Nhận định tổng quát:
36 NĂM VIỆT CỘNG XÂY DỰNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA, VÌ SỰ NGHIỆP CỦA CỘNG SẢN QUỐC TẾ:THÀNH QUẢ VÀ TRIỂN VỌNG ?
Thiện Ý
Trong
bài viết mới đây, chúng tôi đã nhận định tổng quát “36 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân chủ
cho đất nước: Thành quả và triển vọng”. Bài viết này chúng tôi sẽ
đưa ra nhận định tổng quát “36 năm Việt cộng
xây dựng xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế: Thành quả và triển
vọng”.
Mục đích loạt bài viết này của chúng tôi là muốn cho
thấy hai con đường dẫn đến hai mục tiêu tối hậu của Việt quốc và Việt cộng
hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là trái chiều, đối nghịch nhau. Vì trái
chiều đối nghịch nên mới đưa đến một cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài
nhiều thập niên qua tại Việt Nam
vẫn chưa phân thắng bại. Bởi vì các mục tiêu tối hậu của cả hai bên đến nay vẫn
chưa bên nào thành đạt. Vì sao và cuối cùng Việt quốc và Việt cộng ai sẽ thắng
ai?
Nội dung bài nhận định này, chúng tôi lần
lượt trình bầy:
-
Bối cảnh du nhập
và phát triển chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.
-
36 năm Việt cộng
đã xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam như thế nào, hiệu quả ra sao?
-
Thành quả và
triển vọng tương lai.
-
Kết luận.
I/- BỐI CẢNH DU NHẬP VÀ PHÁT
TRIỂN Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM.
Một
cách tổng quát: Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và cuộc kháng
chiến trường kỳ của các thế hệ quốc dân Việt Nam yêu nước nhằm đánh đổ chế độ
thuộc địa, giành độc lập, tự chủ cho dân tộc đã là bối cảnh du nhập và phát
triển ý thức hệ cộng sản tại Việt Nam.
1.- Từ ý thức hệ quốc gia chủ
đạo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thật
vậy, vào giữa thế kỷ 18, Châu Âu kỹ nghệ hóa cần nhiều nguyên liệu, thị trường
tiêu thụ hàng hóa phục vụ cho nhu cầu phát triển chính quốc, các đế quốc đã thi
nhau tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng thuộc địa. Đế quốc Anh sau
khi củng cố quyền thống trị trên Ấn Độ, đã thôn tính Úc châu, Tân Tây Lan,
chuẩn bị thực hiện ý đồ xâm lược Trung quốc qua cuộc Chiến Tranh Nha Phiến.
Trong khi đó, thực dân Pháp đã chiếm Algerie và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển
Trung quốc, làm bàn đạp thôn tính các nước trong vùng.
Ngày 31-8-1858, Chiến Hạm Pháp đã bắn phá
cửa biển Đà Năng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để sau đó từng
bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam, bành trướng qua Lào và Kampuchia.
Tất nhiên, không phải là dễ dàng khi thực hiện quá trình xâm lược này
(1958-1884). Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải đương đầu với các cuộc kháng
chiến liên tục và đều khắp đất nước của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Trong những ngày đầu, lịch sử Việt Nam
ghi nhận có các cuộc nổi dậy của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Nguyễn
Trung Trực, Thủ Khoa Huân và nhiều sĩ phu yêu nước Miền Nam. Tiếp đến là các
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp giành độp dưới ngọn cờ “Cần Vương, Văn
Thân”, nối tiếp nhau trong nhiều thập niên cuối thế kỷ XIX. Hầu hết
các nhà lãnh đạo các phong trào này đều xuất thân trong hàng ngũ quan lại chế
độ quân chủ Việt Nam như Tôn Thất Thuyết,Phan Đình Phùng,Hoàng Hoa Thám, Cao
Thắng, Nguyễn Thiện Thuật…Vì thế ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến giai
đọan này là ý thức hệ thần quyền Thiên Mệnh của
Khổng giáo.Theo đó từ nhà lãnh đạo đến quần chúng tham gia kháng chiến có chung
ý tưởng hy sinh đánh đuổi thực dân Pháp giành lại ngai vàng cho Vua, cho hoàng
tộc để tái lập quyền cai trị độc lập tự chủ của người Việt Nam. Bởi vì hệ tư
tưởng quân chủ chuyên chế Khổng Mạnh, du nhập từ Trung quốc, dựa trên thuyết
thần quyền thiên mệnh: Vua là Thiên tử,được Trời trao ban quyền cai trị muôn
dân, là chủ đất nước, là biểu tượng quốc gia. Đạo quân thần đã đưa đến hệ quả
là lòng
“Trung quân, ái quốc”, là trung thành, hy sinh sống chết bảo vệ ngai
vàng cho Vua tức là yêu nước vậy…
Bước qua đầu thế kỷ XX,trào lưu tư tưởng
dân chủ Phương Tây đã thẩm nhập vào Việt Nam và trở thành ý thức hệ thứ hai
chủ đạo kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc. Những tác phẩm nổi tiếng
như “L’Esprit Des Lois”, “Contrat Social” của Montesquieu và J.J Rousseau cũng
như những tư tưởng tự do, công bình, bác ái, nhân quyền, và các quyền dân chủ,
dân sinh khởi đi từ cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã ảnh hưởng đến chiều hướng đấu
tranh của các nhà ái quốc Việt Nam.Thêm vào đó là trào lưu tư tưởng của các nhà
dân chủ Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với một nước Nhật
canh tân tiến đến tự cường và trở thành một cường quốc Á Châu cũng đã là những
tấm gương sáng có sức thu hút mạnh mẽ giới sĩ phu yêu nước ViệtNam.
Thực vậy, từ đầu thế kỷ XX, lịch sử
Việt Nam bắt đầu ghi nhận` tư tưởng chủ đạo kháng chiến chống Pháp đi từ trung
dung “Nửa
quân chủ, nửa dân chủ” đến “dân chủ hoàn
toàn”.
Phong trào Đông Du (1906-1908) của cụ
Phạn Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) của cụ Phan Chu Trinh và Việt Nam
Quang Phục Hội của Cụ Phan Bội Châu…là những phong trào kháng chiến theo chiều
hướng trung dung.Theo chiều hướng này, cuộc kháng chiến giành độc lập diễn ra
dưới nhiều hình thức, đặt nặng vấn đề giáo dục quần chúng, nâng cao dân trí, cổ
vũ lòng yêu nước, chuẩn bị về lâu về dài cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang sau
này khi đủ thế lực và thời cơ thuận lợi.
Chủ trương của trào lưu kháng chiến này
là, sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, sẽ thiết lập một chế độ quân chủ
lập hiến
kiểu Nhật Bổn và một số quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã Lai…Ước mơ
của các nhà lãnh đạo kháng chiến lúc này là giành được độc lập rồi, vẫn giữ lại
ngai vàng cho Vua để trọn đạo “Quân Thần”, đồng thời cũng muốn bảo vệ quyền dân chủ cho nhân dân bằng một
bản hiến pháp thành văn. Đây là một chủ trương nhằm dung hòa quyền lợi giữa
giai cấp thống trị và nhân dân bị trị, giúp cho các nhà lãnh đạo xuất thân từ “Cửa Khổng, sân Trình” cảm thấy an tâm
trọn đạo thánh hiền. Nhưng rồi ước mơ này cũng đã không thực hiện được. Các
phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng trung dung cũng đã lần lượt bị thất bại, nhường chỗ cho
một khuynh hướng tích cực hơn xuất hiện trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo theo
Tây học.
Điển
hình cho khuynh hướng này có Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Ông, đã
hình thành một chính đảng kiểu Tây Phương đầu tiên: “Việt Nam Quốc Dân Đảng”(1923-1924).Do
chịu ảnh hưởng trực tiếp về tư tưởng và tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương đấu tranh bằng bạo lực quân sự kết hợp với
sức mạnh nổi dậy của quần chúng để giành độc lập dân tộc.Sau đó thiết lập chế
độ dân chủ theo mô hình “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Văn và vận dụng
nguyên tắc phân quyền của hệ dân chủ Phương Tây, để dân chủ, dân quyền được tôn trọng, dân sinh
được ấm no, hạnh phúc.
Với lòng yêu nước nồng nàn, bầu nhiệt
huyết tuổi trẻ, năm 1930 lãnh tụ Nguyễn Thái học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa võ trang cướp chính quyền ở Yên Báy. Cuộc khởi nghĩa
này đã không thành công, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của Ông đã hiên ngang
bước lên đoạn đầu đài nhận lãnh cái chết anh hùng cho “Tổ Quốc quyết sinh”. Mục tiêu và
ước mơ tối hậu của các nhà ái quốcViệt Nam tuy chưa thành công, nhưng “đã thành nhân”
như lời khẳng định trước đó của lãnh tụ Nguyễn Thái Học.
2.- Đến ý thức hệ cộng sản chủ
đạo kháng chiến chống Pháp.
Sau
cuộc khởi nghĩa Yên Báy của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, thực dân Pháp đã
thực hiện các cuộc ruồng bắt và đàn áp dã man các nhà ái quốc việt Nam.
Từ đây khuynh hướng đấu tranh giành độc
lập theo hệ
tư tưởng quân chủ Đông phương và hệ tư tưởng dân chủ Tây Phương như tạm thời lắng
dịu.Một khuynh hướng đấu tranh chống thực dân Pháp theo hệ tư tưởng Marxism-Leninnism, tức ý thức hệ cộng sản xuất hiện. Khuynh
hướng này có mục tiêu tối hậu khác với mục tiêu tối hậu của khuynh hướng chống
thực dân Pháp trước đó, gọi chung là ý thức hệ quốc gia. (Quân
chủ và dân chủ).
Nghĩa là, nếu khuynh hướng theo ý thức hệ quốc gia có mục tiêu tối hậu
của cuộc kháng chiến chống pháp là giành độc lập dân tộc, để sau đó thiết lập
một chế độ quân chủ hay quân chủ lập hiến hoặc một chế độc dân chủ đại nghị, thì khuynh hướng theo ý thức hệ
cộng sản chỉ coi “Giành độc lập” là mục tiêu giai đoạn. Mục tiêu tối hậu của
khuynh hướng ý thức hệ cộng sản là đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào hệ
thống cộng sản quốc tế để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, tiến tới một “Thế giới
đại đồng”, không còn biên giới quốc gia, vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế(cộng sản hóa toàn
cầu).
Thật vậy,lãnh tụ của
cuộc kháng chiến chống Pháp theo hệ tư tưởng cộng sản là Nguyễn Tất Thành, tức
Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh.
Theo tài liệu tuyên truyền của Việt cộng, thì ông Hồ Chí
Minh khởi đầu là người theo chủ nghĩa yêu nước mang ý thức hệ quốc gia trước
khi trở thành môn đồ của chủ nghĩa cộng sản.Xuất thân từ một nền giáo dục nửa
Nho học, nửa Tây học, biết đọc biết viết, không học vị. Năm 1911 Ông Hồ đã ra
khỏi nước, bôn ba nhiều năm ở hải ngoại, nơi các nước đế quốc tư bản cũng như
thuộc địa để tìm đường cứu nước…Sau cùng Ông Hồ đã “tìm ra được con đường cứu nước”; rằng “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
ngoài con đường Cách mạng Vô sản”(1). Ông Hồ đã vui mừng đến phát khóc và hét to một mình như thế trong
nhà trọ ở Paris Pháp quốc, sau khi đọc được tác phẩm kinh điển nổi tiếng của
Vladimir Lenine “Luận Cương Chính Trị
Tháng Tư” (2). Nội dung tác phẩm này viết về vấn đề thuộc địa và các dân
tộc bị áp bức. Ông Hồ như được giác ngộ bởi lý tưởng cộng sản và đã gia nhập
đảng Cộng Sản Pháp (1920), qua Liên Xô, được giáo dục, đào tạo để trở thành môn
đồ trung thành và cuồng tín của chủ nghĩa Cộng sản.Từ đó Ông Hồ liên lạc ,
tuyên truyền, huấn luyện, tuyển chọn,móc nối được một số đồng chí, tiến tới
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hongkong (3-2-1930).
Theo chính cương và
sách lược đấu tranh của Cộng đảng Việt Nam được thông qua trong Đại Hội thành
lập đảng thì có hai mục tiêu đấu tranh trường kỳ: Đánh đuổi thực dân Pháp để giải quyết mâu thuẫn dân tộc(với thực dân Pháp) và cộng sản hóa Việt Nam để giải quyết mâu thuẫn
giai cấp ( giữa giai cấp công nhân
với tư bản, nông dân với địa chủ, giai cấp thống trị với bị trị…).Để đánh
đuổi thực dân Pháp,Cộng đảng Việt Nam sẽ tiến hành cuộc “Cách
mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân”. Để cộng sản hóa Việt Nam,
Cộng đảng Việt Nam
sẽ tiến hành “cách mạng Xã hội Chủ Nghĩa”. Lực lượng chủ yếu để tiến hành các cuộc
cách mạng trước sau này, theo lý luận là giai cấp công nhân liên minh với giai
cấp nông dân và nhân dân lao động nghèo, dưới sự lãnh đạo độc tôn của Cộng đảng
Việt Nam.Phương thức đấu tranh chủ yếu là “bạo lực cách mạng” (bao gồm bạo lực quân sự kết hợp với bạo
lực chính trị), được thực
hiện dưới nhiều hình thức: bí mật, công khai, hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp
pháp, bằng mọi thủ đoạn cần thiết để thành đạt mục tiêu theo phương châm “Cứu
cánh biện minh cho hành động”.
Trên thực tế, từ
ngày thành lập Cộng Đảng Việt Nam, dù có lúc thay tên đổi họ (Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động
Việt Nam), thậm chí có lúc do tình hình thực tế đòi hỏi phải tuyên bố tự
giải tán, nhưng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (1930-1954),cuộc chiến tranh
Quốc-Cộng (1954-1975) và qua 36 năm thống trị trên cả nước, Việt cộng đã thực
hiện khá sát chính cương và sách lược trên đây của họ. Thực hiện như thế nào,
chúng tôi sẽ trình bầy chi tiết trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Cuộc
Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc – Cộng Tại Việt Nam” sau này.
II/- 36 NĂM VIỆT CỘNG XÂY DỰNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NHƯ THẾ NÀO, HIỆU QUẢ RA SAO?
Khoảng một năm sau
ngày xâm chiếm được Miền Nam, một cuộc mít-tinh ăn mừng chiến thắng vào dịp Lễ
Lao Động Quốc Tế 1-5-1976 (nếu chúng tôi
nhớ không lầm).Một lễ đài lộ thiên được dựng lên trước cổng Dinh Độc Lập
Sài Gòn(sau 30-4-1975 đổi là Dinh Thống
Nhất ), với đầy đủ các lãnh tụ hàng đầu của Cộng Đảng và nhà nước Việt cộng
(Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng…) và của cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền
Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) vốn là công cụ quân sự và chính trị của Cộng đảng
Việt Nam (Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị
Định, Huỳnh Tấn Phát…). Trong bài phát biểu tại cuộc mít-tinh này, Tổng Bí
Thư Cộng Đảng Việt Nam lúc đó là Lê Duẩn đã mạnh miệng nói đại ý rằng: “đảng Cộng sản Việt Nam, người tổ chức mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam sau 15 đến 20 năm nữa”.
Thế nhưng bây giờ đã hơn 36 năm qua kể từ ngày cưỡng chiếm được
Miền Nam thống nhất đất nước, Lê Duẩn và hầu hết các lãnh tụ hàng đầu Cộng Đảng
Việt Nam đã đi vào lòng đất, còn Việt cộng đã “xây dựng xã hội chủ nghĩa” như thế nào, hiệu quả ra sao?
1.- Từ lý luận Marxism về xã
hội xã hội chủ nghĩa (socialism society).
Karl Marx và F.
Angel những triết gia người Đức đã hình thành nền triết học duy vật, trên đó
Marx đã xây dựng chủ nghĩa cộng sản, nên còn gọi là chủ nghĩa Mác-xít
(Marxism).
Theo lý luận Marxism (duy vật lịch sử): Từ khi con người xuất
hiện trên hành tinh này đã trải qua 4 hình thái xã hội có tính tổ chức từ thấp
đến cao: Xã hội cộng sản nguyên thủy
(Primitive communism society: không giai
cấp, chưa có tư hữu, chưa có nhà nước), xã hội chiếm hữu nô lệ (The slave-owning Society) bắt đầu có giai cấp, có tư hữu,hình thành
giai cấp thống trị), xã hội phong
kiến (Feudalism Society) và xã hội tư bản (Capitalism Society:có nhà nước tư sản ngày một hoàn chỉnh).
Tính giai cấp, tính
tư hữu và tính nhà nước đã phát triển ngày một cao độ trong hai hình thái xã
hội sau cùng này, tạo ra mâu thuẫn đối kháng đã là tiền đề cho một cuộc cách
mạng vô sản, thông qua đấu tranh giai cấp để tiêu diệt giai cấp, để hình thành hình thái xã hội sau cùng của loài
người không còn giai cấp: “xã hội cộng sản hiện đại hay tiên tiến”(Modern
or dvanced communism Society), phát triển qua hai giai đoạn:
“Xã hội xã
hội chủ nghĩa”(Socialism
Society:còn giai cấp, còn nhà nước, nhưng
được cải tạo từng bước, dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Cộng đảng, mệnh danh
là đội tiên phong của giai cấp cống nhân hay vô sản, thông qua một nhà nước “chuyên chính vô sản”, quyền tư hữu hạn
chế và tiêu vong dần, mọi người lao động theo năng lực, hưởng theo sức lao động
bỏ ra…) tiến tới “Xã hội cộng sản chủ nghĩa”(Communism
Society) viên mãn là “Thiên
đường Cộng sản” trong một
thế giới đại đồng(không còn biên giới quốc
gia,không còn giai cấp, không còn bộ máy nhà nước, mọi quan hệ xã hội vận hành
tự động, mọi người lao động tự giác, làm theo hết năng lực và được thỏa mãn mọi
nhu cầu. Vì lúc đó tài hóa xã hội dư thừa có thể thỏa mãn được mọi nhu cầu vật
chất cũng như tinh thần của mọi người, của toàn xã hội, mọi người đều sống ấm
no, hạnh phúc trong tình hữu ái như thiên đường nơi trần thế: Thiên đường cộng sản!?!)
Thế nhưng thực tế ra sao, đến nay thì mọi người đã biết: Liên Xô,
nước đầu tiên, sau hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ (1917-1991),
kéo theo sự sụp đổ toàn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu để cùng
chuyển thể qua xây dựng “xã hội tư bản chủ nghĩa”.(Capitalism society). Việt Nam là
một trong bốn nước gọi là xã hội chủ nghĩa còn sót lại thì thực tế ra sao? Họ
đã đang xây dựng “xã hội xã hội chủ nghĩa” như thế nào, hiệu quả ra sao?
2.- Đến thực tế Việt cộng xây
dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam
36 năm qua như thế nào?
Như
mọi người đã biết, chỉ một năm sau ngày chiếm đoạt được Miền Nam (30-4-1975)
bằng vũ lực, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại
hòa bình cho Việt Nam, Việt cộng đã giải tán các công cụ quân sự và chính trị
một thời là MTDTGPMN và CPCMLTCHMNVN, thống nhất đất nước và đưa cả nước
“Đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa”. (The socialism society)
Trên thực tế, theo nhận định của chúng
tôi, Việt cộng đã tiến hành công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa theo một
tiến trình với các bước thưc hiện giống y như Liên Xô đã làm, kể từ sau khi
Cộng đảng Liên Xô lật đổ được chế đô Nga Hoàng quân chủ chuyên chế, giành được
chính quyền vào năm 1917.
Theo đó, một cách
tổng quát, Cộng đảng Việt Nam đã họp Đại Hội IV (1976) cũng đưa ra một “Thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa”
với chủ trương “
Đi lên xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, thực hiện
bằng chính sách “Cải tạo và xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của xã hội chủ nghĩa”. Chính sách
này thực hiện qua hai kế hoạch ngũ niên (1975-1985)
bị thất bại, Cộng Đảng Việt Nam đã họp Đại Hội VI (1986) đưa ra chủ trương “Đổi Mới” tương tự như Liên Xô đưa ra chủ trương và thực hiện “chính sách Kinh tế mới”
sau khi kế hoạch ngũ niên lần thứ nhất bị thất bại(1918-1922). Qua hai kế hoạch ngũ niên (1985-1995) thực hiện chủ
trương “đổi mới”
bằng chính sách sửa đổi
vá víu không hiệu quả, Cộng đảng Việt Nam đã họp Đại Hội VIII (1996) đưa ra chủ
trương “đi lên xã hội chủ nghĩa thông qua kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, thực hiện bằng chính sách “Mở
cửa” với bên ngoài.Chủ
trương chính sách này được thực hiện qua ba kế hoạch ngũ niên (1996-2010) và
sau Đại Hội XI (2011) Cộng đảng Việt Nam vẫn đưa ra nghị quyết tiếp tục thực
hiện chủ trương, chính sách này.
Sau đây chúng tôi
sẽ trình bầy chi tiết về nhận định tổng quát trên đây qua tiến trình và cách
thức Việt cộng thực hiện những chủ
trương, chính sách trong “thời
kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa”.
Thời kỳ quá độ “ Đi lên xã hội chủ nghĩa không
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (1975-1995)
Liên Xô sau khi
đảng Cộng sản Bolsevick Nga, dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenine làm Cách Mạng
Tháng 10 năm 1917 thành công, lật đổ được chế độ Nga Hoàng, đã thiết lập “Nền chuyên chính vô sản” cưỡng ép những tiểu quốc lân bang trong
vùng thành Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên Xô.
