chết", giáo điều cũng phải nhượng bộ thực tiễn quy luật xã hội, cho nhân dân "phá rào" trả thuế theo lối "khóan sản phẩm" và làm kinh  tế tư  và tìm ra lối thoát kinh tế thị trường và mở cửa, tạo nên việc phát triển sau đó. Cái giáo điều trong khuynh hướng muốn cấm vận cho "Việt Cộng chết luôn" trong một số những người chống cộng giáo điều vào đầu thập niên 1990 đã kém sáng suốt hơn khuynh hướng mềm dẻo muốn bỏ cấm vận để người dân trong nước đỡ khổ và có căn bản tự chủ trong đời sống kinh tế nên dám đòi hỏi nhiều tự do kinh tế và xã hội hơn  và cuộc thử nghiệm bỏ cầm vận của Mỹ  từ năm 1995 đã chứng tỏ trong nước dần dần có tự do kinh tế và xã hội hơn (tuy chưa có tự do chính trị theo nguyên lý dân chủ). Tôi cũng tin tưởng như anh Thiện Ý là đa nguyên, không giáo điều, cho tự do tư tưởng  để tìm tòi con đường đúng nhất sau các lần  thử nghiệm, theo tinh thần khoa học và theo châm ngôn Voltaire về sinh hoạt xã hội ("tôi không đồng ý với anh nhưng sẽ liều chết để bảo vệ quyền tự do tư tưỏng và phát biểu của anh") CUỐI CÙNG SẼ THẮNG TRONG TƯƠNG LAI, vì nó hợp vói lòng người trong đại đa số nhân dân, ở cả hai phe cộng sản và chống cộng.  Giới trẻ ở cả hai phe sáng suốt, đã theo khuynh hướng đa nguyên, không giáo điều, tự do khám phá đường lối mới; và chỉ còn một ít "cây cổ thụ" của mỗi phe
còn cứng nhắc mà thôi; mà cứng nhắc là vì thâm tâm muốn đổi mới rồi nhưng sợ diễn tiến hoà bình mau quá thì chết  không được "quốc táng" mà lại còn có thể mồ mả không yên (đó là ở trong nước họ diễn tả việc rút lui dần nhưng vẫn cố tự vệ của các "cây cổ thụ"); hoặc là nói chống cộng bằng mồm tại hải ngoại cho sướng miệng (tuy cũng có thể hiểu được kinh nghiệm  đau khổ của họ) mà không đưa ra g
iải pháp nào cho giới trẻ trong việc tìm giải pháp khả thi cho giới trẻ khi họ nghĩ tới việc làm cái gì đó cho hay tại Việt nam. Vì tư tưởng  các cụ này đã sơ cứng mà không còn sức mà nghiên cứu tim tòi các on đường và giải pháp mới theo tinh thần khoa học, và khư khư giữ ý của mình, bỏ ý đó thì sợ là người ta cho là mình sai rồi.



NÓI DÂN CHỦ DỄ, LÀM DÂN CHỦ KHÓ.



NÓI DÂN CHỦ DỄ, LÀM DÂN CHỦ KHÓ.

Thiện Ý.

Nói dân chủ thì dễ, làm dân chủ mới khó. Nhận định này của chúng tôi đã có từ lâu, nhưng được quan tâm nhiều hơn sau khi bản thân được trải nghiệm qua các sinh hoạt chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam, trên thực địa cũng như trên lãnh vực truyền thông sau khi ra hải ngoại (1992 -2018)

I/- NÓI DÂN CHỦ THÌ DỄ.

Nếu có ai hỏi “Dân chủ là gì” thì ai cũng có thể trả lời vắn tắt theo ý nghĩa của từ ngữ, rằng “Dân chủ là người dân làm chủ đất nước”. Nhưng nếu mở rộng hơn  sự hiểu biết về nguồn gốc, sự thể hiện và nguyên tắc thực hành và bảo vệ dân chủ,  thì câu trả lời ngắn dài tùy thuộc vào kiến thức về dân chủ của mỗi người. Vì vậy bài viết này chỉ xin trả lời khái quát theo sự hiểu biết của chúng tôi.

