Vì
sao Việt Quốc chống cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ?
Thiện Ý
Vì sao Việt quốc chống
cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi lần lượt
trình bày:
-
Việt quốc và Việt cộng là ai?
-
Vì sao Việt Quốc chống cộng?
-
Việt quốc chống cộng từ khi nào và cho đến bao
giờ?
I/-
VIỆT QUỐC VÀ VIỆT CỘNG LÀ AI?
Để trả lời câu hỏi này
và để tránh hiểu lầm với ý nghĩ từ ngữ Việt Quốc viết tắt của Việt Nam Quốc Dân
Đảng, cần định nghĩa “Việt quốc” và “Việt
Cộng” được dùng trong bài này cũng các bài viết bao lâu nay của chúng tôi,
để thấy rõ vì sao có cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài
nhiều thập niên qua vẫn chưa chấm dứt.Theo chúng tôi:
1.- Việt quốc bao gồm các chính quyền, các chính đảng quốc gia và
quần chúng nhân dân có ý thức và hành động chống cộng. Nói cách khác Việt
quốc là những người Việt Nam không cộng sản, theo “ý thức hệ quốc gia”, tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam, coi quyền lợi dân
tộc Việt Nam là tối thượng, kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của lịch sử
Việt Nam, khởi đi từ Thời Hồng Bàng với các Vua Hùng dựng nước Văn Lang (tên cổ xưa của Việt Nam), qua các triều
đại độc lập tự chủ do các vua quan Việt Nam cai trị đất nước (Đinh, Lê, Lý, Trần…) hay những thời kỳ
dài ngắn bị ngọai bang xâm chiếm đô hộ (1000
năm Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc), với các anh hùng hào kiệt đã lãnh
đạo nhân dân chống ngọai xâm, giành và giữ độc lập, tự chủ cho dân tộc, viết
nên những trang sử oai hùng và vẻ vang cho dân tộc Việt (như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt ,
Quang Trung, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Trung Trực,
Nguyễn Thái Học…).
2.- Việt cộng bao gồm đảng Cộng Sản Việt Nam
(CSVN), các chính quyền và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động tri tình
ủng hộ cộng sản (khác với
bất đắc dĩ,bị ép buộc phải theo CS). Nói cách khác, Việt cộng là những
người Việt Nam, theo Ý thức hệ cộng sản, tôn thờ “Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa” (Liên
Xô đứng đầu Đệ tam quốc tế CS…), coi lợi ích quốc tế cộng sản là tối
thượng, kế thừa thành quả đấu tranh giai cấp và tiếp tục thực hiện “chiến tranh cách mạng vô sản”, dưới ngọn
cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc” (ngụy dân tộc) để cướp chính quyền,
thực hiện chủ nghĩa xã hội, mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, cộng
sản hóa Việt Nam cũng như toàn cầu, tách khỏi và chống lại dòng chính lịch sử
dân tộc, xóa bỏ ranh giới quốc gia để hội nhập vào một “Thế giới đại đồng”(cộng sản
chủ nghĩa)…
II/-VÌ
SAO VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG?
Việt quốc chống cộng,
vì:
1.-Trên
bình diện lý luận: Chủ nghĩa cộng sản dù có là một lý tưởng nghe qua
có vẻ nhân đạo, cao đẹp,có tính mê hoặc lòng người, nhất là những người trẻ tuổi
vốn say mê lý tưởng cao cả khi vào đời. Thế nhưng không tưởng theo nghĩa một lý
tưởng không thể, không bao giờ thực hiện được. Vì vậy, những cá nhân (đảng viên cộng sản) hay tập đoàn (đảng cộng sản) ở bất cứ quốc gia nào,
khi vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tiễn đã chỉ là tai họa thảm khốc, xung
đột giai cấp, chiến tranh hận thù, tiêu hủy tài nguyên quốc gia, tàn phá đất nước,
hủy hoại mọi nền tảng đạo đức xã hội, văn hóa dân tộc, mất độc lập tự chủ (vì lệ thuộc cộng sản quốc tế…), đưa
nhân dân vào cuộc sống mất tự do, đói khổ, lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn
diện và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân dân, phân hóa dân tộc… của quốc gia ấy.