Ngay sau đó, Lenine và Cộng đảng Bolsevick Nga đã dùng “Chuyên
chính vô sản” quyết tâm
đưa Liên Xô “Đi lên chủ nghĩa xã hội không
thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
(Đây là chủ trương của V.
Lenine và Cộng đảng Liên Xô, khác với lý luận kinh điển của chủ nghĩa
Marxism:rằng vào thời điểm chủ nghĩa tư bản phát triển đến tột cùng trên phạm
vi toàn cầu, mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản (tức công nhân)
không còn điều hòa được nữa, trở thành “mâu
thuẫn đối kháng” (một mất một còn) với mọi giai cấp, với toàn xã hội. Đây
là “Tình thế cách mạng chín mùi”,
cách mạng vô sản nổ ra nhất định thành công (vì giai cấp tư bản độc quyền thống
trị Nhà nước bị cô lập hoàn toàn), để sau đó “Đội tiên phong của giai cấp vô sản” tức các đảng Cộng sản
ở mỗi nước sẽ lãnh đạo toàn dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây
dựng thành công “Xã
hội xã hội chủ nghĩa”, tiến
tới “Xã hội cộng sản” trên phạm vi toàn thế giới. Nghĩa là tiền đề cho sự xây
dựng thành công
“xã hội xã hội chủ nghĩa” là phải thông qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa theo K. Mar, khác với luận điểm sau này
của Lenine nên mới có thuật ngữ chính
trị Chủ nghĩa Marx-Lenine với ý
nghĩa như là sự kết hợp luận lý về phương cách đi lên chủ nghĩa cộng sản tuy có
khác, nhưng vẫn thống nhất về mục tiêu hiện thực lý tưởng cộng sản chủ nghĩa).
Sau khi cưỡng chiếm
được Miền Nam, triệt tiêu chế độ Việt Nam Cộng Hòa (30-4-1975), Cộng đảng Việt
Nam đã cho bầu quốc hội chung cho cả nước (25-4-1976), đổi danh xưng chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” thành “Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Đại Hội IV Cộng đảng Việt Nam (Tháng
12-1976) cho đổi tên “Đảng Lao Động Việt Nam” thành “Đảng Cộng sản Việt Nam” và ra nghị quyết đưa cả nước tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc “Đi lên chủ nghĩa xã hội không
thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, bắt chước giống như Liên Xô.(
Dù tiền đề hai nước có khác: Liên Xô chủ nghĩa tư bản bước đầu phát triển đã
hình thành được đội ngũ giai cấp công nhân – Việt Nam chủ nghĩa tư bản mới manh
nha ở Miền Nam, cả nước công nghiệp còn ở thời kỳ lạc hậu,giai cấp công nhân
chưa hình thành được đội ngũ và năng lực để đóng vai trò “Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng”,
nên cái gọi là
“Đội tiên phong của giai cấp vô sản Việt Nam” là
Cộng đảng Việt Nam
mới bao gồm phần đông nòng cốt là những trí thức tiểu tư sản như Trường Chinh
Đặng Xuân Khu(gốc con địa chủ), Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…Và cơ quan lý
luận của Đảng mới đẻ ra luận điểm về “Liên
minh công nông”, là giai cấp công nhân (chủ lực) liên minh với giai cấp
nông dân và nhân dân lao động nghèo là nòng cốt của cách mạng Việt Nam…)
Vậy trên thực tế Việt
cộng đã thực hiện thế nào?
* Thực hiện chính sách “Cải
tạo và xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
ban đầu của chủ nghĩa xã hội ” (1975-1985)
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Marx-Lenine, để tiến hành công cuộc “Đi
lên chủ nghĩa xã hội ”
tại Việt Nam, nghị quyết Đại Hội IV của Cộng đảng Việt Nam đã đưa “Đường lối chung của Cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước”(1) như một định thức chỉ
đạo: “Nắm vững chuyên chính vô
sản,phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng tư tương và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…”(2).
Việt cộng đã thực hiện định thức này ra sao?
hiệu quả thế sao?
* Thực hiện “Nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.
-Lý luận.
*Theo gương Liên Xô, Việt cộng lý luận rằng, muốn xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa
tại Việt Nam, điều tiên quyết là phải “nắm vững chuyên chính vô sản”(hay độc tài vô sản), để củng cố vai trò thống trị độc tôn,
độc quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một chính quyền mệnh danh “Chính quyền chuyên chính hay độc tài vô
sản”(Proletarian dictatorship). Nghĩa là một “Chính quyền độc tài của giai cấp vô sản hay giai cấp công nhân”(the dictatorship goverment of the
proletariat) mà theo lý luận của chủ nghĩa Marx-Lênin là giai cấp nòng cốt
thực hiện cuộc “Cách mạng xã hội chủ nghĩa” để xây dựng “Xã hội xã hội
chủ nghĩa”, vì lợi ích của giai cấp công nhân (vô
sản), dưới sự lãnh đạo của “đảng Cộng sản”, được coi là “Đội
tiên phong của giai cấp công nhân”, qui tụ một thành phần ưu tú của giai
cấp công nhân (vô sản) có đạo đức xã hội chủ nghĩa (?),tính hy
sinh và lòng vị tha, phục vụ nhân dân và xã hội quên mình, có năng lực lãnh
đạo, ý thức giác ngộ giai cấp cao và tinh thần đấu tranh cách mạng vô sản triệt
để…..(thực tế phần đông là ngụy giai
cấp vô sản, hầu hết lãnh tụ hàng đầu Cộng đảng không xuất thân từ giai cấp công
nhân, nhưng đã ngụy biện là đã “giác ngộ
tính vô sản và đã đầu hàng về mặt giai cấp”để có tư cách lãnh đạo đảng của
giai cấp công nhân, tức Cộng đảng!!!).
Nhân danh và vì
quyền lợi giai cấp vô sản,Việt cộng xử dụng “Chính quyền chuyên chính vô
sản”làm công cụ trấn áp mọi sức phản kháng,
chống đối của mọi tầng lợp nhân dân, bảo vệ vị thế độc tôn, độc quyền, đặc lợi
của một tập đoàn thống trị là các cán bộ, đảng viên Cộng đảng Việt Nam.Ngụy
biện rằng, trong “Thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa” chỉ dân chủ với nhân dân (giai cấp công nhân liên minh với giai cấp
nông dân và nhân dân lao động nghèo), cần “chuyên chính” với mọi kẻ thù của giai cấp vô sản (tư sản, trí, phú, địa, hào…và những người
dân nào không tuân phục,chống lại đảng và nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa). Vì
vậy, trong định thức mới ghi sau “Nắm vững chuyên chính vô sản” là phải “Phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động”. (Lưu ý về ý nghĩa từ ngữ:
“Quyền làm chủ tập thể”của Việt cộng khác với “quyền sở hữu cá nhân” cũng như
“dân chủ tập trung” của Việt cộng khác với “dân chủ tự do”của Việt quốc)
Do đó, Cộng đảng Việt Nam cần “Nắm vững chuyên chính vô sản” như thế mới trấn áp được mọi phản kháng
từ phía nhân dân. Đồng thời “Đảng và nhà nước ta” mới lãnh đạo, thúc ép, khuyến dụ, tuyên
truyền,lừa mị được nhân dân thực hiện cùng lúc ba cuộc cách mạng để hoàn thành
công cuộc xây dựng “xã hội xã hội chủ nghĩa” tại Việt Nam.
- Tiến hành ra sao?
Để “Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”, sau khi chiếm được Miền Nam, thống nhất
đất nước, Việt cộng đã thực hiện chính sách hai mặt: củng cố và phát triển bộ máy Đảng và bộ máy nhà nước ngày một vững
mạnh,song song với tiến hành truy quét,trấn áp, tiêu diệt mọi sức đề kháng
chống “Đảng và nhà nước” của mọi tầng lớp nhân dân.(Việt cộng gọi là truy quét phản động)
Để củng cố và phát
triển bộ máy đảng và nhà nước, như những công cụ và phương tiện thống trị, kềm
kẹp, đàn áp nhân dân,Việt cộng đã học tập kinh nghiệm thống trị bằng bạo lực
kềm kẹp, trấn áp nhân dân của Tầu cộng, lấy mô hình tổ chức đảng, chính quyền
và kinh nghiệm cai trị 21 năm ở Miền Bắc (1954-1975) vận dụng vào Miền Nam mới
“Giải phóng”(!) . Bộ máy đảng luôn tồn tại song hành với bộ máy chính quyền (đã là gánh nặng ngân sách quốc gia) từ
trung ương đến địa phương, trong mọi cơ quan, ban ngành, đoàn thể; thực hiện
triệt để định thức cai trị kềm kẹp “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”.
Để truy quét, trấn
áp, tiêu diệt mọi sức đề kháng chống “Đảng và nhà nước”, Việt cộng đã dùng nhà tù, súng đạn, hệ
thống tòa án công lý một chiều, pháp trường, khủng bố , kết hợp với các thủ
đoạn tuyên truyền lừa mị đối với mọi tầng lớp nhân dân, thực hiện khẩu hiệu “nghe thì sống, chống thì chết”.
Thực tế là sau ngày 30-4-1975 :
-
Việt cộng đã bắt giữ tù đầy trong các trại
tù khổ sai trá hình gọi là “Trại cải tạo”, hầu hết các sĩ quan quân lực và các viên chức lãnh đạo, chỉ
huy các cấp, các ngành chính quyền, hành chánh Việt Nam Cộng Hòa và các chính đảng quốc gia. Việt cộng làm
việc này để cô lập, tiêu diệt một thành phần đông đảo những người ưu tú của
Việt quốc mà họ cho là mầm mống có khả năng gây nguy hiểm cho chế độ.
-
Việt cộng đã dùng hệ thống nhà tù được thiết lập thêm rất
nhiều trên khắp nước để
giam giữ những người đã có thái độ, lời nói hay hành động chống chế độ tự phát
cá nhân hay tham gia những tổ chức chống cộng thật cũng như giả do công an Việt
cộng dựng lên để gài bẫy. Và cả những tù nhân bị Việt cộng ghép vào “diện cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư
doanh” hay thuộc diện “Cải tạo nông nghiệp” phải vào tù chỉ
vì có của cải giầu có (Tư sản mại bản, tư
sản dân tộc, địa chủ, phú nông…..). Một số chức sắc hàng giáo phẩm thuộc
các giáo hội do hoạt động tôn giáo hay
do vị thế cai quản các cơ sở tài sản lớn của giáo hội cũng đã phải vào tù, vì ý
đồ Việt cộng muốn chiếm dụng, đã gài thế, gán ghép “tội phản động” để tịch thu như những tang vật.
-
Nhiều người chống chế độ bị coi là mất
tích, không ai biết vì sao, kể cả thân nhân(tương tự như chế độ
mật chỉ thời tiền cách mạng nhân quyền 1789 ở Pháp) vì đã bị Việt cộng âm thầm bắt, giam giữ, rồi
thủ tiêu bằng mọi cách không cần xét xử. Nhiều người khác bị xử bắn công khai
nơi pháp trường, trong những vụ án “phản
động” mà Việt cộng muốn răn đe,
khủng bố, nên đưa ra trước “Tòa án nhân
dân” vốn là công cụ pháp lý trấn áp nhân dân, để có một bản án nặng nề điển
hình làm gương.
-
Để đề phòng bạo loạn từ phía quần chúng
nhân dân, Việt cộng đã
triệt để thực hiện chế độ hộ khẩu và công an trị để nắm từng người dân, dập tắt
nội loạn từ trong trứng nước. Với chế độ hộ khẩu, Việt cộng kiểm soát được nơi
ăn chốn ở, với thủ tục “Đăng ký tạm trú,
tạm vắng” Việt cộng kiểm soát được mọi sự di chuyển, đi lại và hoạt động
của người dân. Với hệ thống “Công an khu
vực”, Việt cộng giữ vững được an ninh chính trị đến từng người dân ở từng
địa phương, khu vực.
- Hiệu quả thế nào?
Nhìn chung, với việc thực hiện triệt để
chính sách hai mặt trên, Việt cộng đã “Nắm vững chuyên chính vô sản” theo nghĩa là đã dùng bạo lực qua các công cụ của nền chuyên chính vô
sản là công an, quân đội và các lực lượng vũ trang đã trấn áp (chứ không tiêu diệt) được sức phản
kháng của mọi tầng lớp nhân dân khá thành công.
Thật vậy, trong 5 năm đầu sau khi chiếm được Miền Nam (1975-1980),
Việt cộng đã thực hiện triệt để những chủ trương, chính sách và các biện pháp
căn bản trên đây và đã có hiệu quả là ổn định được tình hình an ninh chính
trị.Sau 5 năm kế tiếp (1980-1985), đã củng cố và phát triển bộ máy đảng và bộ
máy nhà nước ngày một vững mạnh. Vì thực tế các hoạt động chống cộng của các cá
nhân hay tổ chức ngày một lắng xuống .
Trong thời khoảng này, các tổ chức
và cá nhân chống cộng trong nước, nếu tồn tại được đều rút vào bí mật, không
còn có những hoạt động chống cộng ồn ào, đầy khí thế như thời khoảng 5 năm đầu.
Ngay cả những chính đảng quốc gia có truyền thống cách mạng đấu tranh chống
ngoại xâm và chống cộng quyết liệt như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách
Mạng Đảng, Nhân Xã Đảng… cũng phải thúc thủ, mai phục chờ thời cơ.
Tựu chung trong khoảng 20 năm của thời kỳ quá độ “ Đi lên xã hội
chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (1975-1995): Việt
cộng đã thành công trong việc “truy quét phản động”, ổn định và
giữ vững được tình hình an ninh chính trị, từng bước củng cố cơ cấu đảng và
chính quyền các cấp, các ngành, làm công cụ tiến hành mạnh bạo các chủ trương,
chính sách và biện pháp “Đi lên Xã hội xã hội chủ
nghĩa” trên cả nước, dưới bảng hiệu chế độ “Cộng
hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam”.
*Tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng như thế nào, hiệu quả ra sao?
- Một là cách mạng quan hệ sản xuất.
- Mục tiêu phải thành đạt là
gì?
Là thực hiện các chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm phá nát, tiêu diệt triệt để quan
hệ sản xuất cũ mang tính áp bức, bóc lột (quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính tư hữu), để thiết lập từng bước,
tiến tới thay thế hoàn toàn bằng quan hệ sản xuất mới không mang tính áp bức
bóc lột (quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa mang tính công hữu).
- Tiến hành thế nào?
Để phá đổ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả nước, Việt cộng đã thực hiện chủ trương,
chính sách cải tạo tài chánh tiền tệ, công thương nghiệp, lưu thông phân phối
và dịch vụ tư bản tư doanh nơi các thành thị và cải tạo nông nghiệp ở nông thôn
với hai kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1976-1980 (là tiếp mối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở Miền Bắc XHCH trước 30-4-1975) và lần thứ ba
1981-1985.
Thực vậy, sau khi
chiếm được Miền Nam, Việt cộng đã nghĩ ngay đến việc làm sao cào bằng cho hai miền Bắc-Nam mau chóng đồng nhất trong quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa và mức sống, lối sống nhân dân hai miền lệ thuộc nhà nước và khó
khăn,nghèo đói như nhau. Điều đó có nghĩa là đẩy nhanh “Công cuộc cải tạo và xây dựng cơ sở vật
chất-kỹ thuật ban đầu của xã hội chủ
nghĩa” ở Miền Nam, xóa sạch các thành phần kinh
tế cá thể, tư bản tư doanh để hình thành hệ thống kinh tế quốc doanh xã hội chủ
nghĩa giống như Miền Bắc. Vì theo Việt cộng lý giải lúc đó thì Miền Bắc XHCN đã
hoàn tất “Giai đoạn cải tạo”, tiếp
tục tiến hành công cuộc “xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật ban đầu của xã hội chủ nghĩa” (XHCN),với chủ trương đưa
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN về công, thương nghiệp cũng như nông nghiệp.
-
Trước hết là “Cải tạo tài chánh, tiền tệ”.
-
Tiến hành thế nào?
Để thực hiện cuộc “Cách mạng quan hệ sản xuất”, điều
trước tiên là chế độ phải làm sao “Nắm
được hầu bao” của tất cả nhân dân Miền Nam và “Cào bằng” về mức sống quá
chênh lệch giữa nhân dân Miền Bắc XHCH nghèo nàn lạc hậu so với nhân dân Miền
Nam tư bản chủ nghĩa (TBCN) sung túc tân tiến dù mới manh nha. Có như thế Việt
cộng mới dễ dàng thúc ép “dân ngụy”
thực hiện các chủ trương, chính sách “Đi lên xã hội chủ
nghĩa” của Đảng và nhà
nước.
Để thành đạt những
mục tiêu trên Việt cộng đã thực hiệc chính sách “Cải tạo tài chánh, tiền tệ”
qua ba đợt “Đổi tiền”:
-Đợt I (khoảng cuối 1975
đầu 1976) đổi tiền Ngân Hàng Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa lấy tiền của chính
phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam(CHMNVN), công cụ chính trị
của Cộng sản Bắc việt, theo tỷ giá 500 đồng VNCH lấy 1 đồng CHMNVN, với định
mức bình quân mỗi gia đình chỉ đổi được 200 đồng tiền mới. Số tiền còn lại ký
gởi cho “Ngân hàng Nhà Nước” để trên
nguyên tắc nói là sẽ được cứu xét từng trường hợp cụ thể, giải quyết cho đổi
thêm sau này, mà thực tế không ai biết rõ nguyên tắc này đã được thực hiện ra sao.
- Qua Đợt II(Đầu tháng 5-1978)
đổi tiền CHMNVN ra tiền “Ngân Hàng Nhà
Nước CHXHCNVN” để thống nhất đơn vị tiền tệ trên cả nước (không nhớ tỷ giá và định mức).
- Đợt III (Từ 14-9-1985 kéo
dài từ 3 đến 5 ngày) phát hành tiền “Ngân
hàng Nhà nước” mới, nói là đồng tiền mất giá, để chống lạm phát, đổi theo
tỷ giá một đồng tiền ngân hàng mới bằng 10 đồng tiền ngân hàng cũ và dường như
không có định mức. Tuy không còn định mức, nhưng phần đông người dân Miền Nam,
sau hai đợt đổi tiền trước theo kiểu “cướp
ngày” của Việt cộng, hầu hết đã
không có nhiều tiền mà đổi vì giầu nghèo đã bị gần như trắng tay.
- Hiệu quả ra sao?
Việt cộng đã đạt
được hiệu quả theo đúng ý đồ. Vì sau hai đợt đổi tiền những người dân Miền Nam nhìn chung gần như trắng tay,
trên nguyên tắc giầu nghèo gần như nhau về mặt tài chánh. Thực tế phần đông dân
Miền Nam sau đổi tiền, đời sống đi xuống gần giống như nhân dân Miền Bắc về lối
sống, tuy mức sống vẫn còn khá hơn nhờ tích lũy được đôi chút tài sản đem bán
dần để sống qua ngày. Người ta gọi đùa là những nhà “Tư sản mại sản”.
Một số những người
giầu có nhiều tiền mặt, nếu có đường giây “Móc
ngoặc” đổi được nhiều tiền trên định mức trong đợt I và II hay còn vàng
bạc, quý kim, của chìm bán dần để duy trì cuộc sống, thì cuộc sống tương đối
cũng còn sung túc, ít nữa là cho đến trước ngày “Đánh tư sản” (nếu thuộc diện
“Cải tạo”).Người ta gọi đùa là những “Tư bản mại sản”.Sau hai đợt đánh tư
sản hầu hết các nhà tư bản dân Miền Nam đều trở thành những nhà “Tư bản bại sản” hay “Tư bản phá sản” và trở thành tội nhân
nếu thuộc “diện cải tạo” bị kết án tù tội.
Mặt khác, sau “Đổi tiền” một số khá đông những người
thuộc “giai cấp mới” (Giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản) và
những kẻ ăn theo nhờ làm trung gian “móc
ngoặc” trong các “Phi vụ Đổi tiền” gian
dối, vượt định mức để ăn chia, thì phất lên trông thấy. Dân chúng gọi họ là
những “tư sản đỏ”, “Tư sản xám” hay “tư sản đen” (của cải có được bằng con đường làm ăn bất chính, mờ ám, đen tối)
-
Thứ đến là “Cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh” ở Miền Nam.
- Tiến hành thế nào?
Trong thời gian đầu, khi chế độ mới chưa đụng chạm gì đến
thành phần kinh tế công thương nghiệp tư bản tư doanh, thì các nhà tư bản, tư
sản Miền Nam đã phải sống trong tâm trạng phập phồng lo sợ không biết số phậm
mình sẽ được nhà cầm quyền Việt cộng định đoạt ra sao.
Người ta có nghe kể
về công cuộc cải tạo công, thương, nông nghiệp tư bản tư doanh ở Miền Bắc sau
Hiệp Định Genève năm 1954 chia đôi đất nước, dưới chế độ Việt cộng.Thế nhưng
không ai có thể hình dung được mức độ tàn hại của chính sách cải tạo đối với
mỗi con người, từng gia đình và toàn xã hội ở Miền Nam như thế nào.