1.- Dân chủ theo ý nghĩa từ ngữ thông thường: là quyền làm chủ của nhân dân trong một quốc gia được qui định trong Hiến pháp, về những quyền lợi và nhiệm vụ của công dân trong tương quan với quyền và nhiệm vụ của các cơ quan công quyền quốc gia, các viên chức chính quyền  dân cử cũng như công cử, được hưởng lương bổng bằng tiền thuế của nhân dân, để thay mặt dân quản trị đất nước theo đúng ý nguyện của nhân dân; vì tự do , ấm no, hạnh phúc của nhân dân, vốn là những người chủ thực sự của đất nước.

Nhân dân cũng như các viên chức chính quyền các cấp, các ngành, dân cử cũng như công cử trong guồng máy công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, đều phải thực thi theo đúng Hiến pháp và pháp luật; mọi vi phạm của người cầm quyền hay người dân  đều bị chế tài theo Hiến pháp và pháp luật.

2.- Sự thể hiện quyền dân chủ.

Sự thể hiện quyền dân chủ chính là sự thực thi các quyền dân chủ đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Chính sự thực thi dân chủ mới cho thấy sự khác biệt giữa chế độ dân chủ pháp trị thật và dân chủ giả. Vì thực tế cho thấy, có những chế độ độc tài các kiểu, mà vẫn có Hiến pháp, luật pháp có vẻ dân chủ, nhưng khi thực thi thì hoàn toàn phản dân chủ, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, dù đã được chính Hiến pháp và luật pháp của chế độ quy định rõ ràng.

Điển hình như thực trạng tại nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” hiện nay, chẳng cần nói ra thì ai cũng biết, nhất là những người dân đã và đang là nạn nhân sống dưới chế độ này trong nhiều thập niên qua. Trong chế độ “dân chủ giả hiệu” này, quyền làm chủ của nhân dân đã bị xâm phạm, tước đoạt, biến thành ân huệ của nhà cầm quyền ban cho những ai chỉ biết phục tùng nhà cầm quyền. Bất cứ người dân nào dám có lời nói, hành động đòi hỏi nhà cầm quyền thực thi, tôn trọng, bảo vệ các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền đều bị các công cụ “chuyên chính vô sản” hay “độc tài cộng sản” (công an, quân đội…)  trấn áp bằng bạo lực, tòa án, nhà tù, pháp trường, dựa trên chính Hiến pháp và pháp luật của chế độ dân chủ giả hiệu này, mà thực chất là độc tài đảng trị hay toàn trị kiểu CS.

3.- Những nguyên tắc thể hiện và bảo vệ quyền dân chủ.
  
Theo nhận định của chúng tôi, nguyên tắc thì có nhiều, chúng tôi chỉ đề cập đến ba nguyên tắc cơ bản thể hiện quyền dân chủ và bảo vệ quyền dân chủ sau đây.

Một là nguyên tắc tam quyền phân lập đối với hệ thống tổ chức công quyền quốc gia. Theo đó cơ cấu tổ chức và nhân sự điều hành chính quyền các cấp được chia thành ba ngành: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đầu ngành lập pháp là Quốc hội, gồm các đại biểu do nhân dân bầu ra trong các cuộc tranh  cử và bầu cử tự do, công bình. Nhiệm vụ của Quốc hội là làm ra các đạo luật triển khai một cách phù hợp với Hiến pháp. Hành pháp là Chính phủ mà người đứng đầu ngành là Thủ tướng (hay chức danh tương đương) do dân cử trực tiếp hay thông qua Quốc hội tấn phong tùy theo quy định của Hiến pháp. Nhiệm vụ của các cơ quan hành pháp là thực thi Hiến pháp và pháp luật. Tư pháp đầu ngành là Tòa án tối cao hay Tối cao pháp viện. Nhiệm vụ giải thích và xét xử những vi phạm Hiến pháp và pháp luật của mọi công dân cũng như nhà cầm quyền. Cả ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp đều hoạt động độc lập nhưng không biệt lập mà có quan hệ hữu cơ, hoạt động theo phân nhiệm của Hiến pháp và pháp luật; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau mà chỉ tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Thế nhưng, nguyên tắc tam quyền phân lập này chỉ phát huy tác dụng bảo vệ các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, khi nó được thể hiện qua việc thực thi nghiêm túc. Thực tế cho thấy nguyên tắc phân quyền này chỉ được thực thi nghiêm túc, có mức độ khác nhau trong các chế độ dân chủ pháp trị thật (Hiến pháp, luật pháp dân chủ và thực thi dân chủ).Còn trong các chế độ độc tài hay dân chủ giả hiệu (Hiến pháp, luật pháp có vẻ dân chủ, nhưng thực thi phản dân chủ), thì nguyên tắc phân quyền chỉ là bình phong che đậy, ngụy trang cho các hành động phản dân chủ. Điển hình như trong chế độ độc tài toàn trị hiện nay tại Việt Nam, Hiến pháp cũng có quy định  ba ngành lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (Tòa án nhân dân tối cao), nhưng cả ba ngành này đều dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tuyệt đối của đảng CSVN, gọi là nền “Dân chủ tập trung” trong tay “Đảng CSVN” để từ đó ban phát dân chủ cho người dân nào biết phục tùng và thẳng tay trấn áp trắng trợn và tàn nhẫn những người dân nào dám đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền.