Rốt cuộc, cái gọi là “cuộc cách mạng vô sản” để xây dựng “một xã hội không người bóc lột người” (từ xã hội chủ nghĩa, còn giai cấp, đến xã
hội cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn nhà nước…), tất cả chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống
trị độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng
cộng sản) để xây dựng “một xã hội
người (với thiểu số cán bộ đảng viên
CS) độc quyền áp bức bóc lột người ( tuyệt đại đa số nhân dân)”. Một sự độc
quyền áp bức bóc lột tinh vi và tàn ác chưa từng có trong lịch sử hình
thành các hình thái xã hội loài người có
giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã
hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản…theo duy vật sử quan cộng
sản).
2.-
Trên bình diện thực tiễn: Việt cộng nói riêng, cộng sản quốc tế nói
chung, đã tin theo và vận dụng chủ nghĩa
cộng sản vào thực tế nước ta (cũng
như một số nước khác trên thế giới), đã
gây tác hại nghiêm trọng, tòan diện, di hại lâu dài trên con người, dân tộc và
đất nước Việt Nam trong nhiều thập niên qua và còn di hại lâu dài cho dân tộc
và đất nước Việt Nam qua nhiều thế hệ sau này.Và do đó, thời hậu cộng sản nhân
dâ Việt Nam sẽ phải mất nhiều thời gian mới có thể khắc phục, phục hồi và ổn
định phát triển toàn diện.
- Vì tin và hành động theo “ý thức hệ cộng sản” Việt
cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc, tách rời khỏi lịch sử chính thống quốc gia
Việt Nam và dùng “Tính giai cấp”
và lăng kính “đấu tranh giai cấp” để phê phán chủ quan, không trung thực về các
triều đại và các anh hùng hào kiệt của
lịch sử Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc Việt Nam, để chọn và tôn
thờ cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Liên Xô” là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh
quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của đảng CSVN và quốc
tế cộng sản, cụ thể là hai tân đế quốc CS Nga-Tàu (công cụ tri tình cho quốc tế CS trong Thời kỳ Chiến tranh ý thứ hệ
toàn cầu..,).
- Vì chủ trương hận thù và đấu tranh giai
cấp
làm động lực, Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội nhân bản vốn tốt đẹp giữa
người với người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết và làm mọi điều tàn ác
với con người; dù là những người anh em cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc
Việt tộc với họ, theo phương châm “cứu
cánh biện minh cho hành động” như VC đã làm trong giai đoạn chiến tranh
Quốc Cộng vừa qua .Điển hình cao độ là đấu tố dã man ở Miền Bắc sau Hiệp định
Genève 1954 chia đôi đất nước; đã tàn sát, chôn sống hàng ngàn quân dân, cán
chính Việt Nam Cộng Hòa, trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 ở Huế và nhiều hành
động tán ác khác như pháo kích hàng đêm vào các thành thị giết hại dân lành,
đặt chất nổ để khủng bố, phá hoại trong suốt cuộc chiến tranh Quốc- Cộng ở Miền
Nam (1954-1975) và sau cuộc chiến( tập trung đầy ải hàng ngàn quân cán chính
VNCH trong các trại tù cải tạo…)
- Vì chủ trương vô thần, chết là hết, nên
Việt cộng không sợ hậu quả, đã thẳng tay đàn áp những người dân hữu thần, dùng
mọi thủ đoạn, phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu diệt mọi tín ngưỡng, tôn
giáo, vốn là nhu cầu tinh thần quan yếu trong đời sống tâm linh của con người,
và là một thực thể xã hội góp phần quan trọng vào nền đạo đức xã hội nhân bản
qua mọi thời đại.