Vào giữa năm 1976,
một loạt chủ trương, chính sách nhằm xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế
tư bản tư doanh và cá thể đã được chế độ Việt cộng ban hành và đi vào thực hiện
có tính thăm dò thử nghiệm.Mặc dầu chỉ thực hiện trên qui mô nhỏ, song cũng đã
gây chấn động lớn về kinh tế, xã hội và là nỗi kinh hoàng cho các đối tượng bị
kiểm kê tài sản, nhất là những gia đình bị qui kết thành phần tư sản mại bản (vì trong quá khứ có liên hệ làm ăn với tư
bản nước ngoài) hay tư sản dân tộc. Họ không những bị kiểm kê tịch thu hết
tài sản, có khi còn bị tù đầy hay cưỡng bức rời thành phố đi lập nghiệp vùng
kinh tế mới.Người ta gọi đây là thời kỳ đánh tư sản Đợi I.
Phải đợi cho đến sau
Đại Hội IV (1976) của Cộng Đảng Việt Nam, chủ trương “Cải tạo” trên mới được
chế độ thực hiện triệt để trên quy mô rộng lớn với cường độ mạnh mẽ thể hiện
quyết tâm thực hiện khẩu hiệu tuyên truyền “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ
Nghĩa”. Người ta gọi
đây là thời kỳ đánh tư sản Đợi II. Lúc này, đích thân Đỗ Mười, lúc đó là Phó
Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã lãnh đạo “đánh
tư sản” ở Miền Nam trong chức vụ “Trưởng
Ban Cải Tạo Trung Ương”.
Nhiều người dân Miền
Nam hẳn còn nhớ cái đêm kinh hoàng vào đầu tháng 5-1978, một cuộc tấn công rộng
lớn, bất ngờ vào các gia đình bị liệt vào thành phần tư sản mại bản và tư sản
thương nghiệp ở các thành thị Miền Nam, nhất là Sài gòn. Cuộc tấn công này đã
được bí mật triển khai rất nhanh, sau một thời gian “chuẩn bị khẩn trương” của các cấp chính quyền và một lực lượng
đánh tư sản hùng hậu đã được huấn luyện cấp tốc ngắn ngày. Cũng trong thời gian
này, các thành phần công, thương nghiệp không bị qui kết vào thành phần, tiểu
thủ công nghiệp đều được cải tạo đưa vào con đường làm ăn tập thể.Các tiểu
thương, tiểu chủ cũng được chế độ “chiếu cố” cho chuyển sang các ngành hoạt
động sản xuất…
Chung quy, đánh tư
sản hay cải tạo tư sản là chế độ Việt cộng muốn nắm độc quyền kinh tế (khống chế lực lượng lao động,định đoạt
phương thức sản xuất và chiếm dụng độc quyền nguyên vật liệu phương tiện sản
xuất). Nghĩa là một kiểu nhà nước tư bản độc quyền,biến lực lượng sản xuất
(mọi tầng lớp nhân dân) thành công cụ
lạo động thực hiện các hoạt động kinh tế (sản
xuất công,nông, thương nghiệp, kinh doanh, phân phối, tiêu thụ, dịch vụ…)
dưới sự chỉ huy của chính quyền theo chính sách kinh tế hoạch định cứng rắn của
nhà nước.
-
Hiệu quả ra sao?
Thế nhưng công cuộc cải tạo này đã thất bại hoàn toàn vì nó
đã đụng chạm vào một trong những yếu tình thuộc về bản chất và cũng là quyền cơ
bản của con người: Quyền tư hữu. Vì
nó đã tước đoạt trắng trợn thành quả lao
động , công lao mồ hôi nước mắt của cả một đời người hay bao đời truyền lại.
Những nạn nhân đã uất ức vì bị cưỡng đoạt trắng tay, mất hết tài sản, gia đình
ly tán, lại phải vào tù. Nhiều người quá uất ức đã nhẩy lầu tự vẫn, dùng độc
dược quyên sinh hay tìm cái chết oan nghiệt qua sợi giây thong lọng tự treo cổ
mình.
Tựu chung, sau khi
thực hiên các biện pháp “Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh”, Việt cộng đã
không gặt hái được hiệu quả mà chỉ tạo ra một hậu quả tai hại về mặt kinh tế vĩ
mô cũng như vi mô.Bởi vì nó đã phá nát quan hệ sản xuất cũ là cùng lúc tiêu hủy
các nhà sản xuất kinh doanh có tài và
kinh nghiệm (vốn quý mà mãi sau này Việt
cộng mới nhận ra muộn màng trong thời kỳ đổi mới, mở cửa…),là phá nát các
cơ cấu, cơ sở sản xuất kinh doanh vốn có hiệu quả kinh tế.
Hậu quả thực
tế là, các hoạt động sản xuất kinh doanh
đình trệ, xáo trộn, ách tắc, năng xuất thấp, phẩm chất xấu, sản lượng giảm,
hạch toán lỗ lã triền miên, cung cầu mất cân đối, dẫn đến khó khăn trong lưu
thông phân phối hàng hóa, rối loạn thị trường.Từ đó, sự độc quyền nhà nước sản
xuất, kinh doanh, phân phối tiêu thụ dẫn đến tệ nạn chợ đen, móc ngoặc, tham ô
làm giầu bất chính cho một thiểu số những kẻ có chức, có quyền trong guồng máy
kinh tế độc quyền (cán bộ đảng viên cộng
sản và những kẻ ăn theo), trong khi đa số nhân dân (lực lượng sản xuất chủ yếu) thì đời sống ngày một khó khăn thiếu
thôn, đã nghèo ngày càng nghèo thêm, dù đã lao động cật lực vẫn không đủ sống,
vì đồng lương chết đói, không tương xứng với sức lao động bỏ ra.
Trong khi chế độ nỗ
lực “cải tạo tư sản mại bản, tư sản dân
tộc và các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa khác” để biến tất cả thành “vô sản”, thì thực tế đã tạo tiền đề đẻ
ra các nhà tư sản mới (tư bản đỏ vỏ xanh
lòng) ngày một đông đảo, sau mỗi đợt cải tạo và trong khi thực hiện chủ
trương chính sách xây dựng quan hệ sản xuất mới Xã Hội Chủ Nghĩa (công, thương nghiệp nhà nước, tổ hợp quốc
doanh…). Người dân gọi những nhà tư sản mới phát lên này (thường là cán bộ đảng viên có chức có
quyền…) nhờ công cuộc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, là
các nhà “Tư sản hay tư bản Đỏ” hay “Vô sản mại bản”! (Còn
hầu hết nhân dân được gọi mỉa mai là “Tư sản mại sản” vì phải bán dần của cải,
đồ đạc trong nhà để duy trì sự sống …)
- Thực hiện chủ trương chính sách
cải tạo nông nghiệp.
* Tiến hành thế nào?
Cải tạo nông nghiệp là phá đổ quan hệ sản xuất cũ (tư hữu đất đai, phương thức canh tác và tư
liệu sản xuất), thiết lập quan hệ sản xuất mới (công hữu đất đai, tư liệu và
tập thể hóa nộng nghiệp) bằng chủ trương, chính sách “tập thể hóa nông nghiệp”.
Với chủ trương đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân (công hữu), từ địa chủ ngồi thu đia tô, đến nông dân trực canh, là
chủ đất ít nhiều hay tá điền đều không có quyền sở hữu đất đai. Chính sách cải
tạo căn cứ vào số ruộng đất sở hữu mà quy kết thành phần địa chủ, phú nông,
nông dân trực canh hay tá điền mướn ruộng canh tác để có những biện pháp cải
tạo khác nhau.
Trên thực tế, có lẽ Việt cộng đã rút được bài học kinh nghiệm cải tạo
nông nghiệp tàn bạo ở Miền Bắc sau năm 1954 qua các cuộc đấu tố giã man thành
phần bị quy kết địa chủ, phú nông cường hào ác bá ở nông thôn, nên những thành
phần bị quy kết là địa chủ hay cường hào ác bá ở Miền Nam chỉ bị tịch thu hết
đất đai, tài sản, phương tiện sản xuất, một số bị tù đầy, hay trở thành
nông dân trực canh như mọi nông dân khác có hay không có ruộng đất canh
tác trước đây, đều phải đi vào con đường làm ăn tập thể, được tổ chức từ thấp
đến cao: Tổ sản xuất, hợp tác xã, nông trường quốc doanh…Tất cả đều lao động
tập thể và thành quả lao động được hưởng theo sự chấm công của tổ chức.
Thật vậy, về mặt nông nghiệp, để kéo xuống cho bằng mức độ chậm tiến về
nông nghiệp ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN), Việt cộng đã nỗ lực làm cho
quan hệ sản xuất ở nông thôn Miền Nam giống như Miền Bắc đã được cải tạo sau
1954.Thông qua cuộc “Cải tạo nông nghiệp”, các địa chủ bị tịch thu ruộng đất đã
đành,các nông dân dù là trung nông cấp dưới hay cấp trên, bần nông hay tá điền
…Tất cả đều phải vào con đường làm ăn tập thể. Mọi người đều phải lao động
trong các tổ, đội, hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, bậc cao, nói là do nông dân
tự quản, song thực tế bị quản chế bởi một thành phần cốt cán hầu hết là cán bộ
đảng viên cộng sản ở nông thôn.Một số tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô hơn
như các công trường, nông trường, có Ban Giám Đốc được nhà nước bổ nhiệm và
người nông dân làm việc ăn lương như những công nhân viên chức nhà nước.
- Hiệu quả ra sao?
Trong thời khoảng này
(1975-1985) công cuộc cải tạo nông nghiệp ở nông thôn cũng đi đến thất bại như
công cuộc cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh ở các thành thị Miền
Nam.Các hình thức lao động sản xuất tập thể, dù do các tập thể tự quản hay do
nhà nước quản lý đều không đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Bởi vì phương thức sản xuất mới gọi là “Xã
Hội Chủ nghĩa” đã đi ngược với qui luật tự nhiên và quan
hệ sản xuất mới là quan hệ bóc lột còn tàn tệ, bất công hơn nhiều so với quan
hệ sản xuất cũ muốn hủy bỏ
(quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa).
Phương thức sản xuất mới trái với qui luật tự nhiên là vì con người ai
cũng có đầu óc tư hữu, tư lợi. Chính đầu óc này đã là động lực thúc đẩy người
ta hăng say lao động sản xuất, làm việc quên mình và quên thời gian. Vì ai cũng
nghĩ thành quả lao động họ sẽ gặt hái cho mình để toàn quyền xử dụng cho các
nhu cầu cuộc sống cá nhân, gia đình; phần còn lại tích lũy, đầu tư làm giầu và
sau khi chết của cải để lại cho con cái…
Nay Việt cộng ép buộc mọi người vào con đường làm ăn tập thể, bằng chế
độ chấm công, dù có dùng các hình thức kích thích cách nào, như “thi đua lao động” để đạt danh hiệu “cá nhân tiên tiến” hay “Anh
hùng lao động”… vẫn không lôi kéo được nông dân làm việc hết sức như cho
chính mình. Thái độ lao động chung là làm việc cầm chừng, làm hết giờ chứ không
làm hết việc. Với tinh thần “Cha chung
không ai khóc”, người ta sẵn sàng làm ngơ trước những việc phải làm để cứu
lúa, cứu mùa khi có thiên tai, dịch họa; không muốn phát huy sáng kiến canh
tác, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng xuất…nên sản lượng nông nghiệp sau cải
tạo không tăng mà ngày một giảm nghiêm trọng.
Hậu quả là cả nước lâm vào tình trạng thiếu lương thực nặng nề. Vào
những năm cuối thấp niên 70 và đầu thập niên 80, nhân dân cả nước đã phải ăn
bo-bo là thực phẩm dành cho gia súc nhập cảng từ Liên-Xô vì thiếu gạo. Không ai
có thể tưởng tượng được là một nước vốn có tiềm năng mạnh về nông nghiệp, trong
quá khứ từng là nước hàng năm xuất cảng gạo hàng đầu trong vùng Đông Nam Á, mà
nay nhân dân thiếu đói phải ăn độn đủ loại thực phẩm trong đó có thực phẩm vốn
chỉ dành cho gia súc.Đời sống nhân dân cả nước đói khổ hơn cả thời kỳ sống dưới
chế độ thực dân Pháp!
Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên lãnh vực nông nghiệp cũng như
công, thương nghiệp, chỉ mới manh nha song đã thể hiện đầy đủ tính áp bức, bóc
lột còn tàn tệ hơn quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa mà Việt cộng muốn xóa
bỏ. Một sự bóc lột độc quyền nhà nước trên nguyên tắc, trên thực tế một cách cụ
thể là sự bóc lột độc quyền của một giai cấp mới, “Giai cấp cán bộ, đảng viên cộng sản” có chức, có quyền trong cơ
cấu đảng, chính quyền và cơ cấu kinh tế.
Tại các công trường hay nông trường quốc doanh, người nông dân bị Ban
Giám Đốc bóc lột độc quyền. Tại các hợp tác xã bậc thấp hay bậc cao, các đội,
tổ sản xuất, nông dân bị bóc lột độc quyền bởi các Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã
Nông nghiệp, Ban Điều hành đội, tổ sản xuất…Với sự bóc lột này người nông dân
không kêu ca gì được, kẻ nào dám kêu ca, tố cáo phải có thế dựa, ô dù mạnh hơn
cá nhân hay tập đòan nắm quyền, nếu không dễ chết vì bị chụp cho cái mũ “phản động”, “phá hoại chính sách nông nghiệp của Đảng và Nhà nước” dẫn đến
những hậu quả khó lường.
Hậu quả tất nhiên là sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, luôn luôn là
không đạt chỉ tiêu kế hoạch sản xuất thời vụ hàng năm.Điều nghịch lý nhưng là
một thực tế là, ở nông thôn,dù kế hoạch sản xuất thời vụ không đạt chỉ tiêu,đời
sống nông dân xã viên Hợp tác xã, thành viên đội hay tổ sản xuất đều đói ăn
thiếu mặc, song đời sống của thành phần lãnh đạo các Hợp tác xã, Đội, Tổ sản
xuất đều phất lên trông thấy. Người nào cũng xây dựng được nhà ngói, cây mít,
mua được “Đài” (radio) hiện đại, sắm được xe gắn máy hay tối thiểu là xe
đạp,máy may…là những biểu hiệu đời sống sung túc của những gia đình có tiền dư
của để, nếu không muốn nói là giầu có ở nông thôn dưới chế độ XHCNVN thời bấy
giờ.
Chính vì sự nghịch lý này mà người nông dân đã phải trút sự uất ức bằng
những câu ca dao tục ngữ phản ánh tâm trạng, rằng “ Thi đua tranh thủ, làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm” để được
ăn bánh vẽ bằng những danh hiệu “Anh
hùng lao động”, “cá nhân tiên tiến,
xuất sắc” kèm theo chút ít phần thưởng vật chất bằng dăm ba ký gạo, ngô
khoai để “cải thiện” đời sống. Và rằng “Nhân
dân thi đua lao động bằng hai, để cho cán bộ mua đài xắm xe”!!!.
-Như vậy hiệu quả của công cuộc cải tạo nông nghiệp ở nông thôn để tiến
lên xây dựng xã hội chủ nghĩa là gì:- thất
bại và hoàn toàn thất bại.
Chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp bằng con đường làm ăn tập
thể qua các tổ chức Hợp tác xã nông nghiệp,đội, tổ sản xuất…đã thất bại.Chính
sách đưa dân đi lập vùng kinh tế mới bằng con đường làm ăn tập thể cũng thất
bại luôn vì nó đưa đến hậu quả như đã phân tích ở trên.
Về kinh tế, chính sách kinh tế mới của chế độ Việt cộng đã tiêu phí
nhiều tài sản quốc gia, đầy ải nhân dân trong các vùng kinh tế mới thiếu thôn
mọi mặt, môi sinh thiếu an toàn, mà không đạt hiệu quả kinh tế.
Một lý do căn bản trong nhiều lý do dẫn đến thất bại là Việt cộng đã
thực hiện chính sách kinh tế mới dựa trên sự cưỡng bách trái với tâm lý con
người và quy luật phát triển xã hội loài người. Việc cưỡng bách người dân đi
lập nghiệp vùng kinh tế mới là trái với ý muốn, nguyện vọng, năng lực chuyên
môn và khung cảng sống phù hợp cho mỗi loại người.Việt cộng đã hành động trái
với cả lời dậy của Lenin, giáo chủ của họ, rằng “hãy để người nông dân tự giác suy nghĩ trên luống cầy của họ”.
Thực tế họ đã dùng mọi cách, từ tuyên truyền lừa mị, đến dụ dỗ, đe
dọa cưỡng ép chỉ cốt đạt chỉ tiêu qui hoạch cho mỗi nơi, từng vùng kinh tế mới,
lập thành tích báo cáo theo cơ chế. Nhiều người “dân ngụy” ở Miền Nam có
thân nhân đang bị tù “tập trung cải tạo”
nghe theo tuyên truyền hứa hẹn, đã tưởng rằng đưa gia đình đi vùng kinh tế mới,
thì chồng con, cha anh họ sẽ sớm được tha về.Thực tế không phải như vậy. Hầu
hết những người dân đi lập nghiệp vùng kinh tế mới, sau một thời gian sống
thiếu thốn, khổ cực, nhiều người không quen cảnh sống đã chết vì những căn bệnh
hiểm nghèo do thiếu thuốc và cứu chữa không kịp thời.Những người dân sống sót
thì phải bỏ về lại thành phố. Lúc đầu các chính quyền địa phương còn làm khó
dễ, sách nhiễu đủ điều. Sau thấy dân kinh tế mới đói khổ kéo về thành phố mỗi
lúc một đông, chế độ mới phải mặc nhiên chấp nhận sự thất bại của chính sách
kinh tế mới.
Tuy không công khai thừa nhận sự thất bại, nhưng việc chấp nhận xét cho
những người gốc thành phố đi kinh tế mới trở về
được nhập lại hộ khẩu, là mặc nhiên thừa nhận sự thất bại. Vả lại, với
thực tế là hàng ngàn người từ kinh tế kéo về thành phố sống chen chúc, rải rác
khắp nơi trong các thành phố, nhất là Sài gòn, chế độ Việt cộng dù có muốn cũng
không thể che đậy được thực trạng.
Thất bại thảm hại
trong các chính sách thực hiện chủ trương
cải tạo tài chánh, công, thương, nông nghiệp, lưu thông phân phối hàng
hóa và dịch vụ tư bản tư doanh, Việt cộng đã phải tìm cách cứu nguy bằng chính
sách “Đổi mới”.
* Thực hiện chính sách “Đổi
Mới” (1985-1995).
- Nguyên nhân và mục tiêu của “Đổi mới”.
Trước những thất bại thực
tế khi thực hiện định thức xây dựng xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời
khoảng 1975-1985, mà Đại Hội V của Cộng Đảng Việt Nam (1981) vẫn không nhìn ra những
nguyên nhân chủ yếu, tiếp tục kế hoạch kinh tế 5 năm (1981-1985). Đứng trước
hậu quả nghiêm trọng mọi mặt của đời sống, kinh tế, xã hội, nghị quyết Đại Hội
VI của Cộng Đảng Việt Nam năm 1986, đã đưa ra chủ trương, chính sách “Đổi Mới” về kinh tế, không đổi mới chính trị, để sửa sai.
(Nhưng dù có sửa sai thì tài sản,
ruộng đất của các nạn nhân của “cải tạo” công,thương nghiệp tư bản tư doanh ở
các thành thị và cải tạo nông nghiệp ở nông thôn cũng đã tiêu ma, những năm tù
tội, bị đầy ải lấy gì bù đắp và những kẻ đã bị chết oan vì “Cải tạo” làm sao
giải oan?).
Đây cũng lại là sự bắt chước Liên Xô, sau khi lật đổ chế độ Nga Hoàng
(1917), cũng quyết tâm đưa cả nước “Đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa phát triển”, bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thất bại(1917-1922), Lenin và
Cộng đảng Bolsevick Nga đã đưa ra “Chính
sách Kinh tế Mới” để sửa sai. Chính sách này đã giúp Liên Xô vượt qua khó
khăn ban đầu và tồn tại thêm nhiều thập niên sau đó, cho đến năm 1985 khi
Mikhail Gorbachev lên nắm quyền Tổng Bí Thư Cộng đảng Liên Xô đã cùng các đồng
chí cấp tiến trong Cộng đảng Liên Xô phải thực hiện cải cách để cứu nguy chế độ
xã hội chủ nghĩa Liên Xô sau 68 năm xây dựng (1917-1985). Thế nhưng, họ đã
không thành công trong ý đồ cải cách để vẫn duy trì được chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô.Vì chỉ sau một năm đưa ra được những nhận định thức thời (Trong Hội Nghị Toàn Liên Bang Xô-Viết lần
Thứ 19 ngày 28-6-1988) và chưa đầy bốn năm (1988-1991) thực hiện chương
trình “Cải tổ” (Glasnost) và “Cởi mở” (Perestroika), Liên Bang Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô-Viết đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991. Nay một lần nữa
Việt cộng lại bắt chước Liên-Xô, từng được xưng tụng là “Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa” của mình, thực hiện chủ trương, chính sách “Đổi Mới” cũng để để cứu nguy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
đã thất bại sau hai kế hoạch ngũ niên (1976-1985).Thực hiện thế nào, hiệu quả
ra sao?