Hai là nguyên tắc tôn trọng quan điểm, chính kiến bất đồng thể hiện khi sinh hoạt thực địa hay trên lãnh vực truyền thông, trong tương quan giữa cá nhân công dân với nhà cầm quyền, giữa cá nhân công dân trong sinh hoạt của các tổ chức xã hội dân sự và trong tương quan giữa cá nhân công dân với nhau

Nguyên tắc này có vẻ đơn giản, nói thì dễ, nhưng làm mới khó. Vì nó tùy thuộc hai yếu tố khách quan và chủ quan. Khách quan là khung cảnh thể hiện quan điểm, chính kiến bất đồng, như trong một chế độ dân chủ thì dễ dàng thực hiện hơn trong một chế độ độc tài các kiểu; hay trong các đoàn thể công dân xã hội dân sự thực hiện nguyên tắc này dễ hơn trong các tổ chức nhà nước, vì cá nhân được tự do phát biểu mà không có sự chỉ đạo, đe dọa, cưỡng bách nào.

Chủ quan là trình độ ý thức về dân chủ và năng lực thực hiện nguyên tắc sinh hoạt dân chủ của mỗi cá nhân khác nhau, nên không phải ai cũng có thể thực hiện dễ dàng nguyên tắc này. Vì vậy mới có hiện tượng nghịch lý xẩy ra trong sinh hoạt thực địa cũng như trên lãnh vực truyền thông do hành động của một số người Việt quốc gia chống cộng ở hải ngoại. Nghịch lý vì mục tiêu chống độc tài cộng sản để dân chủ hóa cho Việt Nam; nhưng thực tế lại không chấp nhận “nguyên tắc tôn trọng quan điểm, chính kiến bất đồng”. Mặc dầu những người này đã và đang sống nhiều năm trong khung cảnh các chế độ dân chủ bậc nhất như Hoa Kỳ. Những người này có thể nói hay viết rất hay về dân chủ. Thế nhưng nếu có ai bất đồng chính kiến với họ thì tìm cách triệt hạ, cô lập bằng xuyên tạc, bịa đặt, nhục mạ thậm từ bằng những ngôn từ thiếu văn hóa, đôi khi còn “chụp mũ” nhãn hiệu quen thuộc là “hòa giải, hòa hợp với Việt cộng” hay “ tay sai Việt cộng nằm vùng”…

Chúng tôi đã có nhiều bài viết phê phán về hiện tượng nghịch lý này, cho là có hại và làm chậm tiến trình dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam. Vì nhiều người chân chính và một số tờ báo Việt ngữ đứng đắn, có uy tín ở hải ngoại, được công luận đánh giá là chống cộng có trí tuệ đã trở thành nạn nhân của “tệ trạng bôi bẩn, chụp mũ” ; và chính người viết cũng từng là nạn nhân của tệ trạng này.