Thực
tế là, sau khi nắm được quyền thống trị toàn đất nước hơn 44 năm qua (1975-2019) và trước đó trên một nửa nước
Miền Bắc (1954-1975), đảng CSVN đã áp
đặt một chế độ độc tài toàn trị, với một đảng duy nhất nắm quyền thống trị (đảng CSVN) với một nhà nước “Chuyên chính vô sản” (tức độc tài cộng sản) bác đọat quyền tự
do, dân chủ và các nhân quyền cơ bản của nhân dân, thông qua “ một chính quyền của đảng, do đảng và vì
đảng cộng sản Việt Nam”. Việt cộng đã sử dụng quân đội, công an,luật pháp,
tòa án, nhà tù, pháp trường… như những công cụ của “chế độ độc tài toàn trị CS” để trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ
quyền cai trị độc tài, độc tôn, độc quyền với những ưu quyền đặc lợi của một
giai cấp thống trị mới (giai cấp cán bộ
đảng viên cộng sản), chia nhau nắm quyền, ăn chia lợi ích ở các cấp, các
ngành trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa là một giai cấp thiểu số (khoảng 3-4 triệu đảng viên CS) bằng bạo
lực của nòng súng lưỡi lê, công an trị, để thống trị trên tuyệt đại đa số nhân
dân Việt Nam (trên 90 triệu dân) từ
thượng tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
Đó
là những lý do khái quát, căn bản trên bình diện lý luận và thực tiễn, khiến
Việt quốc, là những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia, hay là những người
Việt Nam không cộng sản, từ quá khứ đến hiện tại, từ trong nước ra hải ngoại,
đã và vẫn đang tiếp tục con đường chống cộng trường kỳ cho đến ngày thành đạt
mục tiêu lý tưởng tối hậu của mình là dân chủ hóa đất nước. Vậy thì…
III/-
VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG TỪ KHI NÀO VÀ CHO ĐẾN BAO GIỜ ?
Có
thể nói, kể từ khi “ý thức hệ cộng sản” du nhập vào Việt Nam trong những thập niên đầu
Thế Kỷ 20, nhưng rõ rệt là kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện chính
thức trên chính trường Việt Nam. Nghĩa là sau khi ông Hồ Chí Minh được huấn
luyện và đào tạo từ lò cộng sản Moskva, nhận chỉ thị của Đệ tam Quốc tế Cộng
sản Nga trở về Hong Kong họp Đại Hội
thống nhất ba đảng Marxist thành lập trước đó (Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và An Nam Cộng
sản đảng) thành đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) vào ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Và có thể coi công cuộc chống cộng từ ý
thức đến hành động, cũng khởi đi từ đó, nhằm thành đạt các mục đích chống cộng
của từng giai đọan, tiến tới thành đạt mục tiêu chống cộng tối hậu là đánh bại
chủ nghĩa cộng sản trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng một
chế độ tự do dân chủ đích thực theo đúng ý nguyện và vì lợi ích của toàn thể
quốc dân Việt Nam.
Như vậy, cộng cuộc chống
cộng có thể chia làm ba giai đoạn. Trong
phạm vi một bài nhận định tổng quát chúng tôi
chỉ có thể trình bầy khái quát như sau:
1.-
Tiền chiến tranh Quốc-Cộng: (1930 -1954)
Đây
là giai đọan chống cộng đầu tiên, diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống ách
thống trị của thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Các thế hệ Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia đã chống cộng nhằm
ngăn chặn một hiểm họa hậu Pháp thuộc: Hiểm họa cộng sản hóa Việt Nam.
Bởi vì trong giai đọan
này, lực lượng được coi là lãnh đạo chống cộng, bao gồm các chính đảng quốc gia
(Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Độc
Lập, Việt Nam Cách Mạng Đảng tức Phục Việt, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc Dân
Đảng, Việt Nam Ái Quốc Đảng, Nhân Xã Đảng…) và một số nhà trí thức, thân
hào nhân sĩ yêu nước tiên tiến tiêu biểu như Hùynh Thúc Kháng, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh… Họ đã thấy được ý đồ của
ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam chỉ là lợi
dụng lòng yêu nước của nhân dân, thông qua cuộc kháng chiến chống Pháp như một
phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, mà làm nhiệm vụ
của cộng sản quốc tế, giành thuộc địa kiểu mới cho các tân đế quốc đỏ Nga -Tầu,
nhuộm đỏ đất nước và nô dịch hóa nhân
dân Việt Nam.