Đại Hội VI của Cộng đảng Việt Nam năm
1986 đã nhận định lạnh lùng có tính “huề
cả làng” về cái gọi là “những sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện” là do “những biểu hiện nóng vội, muốn xóa bỏ ngay
những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, do cái gọi là “bệnh
chủ quan duy ý chí”. Rồi thừa nhận “cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta còn tồn tại một thời gian tương đối dài” trong suốt
“Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Chấp nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
cho cùng tồn những thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bên cạnh các thành phần
kinh tế tư bản chủ nghĩa (còn gọi là phi
xã hội chủ nghĩa).Nhưng coi các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sẽ đóng
vai chủ đạo, chủ động từng bước mạnh lên, triệt tiêu các thành phần kinh tế tư
nhân tư bản chủ nghĩa, sau cùng thành
đạt quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Theo tài liệu hướng dẫn học tập, triển khai chính sách “Đổi mới” nhan đề “Sử dụng cơ cấu 5 thành phần kinh tế” do nhà xuất bản Thành phố HCM
ấn hành nằm 1987 thì trong thời kỳ “Đổi mới” , Việt cộng chấp nhận sự tồn
tại của năm (5) thành phần kinh tế sau đây:
- Một
là “thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm những xí nghiệp,
đơn vị quốc doanh (công nghiệp cũng như nông nghiệp)được hình thành trên cơ sở
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và trình độ xã hội hóa của sản
xuất…” .Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa này phải là “thành phần kinh tế chủ yếu và là lực lượng
chủ đạo của nền kinh tế…”
- Hai
là “Thành phần kinh tế tư bản chủ
nghĩa bao gồm những xí nghiệp,
những đơn vị kinh tế tiến hành sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và bóc lột lao động làm thuê. Thành phần kinh tế này bao gồm những xí
nghiệp tư bản vừa và nhỏ mà nhà nước chuyên chính vô sản chưa cải tạo xong. Ở
nông thôn thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là kinh tế phú nông….Trong
quá trình phát triển ở thời kỳ quá độ
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa hoạt động dưới sự kiểm tra và kiểm
sát của Nhà nước chuyên chính vô sản và dần dần được cải tạo và xóa bỏ. Con
người tư sản được cải tạo và dần dần trở thành con người lao động”.
- Ba
là “Thành phần kinh tế sản xuất hàng
hóa nhỏ bao gồm kinh tế nông dân
và thợ thủ công dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động cá
thể.Bản chất của thành phần kinh tế này mang tính chất hai mặt(tư hữu và lao
động). Do dựa trên sở hữu tư nhân, thành phần này thuộc cùng loại hình với
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều khác biệt cơ bản là thành phần kinh
tế tư bản chủ nghĩa dựa trên bóc lột lao động làm thuê, còn thành phần kinh tế
sản xuất hàng hóa nhỏ chỉ dựa trên lao động cá nhân của chính người sản xuất
hàng hóa…”
- Bốn
là “Thành phần kinh tế gia trưởng biểu hiện cho một nền kinh tế nhỏ, tự
nhiên, tự cấp, tự túc ít liên hệ với thị trường”
- Năm
là “Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước (hay còn gọi là chủ nghĩa tư bản nhà nước) có một vai trò nhất định
trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ….. Trong
điều kiện chuyên chính vô sản , chủ nghĩa tư bản nhà nước là các chủ tư bản
có quan hệ hợp đồng, hợp tác với nhà
nước xã hội chủ nghĩa sản xuất kinh doanh trong trong một ngành hoặc một sản
phẩm nhất định theo điều kiện và thời hạn do hợp đồng qui định. Sự hoạt động
của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước đặt dưới quyền giám sát trực tiếp của
Nhà nước chuyên chính vô sản…Người ta xử dụng những hình thức khác nhau của tư
bản nhà nước mà công tư hợp doanh là một dạng”.
-
Tiến hành “Đổi mới” thế nào?
Trong thời khoảng trước qua hai kế hoạch 5
năm (1976-1985)Việt cộng đã thất bại trong mục tiêu triệt tiêu mọi thành phần
kinh tế tư bản chủ nghĩa, thay vào các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bằng
chủ trương, chính sách và các biện pháp cải tạo triệt để tài chánh tiền
tệ,công, thương, nông nghiệp…Thất bại nên phải “Đổi mới” về phương cách nhưng vẫn giữ vững mục tiêu “Đi lên chủ nghĩa xã hội không thông qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
Thực hiện “Đổi mới” qua hai
kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986-1990) và thứ năm(1991-1995), trên lãnh vực
công, thương nghiệp, Việt cộng cho các hình thức sản xuất kinh doanh, phân
phối, dịch vụ tư nhân cá thể hay tập thể (công
ty, tổ hợp, cá nhân..), bên cạnh hệ thống công tư hợp doanh và quốc doanh
đóng vai trò chủ đạo.
Trên lãnh vực nông nghiệp cũng thế, Việt cộng chấp nhận giao lại một
phần ruộng đất cho nông dân canh tác trực canh cá thể hay tập thể, khoán sản
phẩm hay nộp thuế nông nghiệp, tồn tại song song với các công, nông trường quốc
doanh. Tuy nhiên Việt cộng chỉ cấp quyền xử dụng đất cho người nông dân, quyền
sở hữu đất đai thì vẫn giữ thuộc “quyền
sở hữu toàn dân” (tức thuộc nhà
nước,tức thuộc đảng Cộng sản Việt Nam, vì “Đảng ta”cũng là “nhà nước ta”, “ nhà
nước ta và Đảng ta”tuy hai là một, trong
chế độ độc tài đảng trị Việt cộng).
Chiến thuật của “Đổi mới” là
tạm thời Việt cộng “lùi một bước” (chấp nhận sự tồn tại của các thành phần
kinh tế tư nhân cá thể phi xã hội chủ nghĩa trên lãnh công, nông, thương nghiệp
và dịch vụ…) để sửa chữa sai lầm, rồi tiến hai bước theo hướng “ đi lên kinh tế xã hội chủ nghĩa” (với ý định dùng thành phần kinh tế quốc
doanh đóng vai chủ đạo ngày một lớn mạnh sẽ tiêu diệt, thay thế dần dần các
thành phần kinh tế tư nhân cá thể cũng như tập thể, để sau cùng thiết lập được
quan hệ sản xuất công, nông, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa…như tài liệu của
Việt cộng dẫn chứng ở trên).
- Hiệu quả ra sao?
Trên thực tế, sau hai kế hoạch 5 năm “Đổi mới”(1986- 1995), mục tiêu sau cùng trên đã không đạt được vì các thành
phần kinh tế tư nhân cá thể cũng như tập thể phi xã hội chủ nghĩa ngày một phát
triển lớn mạnh, trong khi hệ thống kinh tế quốc doanh đóng vai chủ đạo thì ngày
càng suy yếu, không chỉ là nguy cơ mà là một thực tế:các
thành phần kinh tế tư nhân cá thể tư bản chủ nghĩa đã
từng bước tiêu diệt các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể xã hội chủ nghĩa. Nhiều đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh
công thương, nông nghiệp quốc doanh làm ăn hạch toán lỗ lã đã phải giải thể.
Thật vậy, trên lãnh vực công thương nghiệp, dịch vụ cá thể tư nhân đã
phát triển mạnh ở hầu hết các thành thị, thị trấn. Nhiều cơ sở tổ hợp, hợp tác
xã công nghiệp và tiểu công nghiệp làm ăn tập thể, các cửa hàng thương nghiệp,
dịch vụ quốc doanh bị giải thể, trong khi các cơ sở sản xuất kinh doanh do tư
nhân làm ăn cá thể hay dưới hình thức công ty cổ phần, ngày một phát đạt. Những
hoạt động công thương nghiệp dưới hình thức công tư hợp doanh như một nỗ lực
trung chuyển lên hình thức quốc doanh đóng vai trò chủ đạo theo định hướng xã
hội chủ nghĩa thì èo ót đi đến tan vỡ.
Trên lãnh vực nông nghiệp, Việt cộng dù đã bãi bỏ một số hình thức làm
ăn tập thể như các tổ, đội sản xuất, giải thể một số hợp tác xã nông nghiệp,
một số nông trường quốc doanh không có hiệu quả kinh tế;chỉ giữ lại các hợp tác
xã nông nghiệp bậc thấp, bậc cao, các nông trường quốc doanh nào còn làm ăn có
hiệu quả kinh tế , sẽ đóng vai chủ đạo phát triển nông nghiệp, với hy vọng sau
một thời gian sẽ thay thế dần các hình thức canh tác cá thể để sau cùng sẽ
thiết lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa về nộng nghiệp.
Thế nhưng, thực tế các hình thức canh tác nông nghiệp cá thể đã có hiệu
quả kinh tế cao và ngày một phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, trong khi
các hình thức canh tác tập thể, quốc doanh có hiệu quả còn được giữ lại không
đủ sức cạnh tranh, ngày một suy thoái, rơi rụng dần và mất hẳn vai trò chủ đạo.
Như vậy là chính sách “Đổi mới”
kinh tế sau 10 nằm đã không sửa sai, không cải tạo được các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa. Hệ quả tất nhiên là đã không thiết lập được quan hệ sản xuất, kinh doanh
xã hội chủ nghĩa. Và như thế “Đổi mới”
đã thất bại hoàn toàn vì các mục tiêu của
cuộc cách mạng quan hệ sản xuất là một trong 3 cuộc cách mạng của định
thức đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh
tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” đã không thành đạt.
Thất bại hoàn toàn,
nhưng Việt cộng vẫn không chịu thừa nhận, tiếp tục thực hiện “Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”
bằng chính sách “Mở cửa” giao tiếp
với bên ngoài.
*
Thực hiện chính sách “Mở cửa” (Từ 1996 đến nay)
- Nguyên nhân và mục tiêu “Mở cửa”
Thất bại trong chủ trương, chính sách“Cải tạo và xây dựng cơ sở ban đầu của xã hội chủ nghĩa” và “Đổi mới” cũng không cứu vãn được, Đại Hội VIII Cộng Đảng Việt Nam
(1996) đã đưa ra nghị quyết thực hiện chính sách “Mở cửa” vẫn trong chủ trương, chính sách “Đổi mới kinh tế”, “không đổi
mới chính trị”. Có khác chăng là việc thực hiện chủ trương, chính sách “đổi mới” trước đây diễn ra trong khung
cảnh quốc nội, giao tiếp hạn hẹp với một số nước cùng chủng loại xã hội chủ
nghĩa hay độc tài các kiểu; còn chủ trương ,chính sách “mở cửa” sau này cho đến nay, đã diễn ra trong khung cảnh mở rộng
ra thế giới bên ngoài, giao tiếp với mọi nước dù khác chế độ chính trị, trong
đó đa phần là các nước dân chủ tư bản chủ nghĩa.
- Thực hiện thế nào?
Sở dĩ Việt cộng thực hiện được chủ trương, chính sách “Mở cửa” này là nhờ nước cựu thù “Đế
Quốc Mỹ” thay đổi chính sách, bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao với
Việt cộng vào cuối năm 1995,không còn coi Việt cộng là “Đối phương” mà là một “Đối
tác” làm ăn trên cơ sở “hai bên cùng
có lợi”. Từ đó, mở ra cơ hội cho mỗi ngày một nhiều các nước tư bản chủ
nghĩa trở thành đối tác làm ăn kinh tế với Việt cộng.
- Hiệu quả thế nào?
Chính nhờ “Đế
quốc Mỹ” cựu thù quay lại, từ “Đối
phương” trong quá khứ thành “Đối
tác” làm ăn trong hiện tại và tương lai, trên căn bản hai bên cùng có
lợi, đã giúp vực dậy công cuộc“Đổi mới” của Việt Cộng để có những
bước phát triển “nhẩy vọt”, không
phải “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa” bằng con đường “kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”mà đã và đang “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa tư bản” ,vì con đường “Kinh tế thị
trường” tất yếu phải “định hướng tư
bản chủ nghĩa”. Và chính “kinh tế thị
trường” đã tạo được những bước phát triển “nhẩy vọt” để Việt Nam có được bộ mặt phồn vinh như hôm nay (chứ không phải do con đường kinh tế thị trường theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa như Việt cộng ngụy biện).
Trên thực tế, sau 10
năm “Đổi Mới” thất bại hoàn toàn, kể
từ năm 1995, Việt cộng trong thâm tâm đã thực sự từ bỏ mục tiêu “Xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam.
Tuy nhiên, bước vào
thời kỳ “Mở cửa”, Việt cộng vẫn bám
lấy mục tiêu này một cách giả tạo trên bình diện lý luận, ngụy biện bằng định
thức “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”, trong khi thực tế
“kinh tế thị trường đã và đang định hướng tư bản chủ nghĩa”.
Tương tự như bề ngoài Việt
cộng vẫn bám lấy bảng hiệu “Đảng Cộng Sản Việt Nam”,dù thực chất đã là một
“Đảng Tư Bản Đỏ” (đỏ vỏ xanh lòng) và danh xưng chế độ “Cộng
Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam” cũng chỉ là kiểu gian
thương “Treo đầu dê bán thịt chó”. Thế nhưng Việt cộng vẫn tuyên truyền cho mục tiêu xây dựng
xã hội chủ nghĩa; dù các đảng viên lớn bé đã thoái hóa biến chất hoàn toàn,
không còn đảng viên nào còn có phẩm chất của một đảng viên CS chân chính (theo nghĩa rèn luyện nhân cách, có tinh thần
hy sinh quên mình đấu tranh cho mục tiêu hiện thực lý tưởng cộng sản..), và
không một đảng viên cộng sản nào còn niềm tin vào sự hiện thực lý tưởng xã hội
chủ nghĩa tại Việt Nam. Thế nhưng, sở dĩ Việt cộng vẫn cố bám lấy những Cái vỏ
“đảng Cộng sản” và “nhà
nước XHCH” này như một
chiêu bài là để che đậy một thực chất muốn dùng mô hình tổ chức,kinh nghiệm và
kỹ thuật trấn áp của một đảng độc tôn, độc quyền thống trị (Cộng
đảng Việt Nam) trong một chế độ độc tài toàn trị (Xã hội chủ nghĩa với nền chuyên
chính vô sản).
Thực tế ai cũng thấy
Việt Nam đã chuyển hóa thành một “xã hội thực dụng tư bản chủ nghĩa”, với các quan hệ sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa chi phối mọi
hoạt động kinh tế vĩ mô cũng như vi mô. Thành phần kinh tế quốc doanh đang thoi
thóp, giải tư từng bước và đang chờ ngày được giải tư hoàn toàn để bị cáo
chung.
Đến đây một câu hỏi được nhiều người đặt ra:
-Vì
sao Việt cộng không theo gương Liên Xô, sau
“Đổi mới” thất bại
chuyển đổi ngay qua dân chủ đa nguyên, kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, mà tiếp tục
“Đi lên xã hội chủ nghĩa” bằng con đường “Kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”?
Thật ra, Cộng Đảng Việt Nam thực hiện chính sách “Đổi mới” để “Sửa sai” chỉ là sự bắt chước theo gương Cộng đảng
Liên Xô trước đó trong thời khoảng này cũng đang đi vào còn đường cải cách để
cứu nguy chế độ xã hội chủ nghĩa sau gần 70 năm xây dựng (1917-1985).
Người đứng đầu nhóm khởi xướng chương trình “cải tổ” (Glasnost) và “Cởi mở”(Perestroika) là Tổng Bí Thư
Cộng Đảng Liên Xô Mikhail Gorbachev, lúc
đó mới 56 tuổi đời, là một Tổng Bí Thư trẻ tuổi nhất, ít được nhân dân Liên Xô
và thế giới bên ngoài biết đến nhất trong lịch sử lên ngôi của các Tổng Bí Thư
Cộng Đảng Liên Xô. Thế nhưng, có lẽ nhờ tuổi đời ấy, Gorbarchev đã sinh ra và
lớn lên trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa, nên đã dễ dàng nhìn thấy những
khuyết tật của chặng đường đã qua của đất nước Liên Xô trên con đường “Xây dựng xã hội chủ nghĩa”.Từ đó và nhờ đó, phải chăng Ông và các
đồng chí cấp tiến trong đảng Cộng Sản Liên Xô mới mạnh dạn thực hiện quyết tâm
đi theo con đường cải cách, với kết cuộc chính sách “cải tổ” và “cởi mở” đều
đã thất bại, vẫn không tạo ra được bộ mặt mới cho chủ nghĩa xã hội, không cứu
được Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết (gọi tặt là Liên Xô) như ý định thực sự của ông Gorbachev và các
đồng chí cấp tiến trong đảng CSLX, buộc lòng phải chuyển đổi một cách hòa bình
qua chế độ Cộng Hòa Liên Bang Nga ngay nay. Một sự chuyển đổi có lợi cho các
dân tộc từng bị cưỡng ép phải sống chung dưới mái nhà “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô Viết” sau hơn 70 năm.
(Trong báo cáo trước Hội Nghị Toàn Liên Bang Xô-Viết lần thứ 19 của đảng
CSLX ngày 28-6-1988, nghĩa là sau gần 4 năm tiến hành công cuộc cải
tổ(1988-1991), Ông Gorbachev đã khẳng định việc cải cách hệ thống chính trị là
bảo đảm quan trọng nhất làm cho công cuộc cải tổ không thể đảo ngược. Và rằng thông qua cuộc cải tổ cách mạng sẽ tạo ra
bộ mặt mới cho chủ nghĩa xã hội. Ông nói: “…Vâng, chúng ta đang từ bỏ tất cả những gì đã làm biến dạng chủ nghĩa
xã hội trong những năm 30 và những gì đã đưa đến trì trệ trong những năm 70.
Nhưng chúng ta muốn có một chủ nghĩa xã hội đã được tẩy sạch khỏi những sai lạc
của những thời kỳ trong quá khứ và đồng thời kế thừa tất cả những gì tốt đẹp
nhất đã được tạo ra bằng tư duy sáng tạo của những nhà sáng lập ra học thuyết
của chúng ta…”)
Như vậy, có thể nói Liên Xô
đi vào con đường “Cải tổ” sau gần 70
năm nói là đã cải tạo xong và hoàn tất công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa về
cơ cấu, nhưng chưa hoàn chỉnh, còn nhiều khuyết tật cần cải sửa. Nhưng sau gần
6 năm cải cách thất bại (1985-1991), Liên Xô đã nhanh chóng chuyển đổi toàn bộ
hệ thống chính trị, kinh tế qua chế độ dân chủ đa nguyên và kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa (từ 1991).
Trong khi Việt cộng theo gương Liên Xô (từng xưng tụng là Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa của mình) làm “Đổi mới” sau 10 năm (1986-1996), đã thất bại hoàn toàn
trong mục tiêu “cải tạo và xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa”, song vẫn không chuyển đổi như liên
Xô. - Vì sao Việt cộng có sự lựa chọn khác Liên Xô,? Không lẽ “Trò Việt cộng”
lại tài giỏi hơn “Thầy Liên Xô”?
Theo nhận định của chúng tôi,
Việt cộng dám làm khác Liên Xô, là vì có được những điều kiện chủ quan và khách
quan khác Liên Xô để thoát hiểm và tiếp
tục tồn tại thêm thời gian, dù cũng biết rằng sự tử vong đã là một tất yếu,
song cố bám víu được ngày nào tốt ngày ấy cho việc duy trì những ưu quyền đặc
lợi cho một tập đoàn thống trị độc tôn và độc quyền là Cộng đảng Việt Nam.
Học trò Việt cộng đã làm được việc này, chẳng phải tài giỏi gì hơn
Thầy Liên Xô, mà nhờ có những điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi khác
Liên Xô sau đây:
- Một
là vì người cầm đầu phe “Cải tổ” ở Liên Xô là Tổng Bí Thư Cộng đảng Liên Xô
Mikhail Gorbachev trẻ
tuổi (56 tuổi đời) và có tinh thần
cấp tiến mạnh bạo hơn nhiều so với người cầm đầu phe “Đổi mới” Việt cộng là Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh già nua (ngoài
70), đổi mới cầm chừng, nửa vời.
- Hai
là vì khi “Cải tổ” ở Liên Xô thất bại, phe cấp tiến trong đảng Cộng sản Liên Xô
đã hình thành một lực lượng đối trọng mạnh hơn phe bảo thủ và được sự hậu thuẫn của các kuynh hướng
chính trị ngoài đảng cộng sản đã liên kết được, nhất là được sự hậu thuẫn tán
đồng của tuyệt đại đa số nhân dân Liên Xô thuộc nhiều dân tộc có chung số phận
bị áp chế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa độc tài toàn trị Liên Xô trong hơn 70
năm(Đã đến biên độ tức nước vỡ bờ)
Tất cả đã tạo ra điều mà chính
Vladimir Lenine người sáng lập Đảng Cộng sản Bolsevick Nga và chế độ Cộng Hòa
Liên Bang Xô Viết gọi là “Tình thế cách
mạng chín mùi”. Tình thế mà giai cấp thống trị độc quyền là Cộng Đảng Liên
Xô đã tạo ra mâu thuẫn đối kháng (một
mất, một còn) với mọi giai cấp, với toàn xã hội, bị cô lập hoàn toàn và
chính các lực lượng bảo vệ “Chuyên chính vô sản” (Công
an, quân đội) cũng đứng về phía nhân dân, không còn ai dám bắn giết nhân
dân để bảo vệ chế độ.(Hình ảnh nhân dân
Liên Xô bao vây việt DUMA quốc hội Liên Xô, quân đội, xe tăng câm họng, chế độ
Xô- Viết cáo chung năm 1991).