Chúng tôi xin đơn cử: Năm 1995 khi ấn hành lần đầu và ra mắt ở Houston và nhiều nơi khác cuốn “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, người viết đã bị “Chụp mũ” chủ trương “Hòa giải hòa hợp với Việt cộng” chỉ vì phần cuối của sách này đề cập đến một “ giải pháp ba bước đến nền dân chủ nhất nguyên dân tộc” (1). Khoảng năm (2007-2008) những kẻ bất đồng chính kiến  với tôi ở Houston đã dùng email tên giả gọi tôi là “Thằng ác ý” và bịa đặt, chụp mũ tôi là “cộng sản nằm vùng”, rằng  Sau 30-4-1975 làm thư ký quốc hội Việt cộng. Sau khi ra hải ngoại mỗi năm đều về Việt Nam báo cáo…”. Mặc dầu nhiều người ở Houston biết rõ sau 30-4-1975 tôi bị bắt cầm tù vì hoạt động trong Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam (1978-1981); có người ở Houston đã gặp tôi trong trại tù “lao động cải tạo” ở Z.30D Hàm Tân, Thuận Hải và nhiều người khác biết rõ tôi từ trước và sau 30-4-1975. Thế nhưng không có ai trong họ dám lên tiếng nói lên sự thật mà họ biết về tôi vì sợ bị “đánh lây” hay ngầm tán đồng cách làm của kẻ “chụp mũ” để khủng bố tinh thần tôi. Năm 2017, một  đài có chương trình phát thanh về Việt Nam của một tổ chức chống cộng có tiếng, đột nhiên chấm dứt không còn phỏng vấn tôi như trước,  mỗi khi có những vấn đề thời sự nổi bật; chỉ vì tôi đã lấy tên hai tuyển tập “Cuộc Nội Chiến Quốc-Cộng Ai Thắng Ai?”, bất đồng với quan điểm của họ không coi chiến tranh Việt Nam là “Nội chiến” mà họ coi là “Cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản Bắc Việt (Việt cộng cũng không coi là “nội chiến” mà ngụy dân tộc để  gọi là “Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng dân tộc) (2) . Mới đây nhất là một đài phát thanh tiếng Việt khác ở hải ngoại có chủ trương “Không chấp nhận chế độ cộng sản” thỉnh thoảng cũng phỏng vấn tôi về các vấn đề thời sự; lại vừa mời tôi cộng tác thường xuyên trong một “Talk Show” hàng tuần. Nhưng sau một thời gian im lặng, người mời tôi điện thoại xin lỗi tôi vì trong nhóm chủ trương của Đài phát thành này có người phản đối dựa trên một bài viết của ai đó cho rằng tôi thuộc nhóm Lê Hiếu Đằng, có dính dáng đến “Phong trào thanh niên sinh viên Saigon biểu tình “chống Mỹ - Thiệu”… (3).

Ba là nguyên tắc đa số thắng thiểu số và thiểu số phải phục tùng quan điểm đa số; nhưng thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến của mình và phải được đa số tôn trọng.
     Nguyên tắc này được thể hiện qua các sinh hoạt dân chủ tập thể trong các cơ quan công quyền cũng như các đoàn thể quần chúng xã hội dân sự. Theo đó, khi có mâu thuẫn ý kiến, quan điểm, chính kiến bất đồng, sau khi tranh luận để thuyết phục tập thể chấp nhận ý kiến hay quan điểm của mình, các bên sẽ kết thúc bằng một cuộc biểu quyết  tự do, công bình, công khai hay kín. Ý kiến hay quan điểm nào được đa số chấp nhận sẽ thắng, thiểu số phải phục tùng đa số. Nhưng đa số vẫn phải tôn trọng ý kiến thiểu số và thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Châm ngôn của nguyên tắc này là “Bất đồng nhưng không bất hòa”. Thế nhưng thực tế cho thấy trong sinh hoạt tập thể của người Việt quốc gia ở hải ngoại đôi khi vẫn xẩy ra tình trạng ngược lại “bất đồng dẫn đến bất hòa” đến không còn nhìn mặt nhau, đôi khi còn căm thù nhau và tìm cách hạ nhục nhau giống như  hệ quả của nguyên tắc thứ hai nêu trên.

III/- KẾT LUẬN.

Nói dân chủ thì dễ, ai cũng có thể nói được. Làm dân chủ thì không dễ chút nào đối với kẻ cầm quyền  và nhân dân trong các chế độ độc tài toàn trị như chế độ hiện nay tại Việt Nam đã đành.Nhưng thực hành dân chủ đối với nhà cầm quyền và dân chúng trong các chế độ dân chủ thật vào bậc nhất như Hoa Kỳ, dù dễ dàng nhưng không phải ai cũng làm được; không chỉ với người nhập cư như Việt Nam, mà ngay cả những người bản xứ cũng nói, viết về dân chủ thì hay lắm, nhưng đôi khi làm thì lại phản dân chủ.