Vì
thế, mục tiêu chống cộng giai đoạn này là làm sao cho quần chúng Việt Nam thấy
được hiểm họa cộng sản, không tin,
không theo, không để cho ông Hồ và Cộng
đảng Việt Nam lợi dụng của cải, xương máu và lòng yêu nước chống ngọai xâm của
mọi tầng lớp nhân; để dùng kháng chiến như phương tiện, không phải để giành
độc lập cho dân tộc, mà giành “Thuộc địa
kiểu mới” cho các “Tân Đế Quốc Đỏ Nga
–Tầu” thực hiện “Chủ nghĩa thực dân
kiểu mới” của cộng sản quốc tế.
Cuộc phân tranh Quốc -
Cộng lúc này diễn ra âm thầm nhưng không
kém phần quyết liệt, giữa một bên là các chính đảng Quốc gia và các thân hào
nhân sĩ yêu nước, bên kia là đảng CSVN. Đôi bên Quốc-Cộng phân tranh nhằm tiêu
diệt nhau và thu phục, lôi kéo nhân dân theo và nhận chịu sự lãnh đạo của mình.
Cuộc phân tranh Quốc-Cộng giai đọan này, lúc đầu chủ yếu diễn ra trên mặt trận
tư tưởng, tuyên truyền chính trị, nhằm lôi kéo quần chúng Việt Nam tin theo và tham gia cuộc kháng
chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của mình.
Tuy
nhiên, vào thời khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến Thứ II, phải trao trả độc lập cho
Việt Nam. Lúc đó, Cộng Đảng Việt Nam đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, dù thế
yếu so với các chính đảng quốc gia, song nhờ thủ đọan khôn khéo và tính tổ
chức, tinh thần kỷ luật và tính cách mạng cao của một đảng Marxist-Leninnist,
nên đã cướp thời cơ, giành được chính quyền nhiều nơi trên cả nước (Cách mạng Tháng 8 -1945). Nhưng vì thực
lực và tình hình thực tế quốc nội cũng như quốc tế lúc đó, chưa cho phép đảng CSVN lộ rõ nguyên hình và độc chiếm
chính quyền, nên ông Hồ đã phải thành lập một chính phủ, quốc hội liên hiệp
Quốc-Cộng, sọan thảo và ban hành một bản Hiến Pháp năm 1946 thiết lập chế độ
“Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (giả
hiệu: ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ…) mang tính “Dân chủ tư sản”, chứ chưa dám thiết lập “Chế độ chuyên chính vô sản” tức “độc tài tòan trị cộng sản”. Ngay cả đảng CSVN lúc đó cũng phải
tuyên bố tự giải tán. Mãi sau này, khi nắm được quyền thống trị nửa nước Miền
Bắc, cũng vẫn phải gọi tên đảng CSVN trá hình là “Đảng Lao Động Việt Nam” chứ chưa dám xưng danh “Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đồng thời cũng
vẫn phải giữ bảng hiệu chế độ “Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa” cho đến khi đã thôn tính được Miền Nam vào 30-4-1975,
thống trị cả nước, sau đó mới dám trương bảng hiệu “Đảng CSVN” và chế độ “Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (giả
danh và giả nghĩa).
Sở
dĩ Việt cộng phải trá hình như thế, là vì thời khoảng những năm đầu sau Thế
Chiến II, cộng sản đang bị thế giới coi là một hiểm họa toàn cầu.Trong
khi tại Việt Nam quần chúng chưa biết gì nhiều về cộng sản.