- Ba là vì trong khi Việt Nam,
vào thời điểm “Đổi mới” thất bại, về đối nội phe cấp tiến trong nội bộ Cộng
đảng Việt Nam quá yếu ớt, một ủy viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách cấp tiến
tiêu biểu, muốn theo gương Liên Xô “Đổi
mới cả kinh tế lẫn chính trị” là bị triệt hạ ngay, dù trước đó đã có dấu
hiệu sẽ thay thế Nguyễn Văn Linh trong chức vụ Tổng Bí Thứ Cộng Đảng Việt Nam.
Các khuynh hướng chính trị ngoài đảng nhất là các tổ chức, đảng phái quốc gia
chống cộng vẫn phân tán, không tập trung được lực lượng trong cũng như ngoài
nước khả dĩ tạo được lực lượng đối trọng với Cộng đảng Việt Nam, để hậu thuẫn
được gì cho phe cấp tiến. Quần chúng nhân dân thì bị liệt kháng do bị chế độ
kềm kẹp, trấn áp nhiều năm, quá lắm cũng chỉ dám bầy tỏ quan điểm chính trị
trong chốn riêng tư. Nghĩa là Việt cộng vẫn “Nắm vững được chuyên chính vô
sản” dựa vào các công cụ
bảo vệ chế độ là quân đội, công an cảnh sát.
- Bốn là về đối ngoại, vào đúng thời điểm
Việt cộng làm “Đổi Mới” thất bại, thì lại được cựu thù “Đế quốc Mỹ” đưa tay cứu
vớt (Với ý đồ cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược mới trong vùng), bằng
hành động bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hê ngoại giao, giúp Việt cộng đi vào
thời kỳ “Mở cửa” với thế giới bên ngoài.
Vì sau đó, theo chân “đế quốc
Mỹ”, các nước tư bản và các nhà tư bản nước ngoài, mở rộng và phát triển
đầu tư trong các quan hệ làm ăn song phương cũng như đa phương với Việt cộng.
Đây chính là điều kiện thuận lợi giúp Việt cộng chơi trò “Lá mặt lá trái”tiếp tục “Đổi
mới kinh tế” bằng chính sách “Mở
cửa” đón cựu thù “Đế quốc Mỹ” và các nước tư bản vào đầu tư, phát triển theo
cái gọi là “Kinh tế thị trường (lá
mặt), theo định hướng xã hội chủ nghĩa (lá
trái)”.
Như vậy là mọi chủ trương, chính sách để thực hiện cuộc “Cách mạng quan hệ sản xuất” nhằm phá
hủy “quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”, thiết lập “quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa”, Việt cộng đã thất
bại hoàn toàn. Vậy còn cuộc “Cách mạng khoa học kỹ thuật” Việt cộng đã thực hiện thế nào, hiệu quả
ra sao?
-
Hai là Cách mạng khoa học kỹ thuật.
-
Mục tiêu là gì?
Là thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển khoa
học, kỹ thuật để theo kịp “Tầm cao thời
đại”, để có được nhiều phát minh khoa học kỹ thuật tiên tiến vận dụng vào
mục tiêu phục vụ cho mọi nhu cầu cuộc sống con người, phát triển toàn diện xã
hội và đất nước; Nhất là thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật sẽ phục vụ
cho cuộc “cách mạng quan hệ sản xuất”để không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng
cao năng xuất lao động, để chứng tỏ “Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” ưu việt hơn, nên có năng xuất lao động
cao hơn “Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã được Lê Duẩn Tổng bí
thư của Cộng đảng Việt Nam
trình bầy trong kỳ họp thứ nhất của quốc hội chung của cả nước (Tháng 6-1976):
“
Biến nền sản xuất nhỏ dựa phần lớn trên
lao động thủ công, phân tán,phân công lao động chưa phát triển,năng xuất, hiệu
quả và chất lượng thấp thành một nền sản xuất cơ khí hóa, tự động hóa,điện khí
hóa, hóa học hóa, một nền sản xuất tập trung hóa, chuyên môn hóa,liên hiệp hóa
và hợp tác hóa cao, tổ chức lại lao động
theo qui mô lớn, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, phát huy
và xử dụng hợp lý lao động và tài nguyên của đất nước…”.
Như vậy rõ ràng là cách mạng khoa học kỹ thuật đã có một nhiệm vụ
vô cùng to lớn. Đó là làm thay đổi tận gốc toàn bộ lực lượng sản xuất của xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất,kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội.Chính vì vậy
mà cuộc “Cách Mang Khoa Học Kỹ Thuật” mới
được Cộng đảng Việt Nam coi là “Then
chốt” trong định thức “Đi lên chủ nghĩa xã hội không thông qua giai
đọan phát triển tư bản chủ nghĩa”.Thế nhưng thực tế cuộc cách mạng này đã tiến hành ra sao, hiệu quả
thế nào?
-
Tiến hành ra sao?
Mặc dầu “Cách mạng khoa học kỹ thuật” được coi
là “Then chốt” song chỉ nặng về lý
luận tuyên truyền có tính nguyên tắc,trên thực tế không được “Đảng” và “Nhà nước chuyên chính vô sản” Việt cộng đầu tư tương xứng và thực
hiện mạnh mẽ, qui mô, các chủ trương, chính sách và các biện pháp tiến hành
không được tuyên truyền rộng rãi như cuộc
“cách mạng quan hệ sản xuất”.
Trên thực tế, về mặt tổ chức, Việt cộng cũng
có thiết lập các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật các ngành (Viện Toán học, các Viện Khoa tự nhiên, khoa
học xã hội…),định kỳ mở các cuộc hội thảo chuyên đề về khoa học kỹ thuật, cũng tỏ ra quan tâm phát hiện, bồi
dưỡng,đào tạo các nhân tài có những phát kiến khoa học kỹ thuật trên mọi lãnh
vực của đời sống xã hội…Thế nhưng….
- Hiệu
quả thế nào?
Trong suốt 20 năm đầu của thời kỳ quá độ “Đi
lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1975-1995) thực hiện chính sách “Cải
tạo và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội”
(1975-1985) và chính sách
“Đổi mới”
(1985-1995) để sửa sai tiếp tục đưa đất nước “Đi lên chủ nghĩa xã hội”, người ta không thấy được thành quả đáng
kể nào của cuộc “cách mạng khoa học kỹ
thuật” giúp ích cho “Cách mạng quan
hệ sản xuất” nói riêng, cho sự cải thiện,thăng tiến đời sống con người, xã
hội và đất nước nói chung. Sự thất bại của “Cách
mạng quan hệ sản xuất” và sự suy thoái tụt hậu toàn diện con người, xã hội
và đất nướcViệt Nam
đã cho thấy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cũng đã thất bại hoàn toàn.
Thất bại vì nhiều lý do, trong đó có yếu tố đối nội là khung cảnh chế độ
chính trị xã hội độc tài toàn trị, bị
bao vây cô lập với thế giới văn minh, với nền giáo dục khép kín, nhồi nhét ý
thức hệ cộng sản,một chiều, trái tự nhiên, phản khoa học, nên đã không phát huy
được óc sáng tạo, sản sinh được các nhà khoa học với nhiều phát minh đột phá.
Vì khép kín, nên với thế giới bên ngoài, do chính sách “Đóng cửa” và bị cô lập với thế giới các nước tư bản phát triển, có
nhiều phát kiến khoa học kỹ thuật tân tiến và chỉ “mở cửa” với thế giới các nước “xã hội chủ nghĩa nghĩa” hầu hết chậm tiến, đóng khung, nên
đã “tụt hậu” về mặt khoa học kỹ thuật và
đã không theo kịp “tầm cao thời đại của
khoa học kỹ thuật tân tiến” là hệ quả tất nhiên.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, trong thời khoảng này, qua bộ máy tuyên
truyền khoa trương của “Đảng và Nhà ” Việt cộng, người dân trong nước được biết
một số sự kiện sau đây không biết có phải là thành quả của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật trong định thức đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt cộng hay không?
- Trên lãnh vực nghiên cứu không
gian, Việt Nam
đã được Liên Xô huấn luyện và đào tạo được một phi hành gia là phi công Nguyễn
Tuân cho đi chung với các phi hành gia Liên Xô vào vũ trụ. Chuyến đi thành
công. Thế nhưng Phi hành gia Nguyễn Tuân đi vào vũ trụ được có thể không phải
là thành quả của “Cách mạng khoa học kỹ
thuật” của Việt cộng mà là công huấn luyện đào tạo của Liên Xô, và thành
tích cá nhân về khoa học trong chuyến đi vào không gian của phi hành gia Nguyễn
Tuân ít ai được biết (dường như chỉ để
nghiên cứu bèo hoa dâucủa sinh thái Việt Nam trong môi trường không gian ? nếu
chúng tôi nhớ không lầm). Vì vậy thành quả này chỉ có giá trị nặng về tuyên
tuyền truyền chính trị hơn là giá trị thành quả khoa học kỹ thuật nên đã được
Viêt cộng khoa trương, học tập.
- Trên lãnh vực toán học, hàng năm Việt Nam đều gửi học sinh giỏi
toán đi thi toán quốc tế và đã có nhiều học sinh giật giải, đã được bộ máy
tuyên truyền độc quyền nhà nước thổi phồng như môt thành tích của “Cách mạng
khoa học kỹ thuật”?
- Trên lãnh vực y khoa, một
số bác sĩ có sáng kiến và đã thành trong phương pháp mỗ tim, ghép thận, gan và
chỉnh hình, điển hình có Bác sĩ Tôn Thất Tùng với các trường hợp mổ tim thành
công trong thời khoản này được đề cao.
- Trên lãnh vực sản xuất công,
nông nghiệp: Một số những phát kiến kỹ thuật được tuyên truyền là đã giải quyết được những
“sự cố kỹ thuật” hay “cải tiến được kỹ thuật”, nâng cao năng
xuất trong các nhà máy, công, nông trường, được nhà nước phong danh hiệu “Anh hùng lao động”, cấp bằng sáng chế
để góp thêm thành quả cho cuộc “Cách
mạng khoa học kỹ thuật”? Thế nhưng thực tế đã có câu trả lời: năng xuất lao
động không tăng, chất lượng sản phẩm kém, phương pháp canh tác nông nghiệp vẫn
lạc hậu, vẫn con trâu đi trước, người cầy đi sau…(có khác đôi chút là nhiều nơi “Người” đã đươc “Trâu” kéo cầy thay
người…và người nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, đã “làm ngày không đủ,
tranh thủ làm đêm”mà năng xuất vẫn không tăng, cuộc sống vẫn khó khăn thiếu
thốn),vẫn không cơ giới hóa được sản xuất nông nghiệp, không đưa được nền
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN,vẫn không “áp dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật tiên tiến, phát huy và xử dụng hợp lý lao động và tài nguyên của
đất nước…”như Tổng Bí thư Lê Duẩn của Cộng Đảng Việt
Nam đã “báo cáo” có tính chỉ đạo trong kỳ họp thư nhất của quốc hội chung của
cả nước như đã trích đoạn ở trên (1976).
Tất cả những thành tích điển hình qua các lãnh vực trên liệu có thể coi
là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hay chỉ là do tài năng, nỗ lực nghiên cứu,
sáng tạo cá nhân được guồng máy tuyên truyền Việt cộng thổi phồng, đánh bóng ?
Thực tế phải đợi cho đến sau 16 năm thực hiện chính sách “Mở
cửa” (1996-2012) những
thành quả khoa học kỹ thuật của thế giới văn minh, chủ yếu là từ các nước tư
bản (mà Việt cộng tuyên truyền là đang
rẫy chết) chứ không phải từ Liên Xô và các nước XHCN anh em (mà thực tế đã chết gần hết) mới du
nhập vào Việt Nam (chứ không phải do cuộc
“Cách mạng khoa học kỹ thuật” của Việt cộng đem lại) đã làm thay đổi nhanh
chóng mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội Việt Nam….như mọi người đã biết qua
phim ảnh, báo chí hay thực tế có dịp về lại Việt Nam. Một thực tế “Phồn vinh”
bên ngoài đã khiến một số “Việt kiều” sau khi từ Việt nam trở về đã thay đổi
lập trường, ca ngợi thán phục như là kết quả của tài “kinh bang tế thế” của
Việt cộng trong khung cảnh chế độ độc tài toàn trị kiểu Việt cộng, qua con
đường “kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Ba
là cách mạng tư tưởng và văn hóa.
- Mục
tiêu là gì?
Là thực hiện triệt để, mạnh mẽ những chủ trương, chính sách tuyên
truyền, giáo dục, học tập nhằm “cải tạo
tư tưởng và văn hóa” để chuyển hóa
những con người Việt Nam trong xã hội cũ ( với lý luận là mang tính chất người
áp bức bóc lột người,cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, độc ác, bất công…),và xây dựng những con người mới sinh ra trong
chế độ mới, để tạo ra những con
người mới xã hội chủ nghĩa (không
mang tính người áp bức bóc lột người, có phẩm chất và đạo đức xã hội chủ nghĩa
(?), có tinh thần “mình vì mọi người” và “ mọi người vì mỗi người”, mọi người sống chung trong tình hữu ái…).
Việt cộng lý luận rằng “Muốn
có xã hội chủ nghĩa, phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa” với phẩm chất đại để là như thế…
- Tiến hành thế nào?
Để thành đạt mục
tiêu của “Cách mạng tư tưởng và văn hóa”
theo thời gian năm tháng sau ngày 30-4-1975, trong những vùng “mới giải phóng” ở Miền Nam ,
Việt cộng đã:
- Mở
nhiều chiến dịch quét sạch cái gọi là “tàn dư nọc độc của nền văn hóa đồi trụy
Mỹ -Ngụy”. Các nơi, trong
những ngày tháng năm đầu mới “Giải phóng”, Việt cộng chỉ đạo cho những đoàn
thanh thiếu niên “Cờ Đỏ” (Tiền thân của
đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh) đến từng nhà tịch thu “Những sách báo phản động, đồi trụy, sản
phẩm của chủ nghĩa thực dân mới” , chẳng cần biết sách đó là sách gì, nội
dung ra sao. Nói là tịch thu đem thiêu hủy, song thực tế phần nhiều được cân ký
bán ve chai làm bao bì đóng gói trên thi trường bát nháo lúc bấy giờ.
- Thay
thế “nền giáo dục Ngụy”:
bằng nền “Giáo dục xã hội chủ nghĩa” ngay từ niên học đầu tiên sau “Giải
phóng”(1975-1976), với chương trình giảng dậy và sách giáo khoa từng được giảng
dậy ở Miền Bắc XHCN, có cải sửa đôi chút cho phù hợp với “Tình hình và nhiệm vụ mới” ở Miền Nam. Ban giám hiệu và các giáo viên cốt cán gốc Miền Bắc hay đi tập
kết được điều vào làm công tác giáo dục bên cạnh số đông là các giáo viên
(Trung học), giáo sư (Đại học) tại chỗ gốc “Dân ngụy” ở Miền Nam được học tập,
bồi dưỡng qua các khóa học tập chính trị dài ngày thường tổ chức vào các kỳ
nghỉ hè.
- Mọi
tầng lớp nhân dân ở mọi độ tuổi, vị trí, ngành nghề làm việc trong môi trường
xã hội,các đoàn thể, các tổ dân phố… đều được tuyên truyền học tập về chủ nghĩa xã hội, về tư tưởng,
đạo đức và nếp sống văn hóa mới trong nỗ lực hình thành một xã hội tốt đẹp:
Xã hội xã hội chủ nghĩa!?!
- Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, phim ảnh “Cách mạng” được Việt cộng phổ biến rộng rãi. Bút ký
“15 năm ấy” (1975-1990) của Bs Nguyễn Khắc Viện, một “Việt kiều yêu nước” đã về giúp Việt cộng sau ngày 30-4-1975,sau
này đã “Phản tỉnh” muộn màng. Bút ký này phát hành nhân kỷ niệm 15 năm “Giải
phóng Miền Nam”
đã viết:
“Đời sống văn hóa-tư tưởng ở các
vùng mới giải phóng tất nhiên cũng trải qua những biến đổi căn bản…Những chương
trình biểu diễn sân khấu và chiếu bóng hoàn toàn đổi khác: Những vở kịch sân
khấu và những bộ phim cách mạng thay thế cho tất cả những gì đã tồn tại trước
đó. Phải nhận rằng, trong thời gian đầu, công chúng ở các vùng giải phóng háo
hức với những tác phẩm cách mạng và xã hội chủ nghĩa, qua đó họ tiếp cận với
những thay đổi xã hội và chính trị một
cách dễ dàng hơn. đặc biệt trong giới trẻ.Nhưng rõ ràng những tác phẩm văn
hóa-tư tưởng của chế độ mới dần dần không đáp ứng được công chúng cả về hình
thức lẫn nội dung. Người ta đòi hỏi những tác phẩm phải giải đáp trúng những
vấn đề phức tạp của cuộc sống đất nước và trên thế giới…”
- Hiệu
quả ra sao?
Chẳng cần nói nhiều, nhìn vào thực tế thì
ai cũng biết cuộc “cách mạng tư tưởng và văn hóa” cũng không có hiệu quả, đã thất bại. Vì
sau hai thập niên tiến hành và cho đến nay vẫn không thành đạt được cái gọi là
nền văn hóa mới với những “Con người mới
xã hội chủ nghĩa” có phẩm chất đạo đức và nếp sống văn hóa mới theo lý luận
của Việt cộng.
Vì sau 20 năm thực
hiện triệt để cách mạng tư tưởng và văn hóa của thời kỳ quá độ, đã không sản
sinh được những con người mới xã hội, chuyển hóa từ lớp người cũ cũng như xây
dựng từ những con người sinh ra trong lòng chế độ Việt cộng, thông qua tuyên
truyền, giáo dục, đào tạo.
Ngay cả những con người tự nhận là thành
phần tiên tiến nhất của giai cấp vô sản (những đảng viên cộng sản), quy tụ thành “đội tiên phong của giai cấp
vô sản” (tức Cộng đảng Việt Nam) đóng vai trò
lãnh đạo “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa” để xây dựng “xã hội xã hội chủ nghĩa” trong
đó có công việc xây dựng, đào tạo ra những “Con người mới xã hội chủ
nghĩa”, thực tế hầu hết
những con người tiên tiến nhất, giác ngộ nhất về chủ nghĩa xã hội này, là những
cán bộ, đảng viên cộng sản, (ngay cả
những hậu duệ là những đoàn viên thanh thiếu niên cộng sản), chính bản thân
họ chưa phấn đấu đủ “Phẩm chất con người xã hội chủ nghĩa” thì đã “biến chất” và
bị xã hội thực tiễn lưu manh hóa ở mức độ “tiên
tiến” hơn hẳn những người dân bình thường cùng bị chế độ lưu manh hóa.
Thực tế là, ngày càng
sản sinh nhiều, thật nhiều những con người không có căn bản đạo đức,tư tưởng và
nếp sống văn hóa tốt đẹp. Bởi vì nền
tảng là đạo đức,tín ngưỡng, tôn giáo văn hóa cũ tốt đẹp đã bị cách mạng tư
tưởng và văn hóa Việt cộng phá hủy, lại không được thay thế bằng một nền tảng
đạo đức, nếp sống văn hóa nào tốt đẹp hơn.
Sự thể này đã tạo ra
một thực trạng nghịch lý là, sau nhiều năm tiến hành“Cách mạng tư tưởng và văn
hóa”,Việt cộng đã không
những không “cải tạo” được những “con
người cũ ở xã hội tư bản”
Miền Nam, thành những “con người mới XHCN”. Trái lại,nhưng con người cũ này và con
cháu do họ giáo dục trên căn bản đạo đức và nếp sống văn hóa cũ tốt đẹp, vẫn
tồn tại trong xã hội, đã là kim chỉ nam định hướng phục hồi tư tưởng đạo đức và
văn hóa truyền thống dân tộc tốt đẹp, làm nền tảng bảo tồn trong hiện tại và
thăng tiến xã hội Việt Nam trong tương lai hậu cộng sản.
Thực tế chính Việt
cộng dường như cũng đã thấy được điều này,tuy không giám công khai thừa nhận,
nhưng đã có những biểu hiện điển hình qua những khẩu hiệu được dán trong các
lớp học, có tính đề cao nền đạo đức cổ truyền (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, Tiên học lễ, hậu học văn, ơn cha, nghĩa mẹ
công thầy…) thay vì những khẩu hiệu
tuyên truyền chính trị ( về chủ nghĩa
cộng sản, về “ 5 Điều Bác Hồ dậy”, công ơn “Bác và Đảng”, về tinh thần quốc tế
vô sản với “Tình yêu giai cấp” bên cạnh “Lòng căm thù giai cấp” …)như nhiều
năm trước đây.
Thế nhưng dù có nhìn
thấy vấn đề, Việt cộng vẫn không dám
công khai nhìn nhận sự thất bại của cuộc “Cách mạng tư tưởng và văn hóa” đã gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện
cho dân tộc và đất nước, di hại lâu dài về mặt đạo đức cá nhân con người và nếp
sống văn hóa trong xã hội. Do đó, chắc
chắn sự cải sửa để phục hồi và thăng tiến đời sống con người trong xã hội Việt
nam cũng đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều thế hệ tương lai và phải
là tương lai hậu cộng sản. Vì quá khứ sau nhiều thập niên Việt cộng thống trị
đất nước, đã phá nát, phá đổ toàn diện đất nước, trong đó có diện tư tưởng và
đạo đức chân chính của con người Việt Nam vốn có từ ngàn xưa. Và do đó, không thể cải sửa, phục hồi và
thăng tiến con người và xã hội Việt Nam, ngày nào Việt cộng còn độc chiếm quyền
thống trị nhân dân và đất nước.