Chúng tôi ước mong rằng những người Việt quốc gia tỵ nạn cộng sản, đã sống nhiều năm trong các nước dân chủ và vẫn đang tiếp tục theo đuổi cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cần thể hiện dân chủ với nhau. Đồng thời tìm cách cô lập một số ít những kẻ mang danh người Việt quốc gia chống cộng vì lý tưởng tự do dân chủ, mà thực tế đã có hành động phản dân chủ đối với cả những người cùng chiến tuyến chống cộng, chỉ vì bất đồng chính kiến, bất đồng phương thức chống cộng. Vì hành động của những kẻ này (may là không nhiều) đã phá đổ đoàn kết nột bộ, làm mất niềm tin vào sự tất thắng của chính nghĩa quốc gia (tự do, dân chủ, nhân quyền…) của đồng bào hải ngoại cũng như nhân dân trong nước. Vì bị hoài nghi rằng không biết những người Việt quốc gia chống cộng ở hải ngọai có thực sự vì lý tưởng tự do dân chủ hay chỉ muốn “lật đổ chế độ độc tài toàn trị CS” hiện nay để thay thế bằng một kiểu “chế độ độc tài không cộng sản” trong mai hậu ở Việt Nam?
Thiện Ý
Houston, ngày 27 - 7- 2018

GHI CHÚ:
(1)“Thử đề nghị một giải pháp toàn cuộc” từ trang 418-435, “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”. Web VILAS: luatkhoavietnam.com. Mục “Diễn Đàn”:, Tiểu mục “Tác giả-Tác phẩm”.
(2) Chúng tôi được biết thêm: Sở dĩ đài phát thanh này không tiếp tục các cuộc phỏng vấn chúng tôi, là vì có một cộng tác viên của đài này nói là vì Thiện Ý có cha đi kháng chiến 9 năm (1945-1954) là theo Việt Minh, lại viết sách coi chiến tranh Việt Nam là “Cuộc nội chiến” chứ không gọi như họ là “Cuộc chiến tranh xâm lăng của CSBV” . Do đó cộng tác viên này đề nghị không phỏng vấn Thiện Ý nữa, nếu không người này sẽ thôi cộng tác với Đài và một số nhà tài trợ cho chương trình phát thanh sẽ ngưng tài trợ.(Xin lên Youtub, Search: “TG Thiện Ý Ra Mắt Sách Tại San Jose” hay”Cuộc Nội Chiến Quốc Cộng Ai Thắng Ai”  để tham khảo)
     Thật đáng tiếc, khi đài Phát thanh của một tổ chức chống cộng có tiếng lại nghe theo luận điệu chủ quan có tính áp đặt của một cá nhân để có một quyết định “phản dân chủ” (không chấp nhận “ bất đồng, không bất hòa”). Vì gọi tên cuộc chiến Việt Nam là gì, theo nguyên tắc sinh hoạt dân chủ, là quyền tự do tư tưởng của mọi người, không ai áp đặt ai. Chủ quan có tính áp đặt, vì khách quan ai cũng biết, ngoài những người cộng sản, đa số những người tham gia kháng chiến chống pháp như Cha tôi đều vì lòng yêu nước muốn tranh thủ độc lập cho dân tộc. Vì thế Cha tôi cũng như những người cùng cảnh ngộ đã bỏ về thành sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước. Tôi đã nói rõ điều này khi viết về Cha tôi  trong bài “Vì sao tôi từ chối vào đảng CSVN” đăng trên diễn đàn này.
(3)Trong một bài viết trên diễn đàn này của VOA về Lê Hiếu Đằng, tôi đã nói rõ mối quan hệ “Tôi không quen Lê Hiếu Đằng, nhưng biết các hoạt động của Ông qua một số người bạn học luật gốc Quảng Đà...”.Về việc tham gia “Biểu tình chống Mỹ” thì tôi đã từng nói với chấp pháp, người hỏi cung tôi khi bị bắt vì tham gia “Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam”, rằng “Tham gia phong trào chống Mỹ-Thiệu thì không. Tôi chỉ đôi ba lần tham gia biểu tình chống những hành vi độc tài của chính quyền và chốngnhững hành động Mỹ can thiệp quá sâu vào chủ quyền của Việt Nam,  không có ý thức ủng hộ cách mạng (CS)… ”. Sau này ra hải ngoại tôi đã viết lại theo ý đó, không dấu diếm. Vì đó là sự thật.