Những người biết thì rất sợ chủ nghĩa tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo), nên ông Hồ và Cộng đảng Việt
Nam đã phải ngụy trang bằng mọi cách và khai thác triệt để lòng yêu nước chống
ngoại xâm của toàn dân và lòng căm thù giai cấp trong một số bộ phận nhân dân (Công nhân với chủ tư bản, Nông dân căm thù
địa chủ, cường hào ác bá ở nông thôn…).
Trên thực tế, đôi lúc đã
có những cuộc xung đột võ trang giữa các đảng phái quốc gia và Cộng đảng Việt Nam,
gây tổn thất nhân mạng cho cả đôi bên. Riêng Cộng đảng Việt Nam, ngòai các họat động tuyên
truyền, thủ đoạn lừa mị tinh vi để lôi kéo quần chúng, họ còn sử dụng các hình
thức khủng bố, thủ tiêu những ai không theo hay chống lại họ. Một số nhà ái
quốc Việt Nam đã bị CSVN thủ tiêu trong giai đọan này như lãnh tụ Đại Việt Quốc
Dân Đảng Trương Tử Anh, hay các nhân sĩ ái quốc như Khái Hưng, Hòang Đạo, Ngô
Đình Khôi và nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo ái quốc khác theo ý thức hệ quốc gia
như Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh Phạm
Công Tắc…
Kết
quả của cuộc phân tranh Quốc - Cộng giai đọan này,Quốc thua, Cộng thắng. Là vì
mục tiêu chống cộng giai đọan này đã không đạt được: Việt quốc không những đã
không ngăn chặn được hiểm họa CS trong ý thức quần chúng, mà thực tế đã để đảng
CSVN dưới mặt nạ Việt Minh (viết tắt “Việt
Nam Độc lập Đồng minh hội” một tổ chức do Cộng đảng dựng lên) nắm quyền chủ
đạo kháng chiến trong thời kỳ chót của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).Với chiến thắng Điện Biên Phủ
Việt Minh (Việt cộng) đã cướp được
chính quyền trên một nửa thuộc địa Bắc Việt của Pháp, làm hậu phương phát động
và tiến hành chiến tranh nhuôm đỏ Miền Nam.
2.-
Chiến tranh Quốc-Cộng (1954 – 1975)
Vì giai đọan 1, phe Quốc gia đã thất bại
trong mục tiêu chống cộng để ngăn chặn hiểm họa Cộng sản từ xa, khi Cộng đảng
VN chưa giành được lãnh thổ để thiết lập một chính quyền “Chuyên Chính Vô Sản” (tức độc
tài tòan trị cộng sản), thực hiện chủ nghĩa Cộng sản.
Vì thế cho nên cuộc
trường chinh chống cộng phải tiếp tục chặng đường chống cộng giai đoạn hai (1954 – 1975) trong khung cảnh một thế
chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (Chiến tranh ý thức hệ Cộng sản chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa) và
trong thực trạng một đất nước chia hai, theo sự áp đặt của các cường quốc có
ảnh hưởng, thông qua Hiệp Định Genève 1954. Hiệp định này được ký giữa Pháp (quân cướp nước) với Việt Minh, mặt nạ
của Việt cộng (Phường bán nước cho cộng
sản quốc tế Nga-Tàu) sau khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ, nên chỉ có ý
nghĩa như là thực dân Pháp mất một nửa thuộc địa Miền Bắc vào tay Việt cộng;
còn nửa nước Miền Nam, thực dân pháp phải trao trả độc lập hoàn toàn, sau khi
đã trao trả độc lập từng phần từ năm 1948 cho chính quyền chính thống quốc gia
của Vua Bảo Đại, sau cùng là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kế tục chính danh
quyền bính quốc gia của bên Việt quốc.