Vì làm mất nền tảng
tư tưởng và đạo đức chân chính bao đời của dân tộc Việt, lại thất bại hoàn toàn
trong việc thay thế cái gọi là “tư
tưởng và đạo đức, văn hóa xã hội chủ nghĩa”, nên sau 36 năm thống trị, Việt cộng đã tạo ra những con
người Việt Nam mất căn bản đạo đức cá nhân, lai căng trong nếp sống đa văn hóa,
tốt xấu hổ lốn, du nhập thiếu chọn lọc, hết từ
Nga, Tầu và các nước xã hội chủ nghĩa (1954-1975 trên nửa nước Miền Bắc,và từ 1975-1995 trên cả nước) đến du nhập thêm từ các nước tư bản chủ
nghĩa từ 1996 với chính sách “Mở cửa” cho đến
nay.
Nếu ai từng về thăm,
sống một thời gian tại Việt Nam, hay chỉ cần xem các phim ảnh Việt Nam sau “Mở
cửa” sẽ thấy rõ con người
và xã hội Việt Nam ngày nay chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa đa chủng hổ lốn
như thế nào, được thể hiện qua lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc, quan niệm sống,
lối sống, khung cảnh sống.Qua đó, ai cũng có thể nhận ra ảnh hưởng mạnh mẽ và
rõ nét nhất hiện nay đối với con người và xã hội Việt Nam có lẽ là nền văn hóa
Mỹ và các nước tư bản Phương Tây. Một cách cụ thể và đơn giản, chỉ cần nhìn vào
các kiến trúc và trang trí nội thất của nhiều căn nhà tại Việt Nam, nhất là tại
các thành phố lớn trên ba miền, người ta thấy không khác gì lối kiến trúc và
trang trí tại Mỹ. Về cách ăn mặc kiểu Mỹ, ngôn từ quen thuộc “ dé,dé, dé…”
(yeah! Yeah!Yeah) bẩy tỏ vui mừng kiểu Mỹ, hay O.K được nhiều người tại Việt
Nam, nhất là giới trẻ dùng thay cho từ ngữ Việt Nam “Được chứ?” để kết thúc một
câu hỏi.…
Hệ quả tốt thì ít
thấy, nhưng một trong những hậu quả xấu có thể thấy được trong xã hội Việt nam
ngày càng sản sinh nhiều số lượng những con người bị chế độ lưu manh hóa, Thực
tế, Việt cộng đã tạo ra những con người phẩm chất
bị lưu mamh hóa và lối sống
hai mặt: bộ mặt người và bộ mặt máy (bộ mặt
người lộ ra khi sống thực trong chốn riêng tư với chính mình, quá lắm mở rộng
với gia đình, vợ con, những người thân tín…Và bộ mặt máy sống giả tạo với người
khác, trong quan hệ giao tế ngoài xã hội, tất cả nói , lập luận giống nhau như
người máy, sao cho phù hợp với chủ trương, chính sách của đảng, luật pháp nhà
nước…). Hệ quả là một lối sống phổ biến trong con người và xã hội Việt Nam
ngày nay: sống vô đạo đức, lừa lọc nhau kiếm tiền để sống hay làm giầu bằng mọi
cách, mọi giá dù bất nhân tàn ác, tùy theo vị thế xã hội, là quan quyền (cán bộ đảng viên CS…) hay dân giả, thuộc
mọi giai tầng xã hội và ngành nghề kiếm sống, để có thủ đoạn tranh danh, đoạt
lợi một cách phù hợp, hiệu quả…Đây chính là một nguồn gốc căn bản làm băng hoại
toàn diện con người và xã hội Việt Nam và là một trong nhiều nguyên nhân gia
tăng tội ác cả về số lượng lẫn tính chất tàn bạo của tội phạm hiện nay tại Việt
Nam.
Nói tóm lại: sau
36
năm xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong cái gọi là “Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không thông qua thời
kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa”, mặc dù Việt cộng luôn “Nắm
vững được chuyên chính vô sản” những đã thất bại hoàn toàn cả ba cuộc cách
mạng (Cách mạng quan hệ sản xuất, Cách
mạng khoa học kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng và văn hóa).
- về “chuyên
chính vô sản”, thực tế Việt cộng chỉ nắm vững được trong 20 năm đầu (1975-1995) thực hiện triệt
để chủ trương, chính sách “cải
tạo và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu của xã hội chủ nghĩa”, và chủ trương chính sách“Đổi mới”,để
cứu nguy chế độ; bước vào thời kỳ “Mở cửa” (từ sau 1995 đến nay),
“chuyên chính vô sản” bị suy yếu
dần, sức đề kháng của nhân dân được phục hồi, ngày càng có nhiều người dân đã
dám có lời nói, hành động cá nhân cũng như tập thể, chống lại chế độ, mạnh bạo đấu tranh đòi các
quyền tự do dân chủ, dân sinh và nhân quyền qua các cao trào dân oan khiếu kiện
và các cuộc xuống đường đòi quyền lợi kinh tế, chống bất công xã hội và chống
giặc Tầu xâm lược, bất chấp sự đàn áp, bỏ tù của nhà cầm quyền Việt cộng như
mọi người đều biết.
- Về “Cách mạng quan hệ
sản xuất” Việt cộng đã thất bại vì sau 20 năm tiến hành (1975-1995) các chủ
trương, chính sách và biện pháp nhằm phá đổ quan hệ sản xuất cũ mà họ gọi là “quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa” (Có tính áp bức, bóc lột) đã hình thành sau hơn 20 năm chiến tranh ở Miền Nam
(1954-1975), nhưng đã không thiết lập được quan hệ sản xuất mới mà họ gọi là “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.(không có tính áp
bức, bóc tột) .Quan hệ sản xuất hiên nay
là “Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa” hình thành sau 16 năm “Mở cửa” dù Việt cộng vẫn khẳng định tiếp tục đi lên xã hội chủ
nghĩa bằng ngụy biện “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Về “Cách mạng khoa học kỹ thuật” Việt
cộng đã thất bại vì các mục tiêu của cuộc cách mạng được coi là “Then chốt” này cũng không đạt được.
Nghĩa là sau 20 năm thực hiện, không có phát minh khoa học kỹ thuật nào đáng kể
của cuộc “cách mạng khoa học kỹ thuật”
giúp ích cho “Cách mạng quan hệ sản
xuất” nói riêng (về cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động…), cho
sự cải thiện,thăng tiến phục vụ đời sống con người, xã hội và đất nước nói
chung. Sự “phồn vinh” bề ngoài về
kinh tế và sự thay đổi nhanh chóng mọi mặt đời sống con người và xã hội Việt
Nam ngày nay phải hiểu là kết quả sau 16 năm thực hiện chính sách “Mở
cửa” (1996-2012) do đã
vận dụng những thành quả khoa học kỹ thuật của thế giới văn minh, chủ yếu là từ
các nước tư bản, chứ không phải từ
Liên Xô và các nước XHCN anh em và
càng không phải do cuộc “Cách mạng khoa học kỹ thuật” của Việt cộng đem lại.
- Về “Cách mạng tư tưởng và văn hóa” Việt cộng cũng đã thất bại vì không những
không tạo được những “con người mới và nền văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa” mà còn phá nát
“nền tảng đạo đức và văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc”, để lại những hậu quả nghiêm trọng, toàn
diện, lâu dài trên con người và xã hội Việt Nam. Sự cải sửa để phục hồi và
thăng tiến đời sống con người và xã hội
Việt nam mai hậu, chắc chắn cũng đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều
thế hệ tương lai và phải là tương lai hậu cộng sản.
II/- 36 NĂM VIỆT CỘNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI: THÀNH QUẢ VÀ TRIỂN VỌNG TƯƠNG LAI?
Vấn đề đặt ra là: công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
36 năm qua của Việt cộng đã đem lại thành quả gì và triển vọng tương lai ra
sao?
1.-
Thành quả
a)- Ý nghĩa từ
ngữ:Thành quả (Fruits, results) khác hiệu quả (effect, effective,
efficacious, effectual)và thành quả thực hiện mỗi chủ trương,
chính sách khác thành quả sau cùng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chẳng
hạn, khi tiến hành các chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm thực hiện định thức “đi lên chủ nghĩa xã
hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, Việt
cộng đã tạo được hiệu quả và thành quả nhất định như:
-
Để “Nắm vững chuyên chính vô
sản”, Việt cộng đã tạo được
hiệu quả khi dùng các lực lượng vũ trang quân đội là công cụ bảo vệ chế độ độc
tài đảng trị hay toàn trị, đã trấn áp (dù
khôngtiêu diệt được) sức đề kháng, các hoạt động chống đối cá nhân hay tập
thể người dân, với thành quả là giữ vững được nền an ninh chính trị, trong một
thời gian nhất định .Thế nhưng hiệu quả và thành quả có tính nhất thời này đã
không góp phần tạo ra được thành quả sau cùng “đi lên
chủ nghĩa xã hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
-
Để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
· “Cách
mạng quan hệ sản xuất”, Việt cộng có
thể đã tạo được hiệu quả phá đổ được “quan hệ sản xuất, kinh doanh, phân phối, dịch vụ tư bản chủ
nghĩa” với thành quả cưỡng ép được người dân đi vào con đường làm ăn
tập thể về công, thương, nông nghiệp, phân phối tài hóa và dịch vụ trong một
thời gian nhất định. Thế nhưng, dẫu sao đó cũng chỉ là hiệu quả và thành quả
nhất thời, vẫn không đạt được thành quả cục bộ là thiết lập được “Quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa”, góp phần tạo ra được thành quả sau cùng(Final fruits,final results): “đi lên chủ nghĩa xã
hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
· “Cách
mạng khoa học kỹ thuật”, Việt cộng có
thể đã tạo được hiệu quả qua một số phát minh khoa học, cải tiến kỹ thuật không
đáng kể nào đó, với thành quả vận dụng vào một số lãnh vực kinh tế, kỹ thuật,
xã hội, từ phát kiến của một số cá nhân được “Đảng và Nhà nước” biểu dương, phô trương vốn nặng về tuyên truyền
chính trị hơn là giá trị khoa học, kỹ thuật thực dụng.Thế nhưng,dù gì đi nữa,
đó cũng chỉ là hiệu quả và thành quả giai đoạn nhất thời, song thực tế, cuộc “Cách mạng khoa học kỹ thuật” dù được
coi là “Then chốt” đã không góp được
gì cho thành quả sau cùng là đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội”.
· “Cách
mạng tư tưởng và văn hóa”, Việt
cộng có thể đã tạo được hiệu quả qua việc tịch thu, đốt sách, truy quét, tiêu
diệt được các tác phẩm,sách báo, phim ảnh gọi là “đồi trụy, nọc độc của văn hóa tư tưởng Mỹ- Ngụy”, với thành quả
cưỡng ép được người dân chỉ đọc sách báo, phim ảnh “Cách mạng”, chỉ học tập và nghe tuyên truyền một
chiều về “tư tưởng và nếp sống văn hóa mới xã hội chủ nghĩa”. Thế nhưng đó cũng chỉ là hiệu quả và
thành quả nhất thời, đã “không cải tạo được những con người cũ” (sinh
ra và lớn lên trong xã hội cũ) và cũng “không xây dựng được những con người mới” (sinh
ra và lớn lên trong xã hội mới), để tạo ra được “Những con người mới xã hội
chủ nghĩa”, góp phần làm
nên thành quả sau cùng “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” tại Việt Nam.
b)- Như vậy là sau 36 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội,Việt cộng chưa tạo được thành quả cuối cùng, là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội tại việt nam.
Mặc dù sau 36 năm Cộng đảng Việt Nam nắm quyền thống trị độc tôn, trong
một chế độ độc tài toàn trị, Việt cộng đã có đủ thời gian,điều kiện khách quan
và chủ quan thuận lợi vẫn không hiện thực được mục tiêu, lý tưởng của mình là
xây dựng thành công “Xã hội xã hội chủ nghĩa” tại Việt Nam.
Việt cộng không những chưa tạo
được thành quả cuối cùng, mà chỉ để lại hậu quả toàn diện, di hại lâu dài cho
đất nước và dân tộc, mà sự khắc phục, cải sửa những hậu quả này chắc chắn phải
mất nhiều thời gian, qua nhiều thế hệ
tương lai và phải là tương lai hậu cộng
sản(như chúng tôi đã phân tích trình
bầy ở các phần trên)..
2.-
Triển vọng tương lai.
Có hai
triển vọng tương lai:
-Triển vọng tương lai 1: liệu Việt cộng có hiện thực
được chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam?
- Triển vọng tương lai 2:chế độ Việt cộng sẽ đi về
đâu?
a)
Triển vọng tương lai 1:liệu Việt cộng có hiện thực được chủ nghĩa
xã hội tại Việt Nam?
Vấn đề đặt
ra là:Với quá khứ, sau 36 năm Việt cộng đã không đạt được thành quả sau cùng là
xây dựng thành công “xã hội xã hội chủ nghĩa” tại
Việt Nam. Vậy triển vọng tương lai thì sao, liệu Việt cộng có thành đạt
mục tiêu tối hậu này, theo cách bắt chước nước đàn anh Tầu cộng đã và đang làm
(theo kiểu Đặng Tiểu Bình “Mèo trắng” (tư bản chủ nghĩa) hay “mèo đen” (Cộng sản chủ nghĩa) không quan trạng, miễn là mèo đó bắt được chuột (đến được XHCN ?), được diễn tả bằng ngôn từ khác hơn cho có vẻ sáng tạo, độc lập là “Kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”,được thực hiện từ sau “Mở cửa” (1996) cho đến nay và vẫn
đang tiếp tục hay không?
Bất cứ
người Việt Nam
chân chính nào, (ngay cả những đảng viên
cộng sản chân chính cũng như không chân chính, đã “phản tỉnh” công khai hay còn dấu mặt…nếu
thành thật với chính mình) đều có thể trả lời một cách khẳng định, không sợ
sai lầm là KHÔNG THỂ ! rằng triển vọng tương lai Việt cộng sẽ không, và sẽ không bao giờ thực hiện được mô hình về một “Xã hội lý tưởng
nhưng không tưởng” này.
Là vì trên bình diện lý luận
của chủ nghĩa cộng sản về một mô hình xã hội lý tưởng, nếu nó đáp ứng đúng khát vọng, ước mơ
của loài người, thì mãi mãi vẫn chỉ là khát vọng ước mơ không đạt trên bình
diện thực tế. Bởi vì, mọi nỗ lực thực nghiệm mô hình xã hội lý tưởng ấy đã cho
thấy không thể và không bao giờ thực hiện được.Vì nó hoàn toàn trái với những
căn tính của con người, trái quy luật sinh tồn và phát triển tự nhiên chung
cũng như riêng của mỗi con người và của cả xã hội loài người.
Thật vậy, là con người nói chung, người Việt Nam nói riêng, ai lại không
ước mơ được sống trong khung cảnh “một
xã hội không còn cảnh người áp bức bóc lột người, cư xử với nhau trong tình hữu
ái, với tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì mỗi người, để cùng đạt tới
hạnh phúc chung cũng như riêng, trong khung cảnh một “xã
hội xã hội chủ nghĩa” (còn giai cấp, mọi người lao động theo
năng lực, hưởng theo sức lao động bỏ ra, dưới sự lãnh đạo của một Nhà nước
“chuyên chính vô sản”đóng vai trò điều hợp…)rồi tiến đến cùng đích là
một xã hội viên mãn “xã
hội cộng sản chủ nghĩa” hay
“Thiên đường cộng sản” (không giai cấp, không còn nhà nước, vì mọi
sinh hoạt, quan hệ xã hội vận hành tự động, tự giác, mọi người lao động theo
năng lực và hưởng theo nhu cầu. Vì lúc đó tài hóa dư thừa, mọi nhu cầu vật chất
cũng như tình thần của mọi người sống chung trong xã hội đều được đáp ứng, thỏa
mãn hoàn tòan!?!…)
Thế
nhưng, “Xã hội xã hội chủ nghĩa” (giai đoạn đầu)
và “Xã hội cộng
sản chủ nghĩa” (giai đoạn cuối
cùng của chủ nghĩa cộng sản) là không tưởng, vì không thể và không bao giờ
thực hiện được trên thế gian này. Là vì những luận điểm căn bản của chủ nghĩa
cộng sản về một mô hình xã hội hoàn hảo, viên mãn hoàn toàn trái với quy luật
sinh tồn và phát triển tự nhiên về tâm sinh lý, năng lực cá nhân, căn tính
chung cũng như riêng của con người và tổ chức xã hội loài người.
Chẳng
hạn, về tâm sinh lý, năng lực cá nhân mỗi người một khác hình thành từ bào thai
trong cung lòng người mẹ có căn tính di truyền, chào đời và phát triển dưới ảnh
hưởng môi trường sống trong gia đình, xã hội, sắc tộc, tôn giáo và được nuôi
dưỡng,giáo dục học tập khác nhau.Tất cả những nhân tố này đã hình thành căn
tính riêng của mỗi con người và những căn tính chung của loài người. Một trong
những căn tinh chung đó là tính vi kỷ, tính tư hữu, tính cạnh tranh... Và vì
vậy, không thể có một xã hội không có giai cấp khi có sự khác biệt nhiều mặt
giữa các cá nhân; Nó tương tự như trong một cánh rừng, phát triển theo quy luật
thiên nhiên có cây cao, cây thấp, dù tất cả các cây cỏ đều có chung một môi
trường sinh thái đất đai khí hậu, nắng mưa…Đối với con người cũng vậy, dù sống
chung trong một môi trường xã hội,có điều kiện môi sinh giống nhau, song vẫn có
giai cấp giầu nghèo do tài năng, nỗ lực cá nhân và điều kiện phát triển về chủ
quan cũng như khách quan mỗi con người một khác…Nỗ lực hướng thiện chung của các nhà cầm quyền
chỉ có thể làm được là tổ chức, điều hành xã hội sao cho giảm thiểu tối đa sự
cách biệt giầu nghèo và những bất công xã hội, bảo vệ tối đa sự tôn trọng, bảo
vệ và hành xử các quyền tự do, dân chủ và nhân quyền căn bản của mọi con người
sống chung trong xã hội.
Bởi vì,
khi con người từ bỏ cuộc sống riêng lẻ, quy tụ thành xã hội có tính tổ chức từ
thấp đến cao, từ bất hoàn đến hòan chỉnh, những yếu tính riêng cũng như chung
của mỗi con người luôn tồn tại và phát triển theo qui luật tự nhiên và xã hội. “Chủ nghĩa cộng
sản” đã duy ý chí, không tôn trọng qui luật khách quan, nên đã đi ngược
lại quy luật phát triển tự nhiên của con người và xã hội loài người. Do đó,
những người, dù có thiện chí và quyết tâm thực hiện, chấp nhận sự hy sinh gian
khổ đến đâu(như những người cộng sản chân
chính đã làm)vẫn không và sẽ không bao giờ thực hiện được mô hình xã hội lý
tưởng mà không tưởng này:“Xã hội xã hội chủ nghĩa” (còn giai cấp, truất bỏ quyền tư hữu, công hữu hóa phương tiện sản
xuất,lưu thông phân phối…), càng không thể tiến tới cùng đích là một xã hội
viên mãn “Xã hội
cộng sản chủ nghĩa”( không còn giai cấp…), trong đó mọi người
sống hạnh phúc như sống trong một thiên đường nơi trần thế, “Thiên đường cộng sản”!?!
Dường
như những nhà sáng lập và thực hiện chủ nghĩa cộng sản như Marx, Lenine và
những đảng viên cộng sản chân chính, đều có tham vọng đem đến cho loài người
một cuộc sống hạnh phúc cực lạc như “Thiên đường hay Niết Bàn của tôn giáo”. Tuy
nhiên “Thiên
Đường hay Niết Bàn của tôn giáo” thì siêu hình, chỉ được biết qua “Niềm tin tôn giáo”và cá nhân cũng như tập thể tín đồ chỉ đến được
cõi cực lạc vĩnh hằng này sau cái chết. Những người có trọng trách lãnh đạo
tinh thần hướng dẫn các tín đồ đi đến “Thiên Đường hay Niết Bàn”, là các bậc tu hành
nhân đức, không vợ chồng con cái,không có gia đình riêng, cả đời tự nguyện, tự
giác tận hiến phục vụ cho tha nhân vì lợi tinh thần cho chính mình và cho tha
nhân mai hậu (được vào Thiên Đường hay
Niết Bàn cực lạc theo niềm tin hữu
thần duy tâm và duy linh). Vậy mà trong tập thể ưu tuyển này của tôn giáo
vẫn có hiện tượng tham, sân, si, rồi tha hóa, biến chất ngay trên cõi trần
trong cuộc hành trình dẫn đưa các tín đồ và chính mình đến cõi Thiên Đường hay
Niết Bàn của tôn giáo sau khi chết. Trong khi những cán bộ đảng viên cộng sản,
là những người được coi là giác ngộ nhất về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mang
danh là “Đội
tiên phong của giai cấp vô sản” có trọng trách lãnh đạo nhân dân làm
cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng “Xã hội xã hội chủ nghĩa” rồi
tiến đến cùng đích “Xã hội cộng sản chủ nghĩa”, hay “Thiên Đường Cộng sản” , lại phải hiện thực ngay trên trần thế. Họ lại có gia
đình vợ chồng con cái, nếu có hy sinh phấn đấu cho lý tưởng cộng sản nhân danh
lợi ích tha nhân (giai cấp) thì thực
chất động lực trước hết và trên hết vẫn
phải là vì lợi ích cho bản thân và gia đình. Vì tin theo thuyết cộng sản duy
vật vô thần, lợi ích cụ thể, thực tiễn ngay trên trần thế này mới quan trọng và
đáng kể, vì chẳng có gì tồn tại sau cái chết (duy vật biện chứng…).Do đó họ phấn đấu vào đảng, hy sinh chiến đấu
nói là cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
song thực tế cụ thể vẫn là để có chức có quyền, được hưởng lợi ích, bổng lộc
cho chính mình và gia đình trước hết và
trên hết. Vậy phẩm chất và tinh thần phục vụ tha nhân của
các cán bộ đảng viên Cộng đảng Việt Nam nói riêng, của các đảng Cộng sản khác
nói chung, liệu có sánh được với phẩm chất và
tinh thần phục vụ tha nhân của các tu sĩ thuộc các Giáo Hội? Câu trả
lời có thể tìm thấy nơi thực trạng phẩm chất, nhân cách và lối sống của hầu hết
nếu không muốn nói là tất cả các cán bộ đảng viên Cộng đảng Việt Nam hiện nay.
Thực tế, tất cả các đảng viên cộng sản đã có thời kỳ phấn đấu, rèn luyện bản
thân để có đủ phẩm chất “một đảng viên cộng sản chân chính”. Thế nhưng
trên con đường phấn đấu rèn luyện bản thân, khi chưa tích lũy phẩm chất đủ của
một đảng viên cộng sản như định nghĩa lý tưởng, thì chính thực tế đã tha hóa,
làm tiêu tan từng bước, thoái hóa biến chất từng phần trong môi trường quyền
lực và xã hội, để cuối cùng đã “tiêu tan
hoàn toàn cả lượng lẫn chất cộng sản tích lũy được”. Hiện tại có thể nói
99% đảng viên Cộng sản Việt Nam đã thoái hóa biến chất hoàn toàn, thì còn ai
lãnh đạo nhân dân “tiến lên chủ nghĩa xã hội” ?
Và vì
vậy về mặt tâm, sinh lý cá nhân (trái với
những căn tính con người, quy luật sinh tồn phát triển cá nhân và xã hội…)
và thực tế cuộc sống con người (không thể
có con người cộng sản hội đủ phẩm chất thì làm sao lãnh đạo, đào tạo ra nhân
dân có phẩm chất XHCN hay CSCN…để có những con người xã hội XHCN hay xã hội
CSCN?) đã chứng minh “chủ nghĩa cộng sản là không tưởng”, đã được xử dụng như một chiêu bài lừa mị, mê hoặc con
người, nhằm thành đại những mưu đồ cá nhân (các
lãnh tụ cộng sản) và tập thể (các
đảng Cộng sản…)vì quyền lợi trên hết và trước hết của chính cá nhân, gia
đình và các bè đảng ấy.Thực tế cho thấy nhiều người, phần đông là tuổi trẻ, vì
tính mê hoặc của chủ nghĩa cộng sản, đã tiêu phí cả tuổi xuân, hy sinh gian
khổ, mất cả mạng sống…Để cuối cùng chẳng thấy cái “xã hội xã hội chủ nghĩa” lý
tưởng (mà không tưởng) đâu đâu, mà chỉ thấy sự đổ nát, tan hoang, toàn diện cái
xã hội cũ mà họ đã góp phần phá đổ, di hại cho nhiều thế hệ mai sau. Mọi ân
hận, uất hận, sót sa của những người này nếu có (là những đảng viên cộng sản
chân chính) thì đã quá muộn màng; nếu không (là những đảng viên cộng sản bất
chính) thì tiếp tục lợi dụng chủ nghĩa cộng sản để phục vụ cho lợi ích bản
thân, gia đình và bè đảng. Đó là thực trạng và thực chất của các đảng viên và
Cộng đảng Việt Nam
hiện nay
Mặt
khác, trên thực tế cũng đã có bằng chứng cụ thể và sống động của nước đầu tiên
và nhiều nước sau đó noi theo thực hiện “chủ
nghĩa không tưởng” này. Tất cả đều đã thất bại hoàn toàn. Đó là Liên Bang
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô-Viết” (gọi
tắt là Liên Xô) mà Việt cộng và một số nước khác theo gương từng xưng tụng
là “Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa” của mình. Sau hơn 70 năm(1917-1991) nói là đã hoàn
thành giai đoạn “Cách
mạng xã hội chủ nghĩa”, chuẩn bị sửa Hiến pháp (1936)để bước vào
giai đoạn “Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa”,
song đã sụp đổ kéo theo sự tiêu vong của toàn hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, để rồi mau chóng cùng chuyển đổi qua hệ thống chính trị, kinh tế và xã
hội tư bản chủ nghĩa.
Hiện
tại chỉ còn bốn nước, trong đó có Việt Nam, Việt cộng cũng đã hoàn toàn thất
bại sau 36 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, dù thực tế Việt cộng vẫn chưa chịu
công khai nhìn nhận , vẫn tiếp tục “Đi lên chủ nghĩa xã hội” bằng con đường “Kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Theo gương Tầu
cộng)
Thế nhưng thực tế con đường này tất yếu đã, đang đưa Việt cộng (cũng như Tầu cộng) theo hướng nào và số
phận tương lai Việt cộng (cũng như Tầu
cộng) sẽ ra sao?
b) Triển vọng tương lai 2:Việt
cộng sẽ đi về đâu?
* Việt cộng tất yếu phải chuyển thể từ “độc tài, độc đảng” qua “dân
chủ, đa đảng” theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Thật vậy,Việt cộng không thể và không bao giờ
còn cơ hội xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Việt cộng trong thâm tâm cũng
biết thế, nhưng vì lợi ích của một tập đoàn thống trị, Cộng đảng Việt Nam bề
ngoài vẫn xác định tiếp tục “Đi lên chủ nghĩa xã hội” bằng con đường “Kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thế nhưng thực tiễn đã không chiều theo cách ngụy biện chủ quan
duy ý chí của Việt cộng, chỉ có mục đích tuyên truyền lừa bịp đảng viên và
quần chúng, không có giá trị hiện thực. Thực tiễn con đường “kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” nhất định
sẽ phát
triển theo quy luật khách quan đến xã hội tư bản chủ nghĩa.
Và triển vọng số phận tương lai của Việt cộng là sự tiêu vong từng
bước theo một tiến trình mà sự kết thúc êm đẹp hay bi thảm cho Việt cộng tùy
thuộc sự lựa chọn của chính Việt cộng.
Thật
vậy, trong “Môi
trường mật ngọt kinh tế thị trường”các cán lớn, cán nhỏ đảng viên
cộng sản và cả cái “Chính quyền chuyên chính vô sản” Việt
cộng đã như những con ruồi sa vào hũ mật(“mật
ngọt chết ruồi” theo tục ngữ Việt Nam),
cũng “đã biến chất” và “sẽ biến thể hoàn toàn” ở cuối quá
trình tiêu vong.Việt cộng đã và đang bị “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường”hóa thân
tịnh tiến theo đúng quy luật duy vật biện chứng“Lượng đổi, chất đổi” (lượng độc tài tiêu vong, lượng dân chủ lớn
dần, triệt tiêu độc tài ở cuối quá trình, hình thành dân chủ đa nguyên, như
nước đun sôi dến 100 độ C thì biến thành thể hơi).
Trong
thực tế hiện nay tại Việt Nam, như chúng tôi đã trình bầy nhiều lần, cái gọi
là Đảng Cộng sản Việt Nam và “chế độ Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”
đã chỉ còn “cái vỏ” (Đỏ vỏ xanh lòng”. Nghĩa là những bảng hiệu “Đảng và chế độ” chỉ là mạo danh vẫn
được trưng lên theo kiểu gian thương “Treo
đầu dê bán thịt chó” để kéo dài thêm thời gian độc quyền thủ lợi của một
tập đoàn cố bám giữ quyền hành độc quyền bằng kỹ thuật thống trị cộng sản mà
thôi.
Bởi vì, thực tế các cán bộ đảng viên cộng
sản lớn nhỏ đã bị “Biến chất cộng sản” (nếu có) thành “chất tư sản hay Tư bản(đỏ vỏ xanh lòng)”. Nhà
nước mệnh danh “Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ” thực chất đã là một chế độ “tư bản nhà nước
độc quyền” trong một chế độ “nửa
độc tài toàn trị, nửa phong kiến thời đại” (với các bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy đảng bộ địa phương hùng cứ một phương,
ăn chia quyền lợi với trung ương, tập trung quyền lực trung ương trên nguyên
tắc,trên thực tế các Bí thư và đảng bộ địa phương hành xử quyền hành như các
lãnh chúa trong chế độ phong kiến ngày xưa. Vụ cưỡng chế thu hồi đất đai của
gia đình Đoàn văn Vươn ở Tiên Lãng Hải Phòng, vụ địa phương đánh đập phóng viên
Đài Phát Thanh trung ương Hà Nội về lấy tin một vụ cưỡng chế thu hồi đất đai ở
một địa phương khác mấy tháng trước đây…đã là
những điển hình,qua cách giải quyết cho thấy Trung ương không dám đụng
đến các Bí thư, đảng bộ Tỉnh ủy, chỉ quy trách, đổ lỗi sai phạm cho cấp huyện,
xã cho qua chuyện như vật tế thần…)
Tiến trình
trên thực ra là nằm trong “sách lược
chống và diệt tàn dư cộng sản” của Hoa Kỳ nói riêng và các cường quốc cực
tư bản chủ nghĩa nói chung (để hoàn tất sự chuyển đổi từ Chiến lược
Chiến tranh ý thức hệ Cộng sản chủ nghĩa và
Tư bản chủ nghĩa qua Chiến lược toàn cầu hóa (chính trị:dân chủ hóa và
kinh tế:Thị trường hóa). Sách lược mới này muốn “chống và diệt tàn dư cộng sản” trong “Môi
trường mật ngọt kinh tế thị trường”, thay vì trong “Môi Trường mật đắng” là sức mạnh quân
sự trong chiến tranh, như đã xử dụng trong Chiến Lược Quốc Tế cũ có hiệu quả nhất định mà không có hoặc không muốn có thành quả sau
cùng diệt cộng hoàn toàn (vì có những
toan tính lợi ích chiến lược khác chăng?).
Trên
thực tế,ai cũng thấy “sách lược chống và
diệt tàn dư cộng cộng sản” mới của Hoa Kỳ ở Việt Nam, dường như không còn
chủ trương “ lật đổ để thay thế Việt
cộng” mà chỉ muốn “cải tạo Việt cộng
thành công cụ chiến lược mới trong vùng”của mình.
Hoa Kỳ
không chủ trương “Lật đổ để thay thế”
có lẽ vì thực tế đã không tìm được một lực lượng chống cộng đối trọng nào khả
dĩ có đủ sức mạnh lật đổ và khả năng thay thế Việt cộng, tốt hơn là cải tạo tại chỗ cái chính quyền Việt cộng, biến Việt cộng
thành công cụ chiến lược mới trong vùng của mình. Vì vậy mà ngay khi cuộc
chiến tranh Quốc- Cộng chấm dứt ít lâu, tài liệu giải mật sau này cho biết là
Việt cộng đã để mất cơ hội nắm lấy bàn tay cứu vớt của Hoa Kỳ đưa ra vài năm
sau đó (do đầu óc thiển cận, mang ảo
tưởng là kẻ chiến thắng nên làm cao giá đòi Mỹ bồi thường chiến tranh như điều
kiện tiên quyết…). Phải đợi 20 năm sau (1975-1995) khi Việt cộng thất bại hoàn
toàn cái gọi là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam,dù cố gắng “Đổi mới” vẫn không cứu vãn được tình
hình, một lần nữa Hoa Kỳ đã đưa bàn tay ra và Việt cộng đã không còn dám bỏ lỡ
cơ hội vội nắm lấy (1995: bãi bỏ cấm vận,
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt cộng).
Đến nay
16 năm trôi qua (1995-2011) Hoa Kỳ đã tương kế tựu kế đổi “Đối thủ Việt cộng” trong “môi
trường mật đắng chiến tranh” trong quá khứ, thành “Đối tác Việt cộng” trong
“môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” trong hiện tại, để tịnh tiến cải
tạo, chuyển đổi “Việt cộng độc tài toàn trị” qua
“Việt Nam Dân
chủ đa nguyên”, làm công cụ chiến lược mới của Mỹ trong vùng, theo đúng
yêu cầu của thế chiến lược toàn cầu mới của Mỹ và các cực cường dân chủ tư bản
chủ nghĩa nói chung.
Chẳng
hạn, Mỹ đã tìm cách cải tạo về nhân sự là những cán bộ, đảng viên cộng sản lãnh
đạo bộ máy Đảng và Nhà nước Việt cộng bằng sự thay thế dần, với sự đẩy đưa sao
đó để loại trừ thành phần lãnh đạo già
nua, bảo thủ và cực đoan, duy ý chí, ra khỏi guồng máy quyền lực bằng qui chế
65 tuổi phải về hưu chẳng hạn.Những cán bộ đảng viên tại chức tại quyền thì
được cho đi tu nghiệp tại các nước dân chủ tư bản, nhiều nhất vẫn là Hoa Kỳ.
Con cái cán bộ đảng viên và cả dân thường có khả năng tài chánh đều được tự do
du học tại các nước dân chủ tư bản, đông nhất vẫn là Hoa Kỳ. Thực tế ai cũng có
thể suy đoán được kết quả ở cuối quá trình cải tạo con người này là gì.
Việt
cộng chắc cũng biết rõ ý đồ này của Mỹ, nên cho dù “Đảng ta”
miệng có la hoảng, cảnh giác đảng viên về cái gọi là “Âm mưu
diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch”, thì thực tế chân
vẫn phải chậy theo và bị “diễn biến ấy” lôi đi xềnh xệch
không sao cưỡng lại được.
Diễn biến đó là:
cán bộ đảng viên cộng sản đã bị tư sản hóa từng bước (trở thành tư
sản hay tư bản Đỏ), nhà nước được tư bản hóa từng phần (tiến trình giải tư công, nông, thương
nghiệp quốc doanh…), chế độ thì được dân chủ hóa tịnh tiến
(đã phải trả lại cho nhân dân nhiều quyền
dân chủ, dân sinh so với hơn 15 năm trước đây,dù còn ít nhiều hạn chế…).
Dẫu sao, Việt cộng cũng biết rằng đi theo chiều hướng này là tốt nhất,vẫn giữ
được phần nào quyền lợi cho một tập đoàn thống trị sau khi “chế độ
độc tài toàn trị” phải “Biến thể qua dân chủ đa nguyên”. Một chiều hướng không thể đảo ngược và Việt cộng cũng không
có sự lựa chọn con đường nào khác hơn.
* Việt cộng
chỉ có thể lựa chọn cách thức kết thúc tiến trình chuyển thể từ “độc tài, độc đảng” qua “dân
chủ, đa đảng” theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Tuy sự chuyển thể đã là một
tất yếu, vấn đề chỉ còn là thời gian sớm hay muộn, nhưng Việt cộng vẫn có quyền
lựa chọn một trong những cách thức kết thúc quá trình “Chuyển thể” từ “Độc tài, độc đảng” qua “Dân chủ, đa đảng”. Chẳng hạn::
1.- Nếu Việt cộng tự nguyện,
tự giác, đơn phương, chủ động , hợp tác thực hiện kết thúc tiến trình chuyển
thể hòa bình và êm dịu như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào
cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân
phiệt Miến Điện đã đang muốn làm, và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đã có dấu hiệu và
hiệu quả thực tiễn bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
Nếu làm theo cách này, là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước và cho chính
Việt cộng. Có lợi cho Việt cộng, vì chế độ độc tài toàn trị dù bị tiêu
vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu
không đổi tên) vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt
bình đẳng, hợp pháp để giành quyền lãnh đạo đất nước trong một chế độ dân chủ
đa đảng.Và Cộng đảng Việt Nam vẫn có nhiều thuận lợi hơn các chính đảng khác (nhờ thế
lực sẵn có sau nhiều năm nắm quyền
độc tôn…) để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa đảng này,
nếu được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do. Đồng
thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân (đổ máu…), đất nước (tan hoang…) và cho chính Việt cộng như nhân dân, đất nước và các
nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu.
Một giả
định, nếu chọn và làm theo cách này,
Việt cộng có thể chủ động thực hiện cách thức kết thúc tiến trình chuyển đổi
hòa bình êm dịu như sau:
* Chuyển đổi trên bình diện pháp lý:
1.-
Quốc hội đương nhiệm đang có nghị trình sửa đổi Hiến pháp hiện hành, thay vì
sửa chữa theo hướng củng cố chế độ độc tài độc đảng hiện nay, sẽ sửa đổi theo
hướng dân chủ đa đảng.
Theo hướng này, chỉ cần sửa đổi những
điều khoản căn bản liên quan đến danh hiệu chế độ chính trị và vai trò các
chính đảng trong chế độ chính trị dân chủ, đa đảng.Còn lại các điều khoản khác
vẫn duy trì, chỉ sửa đổi hay bãi bỏ các điều khoản không còn phù hợp với chế độ
chính trị dân chủ đa đảng. Mục đích duy
trì nguyên trạng những qui định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành chính
quyền dân sự cũng như quân sự các cấp, các ngành (lập pháp,hành pháp và tư pháp) hiện hành từ trung ương đến địa
phương trên cả nước,là để tránh mọi sự xáo trộn bất lợi. Sau đó sẽ sửa đổi,
điều chỉnh dần dần những bất hoàn theo thời gian thích hợp để hoàn chỉnh từng
bước chế độ chính trị dân chủ, đa đảng trên bình diện pháp lý.
Tỷ dụ, Hiến pháp hiện hành (1992) qui định nơi:
CHƯƠNG I: Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Chế độ chính tri.
Có thể sửa đổi thành : Nước Cộng Hòa Dân
Chủ Việt Nam (1)
Hoặc: Nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (2)
(Nếu muốn lấy lại danh xưng HP. 1946)
Hay: Nước
Cộng hòa dân bản chủ nghĩa Việt Nam(3)
( Nếu
muốn nghe cho quen tai và có ý nghĩa lấy dân làm gốc)
Chế độ chính trị
Điều 1: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Sửa đổi thành : Nhà nước Cộng Hòa
Dân Chủ Việt Nam(hoặc
chọn 2 hay 3)là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về toàn dân.
Điều
4: Đảng Cộng
dản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Có thể sửa đổi Điều 4 thành:
Điều 4: Mọi công dân Việt Nam, với tư
cách cá nhân hay chính đảng, có quyền tham gia công việc lãnh đạo, quản lý đất
nước và xã hội, thông qua các cuộc bầu cử tự do.
Mọi cá nhân công dân và tổ chức chính đảng phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
2.- Quốc hội cơ quan lập pháp đương
nhiệm sau đó cần:
- Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến
pháp dân chủ đa nguyên, đa đảng mới được hình thành từ Hiến pháp hiện hành được
sửa đổi.(Luật Đất Đai, Nhà đất,Luật Hình,
Luật Hộ…)
- Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham
gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng đã được khai sinh
từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.
- Làm“Luật
ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ,đa
đảng, cho mọi cá nhân công dân và các tổ chức chính đảng có thể tham gia hợp
pháp trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do vào các chức vụ dân cử các cấp,
các ngành trên cả nước.
- Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc”(như nước Cộng Hòa Nam Phi đã làm sau khi kết
thúc thắng lợi vào đầu thập niên 90, cuộc chiến tranh chống chế độ phân biệt
chủng tộc giữa thiểu số người da trắng thống trị trên tuyệt đại đa số người da
đen bị trị; tương tự như chế độ độc tài đảng trị bao lâu nay tại Việt Nam,
thiểu số các đảng viên Cộng đảng Việt Nam đã thống trị trên tuyệt đại đa số
nhân dân Việtt Nam trên nửa thế kỷ qua).
Luật này sẽ áp
dụng nguyên tắc bất hồi tố của luật pháp nhằm miễn tố chung cho những hành động
vi phạm luật pháp quốc nội hay quốc tế của cá nhân hay tập thể xẩy ra trước
ngày ban hành “Luật Hòa Giải Dân Tộc”
ở cả hai phía Việt cộng cũng như Việt quốc.
Luật này nhằm hóa giải hận thù quá
khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên
nhân từ quá khứ, dưới bất cứ hình thức nào, tạo sự hòa giải những mâu thuẫn
trong lòng dân tộc, duy trì ổn định chính trị, xã hội để có điều kiện thuận lợi
kiện toàn chế độ chính trị dân chủ đa đảng mới hình thành; tạo tiền đề đoàn kết
thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng, củng cố, phát triển toàn diện
Đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân
loại, tạo thế và lực chống ngoại xâm hữu hiệu,bảo vệ Tổ Quốc.
Công, tội của các cá nhân hay tập thể
ở cả hai phía Quốc-Cộng nếu có trong quá khứ, thiết tưởng cần để cho lịch sử
mai nầy xét định. Hiện tại chỉ nên coi đó là những bài học kinh nghiệm cần rút
ra cho hiện tại và tương lai.
3.- Chính
phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm
chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng các văn bản lập qui dưới
luật,để điều chỉnh theo các luật lệ đã
được Quốc Hội sửa đổi một cách phù hợp với thời gian, không gian và tiến
trình hoạt động bình thường của guồng
máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn, bất ổn chính trị và xã hội,
bất lợi cho đại cuộc.