Cuốc chiến tranh ý thức
hệ cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu hình thành sau Thế
Chiến II, diễn ra dưới hai hình thái Chiến Tranh Lạnh giữa các mước giầu, và
chiến tranh nóng nơi một số nước nghèo, có số phận không may như Việt Nam. Vì
thế Việt quốc ở Miền Nam được ‘phe tư
bản chủ nghĩa” chọn là “Tiền đồn Thế
Giới tự do” và Việt cộng ở Miền Bắc được ‘phe xã hội chủ nghĩa”(hay cộng
sản quốc tế) chọn là “tiền phương phe
xã hội chủ nghĩa” làm “nhiệm vụ quốc
tế cao cả” là phát động “Chiến tranh
cách mạng” để nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam và các quốc gia trong vùng. Từ đó,
đất nước Việt Nam trở thành bãi chiến trường, nhân dân hai miền Bắc-Nam như bia
đỡ đạn cho các thế lực khuynh đảo quốc tế tranh dành ảnh hưởng và lợi ích quốc
gia của họ, với lợi ích trước mắt là tiêu thụ cho hết lượng vũ khí đạn dược tồn
đọng sau thế chiến II và thử nghiệm thêm các loại vũ khí mới…
Tại Miền Bắc, ông Hồ và
Cộng đảng Việt Nam, sau khi chiếm được một nửa đất nước, đã xây dựng và củng cố
một chế độ độc tài toàn trị cộng sản, theo mẫu mực của đế quốc Đỏ hàng đầu Liên
Xô thời bấy giờ. Tuy nhiên, để che đây thực chất này, Hồ Chí Minh và Cộng đảng
Việt Nam đã dùng lại danh xưng chế độ “Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của bản Hiến pháp 1946, ban hành sau khi Nhật bại
trận trong Thế Chiến II (1939-1945),
buộc phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Nay để tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế cộng
sản, cộng sản Bắc Việt đã làm nhiệm vụ tên lính xung kích của cộng sản quốc tế
(Nga-Tầu), phát động cuộc chiến “Nồi da xáo thịt” nhằm thôn tính nhuộm đỏ
Miền Nam, vùng đất tự do của quốc gia Việt Nam, với chính quyền chính thống,
chính danh Việt Nam Cộng Hòa.
Trong khi đó tại Miền
Nam, chính quyền Việt quốc (Việt Nam Cộng
hòa) trong tư thế chính thống, chính danh, có chính nghĩa, kế tục quyền lực
quốc gia, tiếp nhận độc lập chủ quyền từ tay thực dân Pháp trên một nửa đất
nước ở Miền Nam, kiến tạo một chế độ dân chủ pháp trị (Việt nam Cộng hòa) hình thành sau cuộc trưng cầu dân ý ngày
23-10-1955 truất phế Vua Bảo Đại, cáo chung chế độ quân chủ chuyên chế Việt
Nam, thiết lập chế độ cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, đáp
ứng đúng ý nguyện của nhân dân Việt Nam.
Trong
giai đọan này, cả hai bên Quốc - Cộng đều có tư thế quốc gia, có lãnh thổ,
chính quyền quân đội và nhân dân, hành xử quyền cai trị đối nội cũng như đối
ngọai. Khi đó, với sự trợ giúp của ngoại bang thuộc hai phe đối
đầu: cộng sản và tư bản. Cộng sản Bắc Việt (CSBV), sau sáu năm củng cố, xây
dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, đã thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” (12-1960) rồi sau đó đẻ ra “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam” (1967) làm công cụ quân sự, chính trị phát động và tiến hành
chiến tranh xâm lăng Miền Nam, với sự trợ giúp của Nga –Tầu và các nước trong
phe “Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Trong khi đó, tại Miền
Nam Việt Nam, chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), với sự
trợ giúp của Hoa Kỳ và các cường quốc tư bản, theo đuổi một cuộc chiến tranh tự
vệ, với mục đích ngăn chặn, đẩy lùi và đập tan ý đồ xâm lăng của CSBV, xây dựng
và củng cố chế độ dân chủ pháp trị, phát triển kinh tế ngày càng vững mạnh,
thực hiện chủ trương tiến tới thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, với
sự ưu thắng của một Miền Nam dân chủ, giầu mạnh trên chế độ độc tài tòan trị
cộng sản, lạc hậu và nghèo nàn ở Miền Bắc (như
thực tế đã xẩy ra ở nước Đức qua phân và sẽ xẩy ra ở Triều tiên trong tương lai không xa).
Cuộc
chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), với kết cuộc phe Quốc gia một lần nữa bị là
“bên thua cuộc”, CSBV đã thôn tính được Miền Nam, thống trị toàn cõi đất
nước bằng một chế độ độc tài toàn trị CS. Việt Quốc thua cuộc chủ yếu trước hết
là vì tầng lớp lãnh đạo các chính quyền VNCH không bảo vệ được chủ quyền quốc
gia và công cuộc chống cộng hoàn toàn lệ thuộc vào Hoa Kỳ đến độ để cho quân
đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến (1965)
là Mỹ hóa chiến tranh, để đối phương CSBV “ngụy dân tộc” giật được chính nghĩa
dân tộc “chống ngoại xâm” (chống Mỹ cứu nước). Thứ đến là vì sau khi các mục
tiêu và lợi ích chiến lược đã đạt được thông qua cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ là
thực hiện “Việt nam hóa chiến tranh”
(1969) để rút chân ra khỏi cuộc chiến
một cách danh dự; song Hoa Kỳ đã không thực hiện những cam kết giúp VNCH về
quân sự, kinh tế để đủ khả năng tiếp tục chiến đấu chống cộng để tự tôn.
Hệ quả là, chế độ dân
chủ VNCH cáo chung, chính quyền VNCH sụp đổ, quân lực VNCH tan rã. Hệ quả là
hầu hết sĩ quan và lãnh đạo chính quyền các cấp VNCH bị CS đầy ải, hành hạ, sỉ nhục trong các trại tù “Tập trung cải tạo”. Một thiếu số quan chức chính quyền, quân đội
và nhân dân Miền Nam kịp di tản ra hải
ngoại trước ngày 30-4-1975, và vượt biên nhiều năm sau đó, qui tụ thành những
Tổ Chức Cộng Đồng, các đảng phái chính trị và tổ chức đấu tranh, đoàn thể xã
hội, tôn giáo tiếp tục công cuộc chống cộng giai đọan 3 vì tự do dân chủ cho
đất nước.
3.-
Hậu chiến tranh Quốc-Cộng (Từ sau
30-4-1975… đến ngày kết thúc)
Đây là giai đoạn chống cộng cuối cùng của
Việt Quốc để khẳng định chân lý, chính nghĩa tất thắng thuộc về bên nào (Việt Cộng hay Việt Quốc) trong cuộc nội
chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài nhiều thập niên qua tại Việt Nam. Giai đoạn
chống cộng này sẽ chấm dứt khi Việt Quốc thành đạt mục tiêu tối hậu là dân chủ
hóa đất nước. Nghĩa là chế độ độc tài toàn trị cộng sản tiêu vong để hình thành
một chế độ dân chủ pháp trị, với các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền
được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. 44 năm qua (1975-2019) Việt Quốc đã chóng cộng
như thế nào, thành quả ra sao, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trong các bài
viết tiếp theo
III/-
KẾT LUẬN.
Việt Cộng thì đã thất bại hoàn toàn và
vĩnh viễn, không còn có cơ hội và điều kiện để
thực hiện mục tiêu tối hậu lý tưởng của mình là “xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”. Đúng như chúng tôi đã trình
bày trong loạt bài chủ đề “ 44 năm Việt
Cộng xây dựng xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế, thành quả và
triển vọng tương lai”
Sau bài viết này, chúng
tôi sẽ trình bày tiếp qua loạt bài “44 năm
Việt Quốc chống cộng vì tự do, dân chủ
cho đất nước, thành quả và triển vọng tương lai ”. Mời bạn đọc đón xem để có dữ kiện so sánh hai con đường
dẫn đến hai mục tiêu tối hậu khác.nhau giữa Việt Quốc và Việt Cộng, cuối cùng “ai
thắng ai?”.
Thiện Ý
Houston, ngày 6-8-2019