Tỉ như “luật ứng cử và bầu cử” Quốc hội hay Hội Đồng Nhân Dân các cấp sẽ
được áp dụng trong nhiệm kỳ sắp tới (Trừ
khiCộng đảng, Quốc hội và chính quyền đương nhiệm đồng thuận về một quyết định
khác hơn, chẳng hạn giải tán các cơ quan dân cử cho ứng cử và bầu cử sớm hơn,
do tình hình đòi hỏi mà không gây xáo trộn chính trị và xã hội).Nhưng các luật hủy bỏ hoặc thay thế những luật lệ
trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, hay“Luật
chính đảng”, “Luật hòa giải dân tộc” thì cần có hiệu lực tức thời sau khi ban hành
tạo tiền đề chứng tỏ thực tâm và thiện chí của Cộng đảng và nhà cầm quyền đương
thời muốn thực hiện sự chuyển đổi hòa bình và êm dịu từ “Chế độ độc tài, độc đảng” qua “Chế độ dân chủ,
đa đoảng”. Đồng thời giúp cho các cá nhân công dân cũng như chính
đảng có thời gian củng cố, phát triển tổ chức và sinh hoạt, chuẩn bị kịp thời
tham gia ứng cử với tư cách cá nhân
hay do Chính đảng đưa người ứng cử vào
các cơ quan dân cử của cả nước (Quốc Hội,
Chủ tịch nước hay Tổng Thống, nếu Hiến pháp tu chính người đứng đầu hành pháp
do dân trực tiếp bầu cử trong các cuộc phổ thông bầu phiếu, thay vì do Quốc Hội
bầu cử như Hiến pháp hiện hành…) và địa phương (như Hội đồng nhân dân các cấp…).
*Chuyển
đổi trên bình diện thực tế:
Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự
điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả
nước vẫn duy trì nguyên trạng và hoạt
động bình thường.Sự sửa đối Hiến pháp, sửa đổi luật lệ do Quốc hội đương nhiệm
hay các văn bản lập qui dưới luật do Chính phủ đương nhiệm ban hành để điều
chỉnh theo sự sửa đổi Hiến pháp và luật lệ của Quốc hội, cần được các cấp, các
ngành thực thi nghiêm túc, đồng bộ trên cả nước.
Quốc Hội và Chính phủ đương nhiệm cần
thống nhất và chủ động chỉ đạo thực hiện những sửa đổi Hiến pháp, luật pháp và
lập quy theo hướng chuyển đổi hòa bình, êm dịu từ “chế độ độc tài, độc đảng ” hiện nay
qua “Chế độ dân
chủ, đa đảng”. Đồng thời, Quốc hội và Chính phủ đương nhiệm cũng cần
ấn định rõ lịch trình cải đổi về pháp lý, chính trị cũng như thực tế phải hoàn
tất chậm nhất là trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ Quốc hội đương nhiệm (2015) chẳng
hạn.
Bởi
vì, nếu giả định Việt cộng chấp nhận chủ động thực hiện cách thức chuyển đổi
hòa bình êm dịu trên đây, từ sau năm 2015,
Việt Nam sẽ có Quốc hội mới, chính phủ mới hình thành từ và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp hiện hành sau khi được Quốc hội đương nhiệm sửa đổi theo
hướng dân chủ đa đảng.
Mặc dầu cách thức chuyển đổi này là
cách tốt nhất, có lợi nhất không chỉ cho đảng Cộng sản Việt Nam, mà lợi cho cả
nhân dân, dân tộc và đất nước, nhưng đây chỉ là một giả định, muốn trở thành sự
thật, cần có những điều kiện cần và đủ sau đây:
1.-
Việt cộng chỉ chủ động làm theo cách chuyển đổi hòa bình và êm dịu này, khi
nội bộ Cộng đảng Việt Nam,
phe “cấp tiến”
(theo chiều hướng mới)
phải mạnh hơn phe “bảo thủ”. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước
các cá nhân hay tổ chức chính trị có cùng khuynh hướng đấu tranh chống cộng vì
mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cách nào đó, phải liên kết được với nhau, tập
hợp và lãnh đạo được quần chúng, vận dụng được hậu thuẫn quốc tế, tập trung
được lực lượng trong, ngoài hổ trợ hiệu quả cho phe cấp tiến trong Cộng đảng
Việt Nam (Như ở Liên Xô đã làm được để
hậu thuẫn hiệu quả choTổng bí thư Gorbachev và phe cấp tiến trong Cộng đảng Nga
1985-1991).
Theo nhận định của chúng tôi, căn cứ
trên các sự kiện và diễn biến tình hình hiện nay thì dường như so sánh lực
lượng giữa khuynh hướng cấp tiến (theo Mỹ)và
bảo thủ (theo Tầu) là nghiêng ngửa
trong nội bộ Cộng đảng Việt Nam.
Các lực lượng quần chúng trong nước qua các cuộc dấu tranh cá nhân cũng như tập
thể đòi các quyền dân sinh, dân chủ, thì đã có dấu hiệu phát triển theo chiếu
hướng liên kết, tập trung lực lượng, dù còn lỏng lẻo.
Mặt
khác, áp lực quốc tế, nhất là Hoa Kỳ phải làm sao tạo áp lực buộc được Việt
cộng chuyển đổi càng sớm càng tốt qua dân chủ đa nguyên đa đảng theo cách hòa
bình và êm dịu này.Trên nguyên tắc cũng như thực tế Hoa Kỳ và các nước dân chủ
trên thế giới từ lâu đã có chủ trương này, và đã có nhiều việc làm có tính tạo
áp lực, thúc đẩy Việt cộng đi về hướng dân chủ.
Tuy nhiên, cường độ còn yếu nên tốc độ
chuyển đổi theo chiều hướng này còn chậm, dù có đạt được một số thành quả nhất
định sau mỗi áp lực. Có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ nói riêng và các nước dân chủ
khác nói chung còn tùy thuộc vào sự tính toán lợi ích song phương hay đa phương
với Việt cộng. Nhất nữa là dường như Hoa Kỳ cũng chỉ muốn “cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược trong vùng” theo một
tiến trình thời gian với tốc độ vừa phải. Phải chăng vì thế mà Hoa Kỳ thực hiện “chính sách cầm chừng”,thả nổi cho một
tiến trình chuyển đổi từ từ, để chế độ độc tài toàn trị Việt cộng tồn tại thêm
thời gian, để thuận lợi và dễ xử dụng
công cụ cho mục tiêu chiến lược hơn là trong khung cảnh một chế độ dân chủ
đa đa đảng, nếu hình thành sớm còn phôi
thai, bất ổn và nhiều bất trắc ? Có lẽ biết vậy, nên Việt cộng (phe bảo thủ theo Tầu) đã tiếp tục ngoan
cố cho đến lúc này vẫn không chịu chuyển đổi, tiếp tục thực hiện chiến thuật “Mềm nắn, rắn buông”, tìm cách diên
trì tiến trình dân chủ hóa để kéo dài thêm thời gian độc quyền chính trị, ngụy
biện bằng lý do cần sự ổn định chính trị để phát triển đất nước, để chỉ “Đổi mới kinh tế,
không đổi mới
chính trị” là vậy.
(Đến đây xin mở dấu ngoặc nói thêm về hệ quả chính sách can thiệp nửa vời
của các cường quốc tư bản chủ nghĩa vào tiến trình dân chủ hóa các chế độ độc
tài tại các nước Trung cận đông và Bắc phi .Hệ quả trực tiếp đối với các nhà
độc tài đang còn nắm quyền thống trị từ nhiều thập niên tại vùng này, là sự
ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền thống trị, chống lại cao trào đòi dân chủ hóa
đất nước của nhân dân. Một điển hình là tập đoàn độc tài của Tổng Thống Al- Bassad
ở Syria đã ngoan cố không chịu từ bỏ quyền hành, đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy
của nhân dân với cường độ mức độ tàn bạo gia tăng theo thời gian hơn một năm
qua. Tổng thống chế độ độc tài Al- Bassad sở dĩ ngoan cố dám chống lại nhân
dân, là vì biết rằng vẫn chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng với phe quần
chúng nổi dậy, lại được sự hổ trợ của hai cựu cường quốc cộng sản hàng đầu là Nga
và Tầu cộng. Trong khi Al- Bassad cũng biết rằng sẽ không có sự can thiệp trực
tiếp bằng quân sự từ bên ngoài theo kiểu
Hoa Kỳ và khối NATO dưới ngọn cơ Liên Hiệp Quốc đã làm tại Lybia khoảng
nửa năm trước, nên lực lượng quần chúng nổi dậy ở Syria khó thành công được như
lực lượng quần chúng nổi dậy ở Lybia là đã lật đổ được chế độ của nhà độc tài Mumamar Ghaddafi.
Sự thể này cũng đã có ảnh hưởng gián tiếp ít nhiều đến sự toán tính của Việt
cộng trong việc đối phó với các lực
lượng chính trị cũng như quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân
sinh và nhân quyền trong nước. Việt cộng toan tình rằng, cũng như tại các nước
độc tài Trung cân đông và Bắc Phi, nếu không có sự hổ trợ bằng sự can thiệp
trực tiếp, triệt để của bên ngoài, Cộng đảng Việt Nam vẫn nắm vững được nền
“Độc tài chuyên chính tư sản (Đỏ vỏ xanh
lòng)”, nên chưa vội gì mà chấp nhận nền “Dân chủ, đa đảng tư
bản chủ nghĩa”.
Tuy nhiên, Việt cộng cũng có ít nhiều
nao núng và dường như trên nguyên tắc đã có sự thống nhất về “chiều hướng mới
không thể đảo ngược” (theo chiến lược toàn cầu mới:chế độ độc tài các kiểu sớm
muộn cũng phải tiêu vong, để hình thành các chế độ dân chủ, đa đảng tại các
nước toàn cầu). Thực tại chỉ còn sự bất đồng giữa phe bảo thủ (theo Tầu cộng)
và phe “Cấp tiến” (Theo Mỹ quốc) về
thời điểm nào được coi là thích hợp để kết thúc quá trình chuyển đổi đã tịnh
tiến tự nhiều năm qua.).
Vì vậy ngoài yếu tố kết hợp trong và
ngoài nước, áp lực Hoa Kỳ và quốc tế cũng là nhân tố quan trọng có tính quyết định, hậu thuẫn
phe cấp tiến, đẩy chế độ độc tài độc đảng Việt cộng phải kết thúc tiến trình
chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa đảng nhanh chóng hơn.
Một
yếu tố có tính quyết định khác cho sự kết thúc tiến trình chuyển đổi của chế độ
Việt cộng qua dân chủ đa đảng, là tốc độ chuyển biến của Tầu cộng theo hướng
dân chủ đa đảng trong “Môi trường mật ngọc kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”.
Nếu Tầu cộng tăng tốc, thì phe bảo thủ Việt
cộng cũng tăng tốc. Tầu cộng kết thúc quả trình chuyển đổi sớm thì Việt cộng
cũng sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sớm. Vì ai cũng thấy Việt cộng đã học và
làm theo sách “chuyển đổi câu giờ” của
Tầu cộng, cố bám giữ quyền lực độc quyền, độc tôn để kéo dài thêm thời gian thụ
hưởng các ưu quyền đặc lợi có được và chỉ có được cho tập đoàn thống trị độc
quyền (Cộng đảng VN) trong khung cảnh một chế độ độc tài đảng trị hay độc tài
toàn trị kiểu cộng sản mà thôi.
Chính vì vậy đã có nhiều người khi thấy
gần đây có một vài dấu hiệu Tầu cộng tăng tốc
về phía dân chủ, thì vội lạc quan
Việt cộng cũng sẽ tăng tốc theo và sớm đi đến kết thúc quá trình chuyển
đổi qua chế độ dân chủ đa đảng tại Việt Nam một cách hòa bình, êm dịu.Chúng tôi
cũng cảm thấy lạc quan một cách dè dặt. Chúng ta tiếp tục chờ xem diễn biến
tiếp theo tình hình thực tế, với ước mong niềm lạc quan của chúng ta sớm biến
thành sự thật trên đất nước chúng ta. Vì đó là ước vọng chung của gần 90 triệu
nhân dân trong nước và khoảng 4 triệu con dân Nước Việt ở hải ngoại luôn hướng
lòng về Tổ Quốc. Vì đó là mục tiêu tối hậu mà nhân dân trong nước và người Việt
hải ngoại đã kiên trì hy sinh đấu tranh trong nhiều thập niên qua.
2.-Nếu Việt cộng chủ động làm thì phải có những dấu hiệu chứng tỏ thực
tâm bằng các hành động cụ thể thực tế tương tự như chế độ độc tài quân phiệt
Miến Điện đã và đang làm.
Tỷ như Việt cộng song song với việc
sửa đổi Hiến pháp, luật pháp theo hướng dân chủ, đa đảng, Việt cộng sẽ phải có
hành động cụ thể thực tế như: Thả hết các thù nhân chính trị đang bị cầm tù,
chấm dứt mọi hành động theo dõi, trấn áp các nhà bất đồng chính kiến, tìm cách
đối thoại với họ và để cho mọi cá nhân công dân cũng như các chính đảng bao lâu
nay bị coi là hoạt động bất hợp pháp, thì cần tiến tới hợp pháp hóa tạo điều
kiện cho các cá nhân và chính đảng này hoạt động công khai, hợp pháp, có thời
gian chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào các cơ quan dân cử các cấp trong tương
lai…
Chúng ta cần chờ thêm thời gian để hội
đủ các điều kiện cần và đủ, về chủ quan (Việt cộng) và khách quan (trong nước và quốc tế) để cách
chuyển đổi giả định “chế độ độc tài,độc đảng” Việt cộng qua “Dân chủ đa đảng”
sớm trở thành sự thật tại Việt Nam.
2.-Nếu Việt cộng chọn cách để sức mạnh quần
chúng nhân dân kết thúc quá trình chuyển thể
khi tình hình thực tế phát triển đến biên độ “tức nước vỡ bờ” thì sao?
Câu trả lời ngắn gọn là các lãnh tụ có
trách nhiệm của Cộng đảng và chế độ Việt cộng sẽ nhận lãnh hậu quả bi thảm,
nhân dân Việt Nam sẽ phải gánh chịu nhiều tổn thất nhân mạng, tài sản và đất nước có thể tan hoang,
như số phận của các nhà độc tài và tập đoàn sau nhiều năm thống trị độc quyền ở
các nước vùng Trung Đông và Bắc Phi như Tunisia, Ai Cập, Lybia và Syria hiện
nay.
Vấn
đề đặt ra là các lãnh đạo “Đảng và Nhà nước Việt cộng” có dám chọn sự kết
thúc bi thảm cho chính mình và sự tổn hại, tàn phá đất nước hay không?
Theo nhận định của chúng tôi, câu trả lời ngắn gọn là KHÔNG, không bao
giờ những nhà lãnh đạo có trách nhiệm của “Đảng và Nhà
nước Việt cộng” dám chọn sự kết thúc này. Việt cộng chỉ tìm cách kéo dài
thời gian độc quyền thống trị, nhưng rồi sẽ đến lúc phải chủ động, hợp tác kết
thúc quá trình chuyển đổi vào thời điểm thích hợp trước khi đẩy quần chúng nhân
dân đến biên độ “Tức nước vỡ bờ”. (Như
đã lý giải ở phần trên)
Nghĩa là Việt cộng đang tìm cách hạ cánh an
toàn, vừa bảo vệ được tính mạng và tài sản cho tập đoàn thống trị tích lũy được
sau bao năm cầm quyền, vừa còn cơ hội tồn tại và trở lại nắm quyền trong chế độ
mới, chế độ dân chủ đa đảng.
Bởi vì hơn ai hết, Việt cộng cũng biết
rõ chiếu hướng chiến lược toàn cầu hóa không thể đảo ngược (Thị trường tự do hóa và dân chủ hóa toàn cầu), tất yếu sớm muộn
Việt Nam phải có chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng sau một quá trình “vừa thị trường tự
do hóa vừa dân chủ hóa” như chúng tôi đã lý giải ở các phần trên.
Những người lãnh đạo có trách nhiệm của “Đảng và Nhà nước Việt cộng”hiện
nay không dại gì chọn thế đối đầu với nhân dân đến cùng, để cuối cùng những kẻ
lãnh đạo có trách nhiệm phải ra trước Tòa án công lý quốc gia,nhận lãnh những
bản án nặng nề, tài sản bao năm cầm quyền tích lũy tiêu tán như cá nhân Tổng
thống Ai Cập Murbarck và những bộ hạ
thân tín có trách nhiệm trong guồng máy độc tài toàn trị đã phải ra trước Tòa án công lý để nhận chịu những hình phạt
tương xứng với các hành vi tội ác đã làm trong hơn 30 năm cầm quyền độc tài.
Hay như nhà độc tài Moumur Kadhafi
thống trị Lybia hơn 40 năm cố thủ đến cùng, đã bị người dân căm thù giết chết
dã man năm 2011 vừa qua; hay như nhà độc tài Al- Bassad ,hơn một năm qua cho đến nay vẫn say máu đàn áp giết hại
hàng chục ngàn nhân nhân Syria nổi dậy,làm tan hoang đất nước, chấp nhận là tên
tội phạm chống nhân loại để bị xét xử trong tương lai.
Vì
không muốn phải nhận lãnh những hậu quả bi thảm trên, dường như những người
lãnh đạo hàng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, thuộc phe bảo thủ (theo Tầu cộng) cũng như phe cấp tiến (theo
Mỹ) được đánh giá là ngang ngửa hiện nay, đã thỏa hiệp được với nhau về
thời điểm thích hợp có thể chủ động khởi sự một tiến trình kết thúc sự chuyển
đổi an toàn. Thời điểm đó có thể là:
- Sau
khi thấy tình hình chống đối chế độ của mọi tầng lớp nhân dân trong nước
phát triển lan rộng gần đến biên độ “Tức
nước vỡ bờ”.
- Sau
khi thấy được tập đoàn độc tài quân phiệt Miến Điện chủ động thực hiện tiến trình chuyển đổi hòa bình,
êm dịu qua dân chủ đa đảng, đã giúp tập đoàn độc tài quân phiệt thống trị
nhiều thập niên qua ở nước này, đã hạ cánh an toàn. Nghĩa là không thấy ai bị
đưa ra Tòa xét xử kết án, tù đầy tịch biên tài sản như Tổng thống Ai Cập
Murbarck và những bộ hạ thân tín có trách nhiệm trong guồng máy độc tài toàn
trị của ông ta.
- Cùng
lúc thấy Tầu cộng có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng cũng sẽ tiến tới
mục tiêu sau cùng là hình thành chế độ dân chủ, đa đảng tại Trung quốc nay mai.
- Cùng
lúc thấy Hoa Kỳ và các cực cường dân
chủ tư bản chủ nghĩa tạo áp lực mạnh mẽ (khác với chính sách áp lực cầm chừng bao lâu nay) có tác dụng như
một tối hậu thư để Việt cộng hiểu rằng
đã đến lúc phải kết thúc quá trình chuyển thể, không còn được kéo dài thêm nữa,
nếu không cả tập đoàn thống trị sẽ phải lãnh chịu hậu quả không thể sửa chữa
được cho chính bản thân, gia đình và tập đoàn thống trị độc quyền là Cộng đảng
Việt Nam.
IV/-
KẾT LUẬN.
Việt cộng đã có thời gian 36 năm độc quyền thống trị, trong một chế độ
độc tài, nhất nguyên,độc đảng, nhưng đã không xây dựng thành công mô hình “xã hội xã hội chủ
nghĩa”.
Đúng
ra vì lợi ích của Đất nước và nhân dân, Cộng đảng Việt Nam phải theo gương Liên
Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu chuyển đổi qua “chế độ dân chủ đa đảng” từ lâu:Từ sau khi theo gương Liên Xô làm “Đổi mới” thất bại (1986-1995), phải
bắt đầu thực hiện dân chủ đa đảng khi bước vào thời kỳ “Mở cửa” với thế giới bên
ngoài (từ sau 1996).
Thế nhưng, trên thực tế, những người lãnh
đạo hàng đầu của Cộng đảng Việt Nam, vì quyền lợi của một tập đoàn thống trị
độc quyền, vẫn tiếp tục lừa dối nhân dân khi tiếp tục chủ trương tiến lên xã
hội chủ nghĩa bằng con đường “Kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đây chỉ là một ngụy biện để che dấu ý đồ đen tối muốn duy trì độc
quyền chính trị cho đảng Cộng sản để bảo vệ những ưu quyền đặc lợi cho một giai
cấp mới, giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản kéo dài thêm thời gian hưởng
thụ,sau 21 năm thống trị nửa nước Miền Bắc (1954-1975) và sau đó trên cả nước
cho đến hôm nay (1975-2012), dù Việt cộng hơn ai hết đều biết rằng con đường “kinh
tế thị trường” không thể,
không bao giờ theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” mà tất yếu sẽ dẫn đến chế độ tư bản chủ
nghĩa và thực tế Việt Nam ngày nay đã là một chế độ “Tư bản nhà nước độc quyền” của giai cấp thống trị là những cán bộ
đảng viên của đảng mang danh Cộng sản ( dù
đã tư sản hóa thành “cac nhà tư bản Đỏ” (vỏ xanh
lòng) và đã trở thành
giai cấp độc quyền áp bức bóc lột nhân dân, dẫn đến một xã hội , bất công, đói
nghèo tư do và cơm áo, đạo đức suy đồi, tệ trạng, tội ác tràn lan và sự cách
biệt giầu nghèo quá sâu sắc chưa từng có ở Việt Nam.
Vì vậy, đã đến lúc gần
90 triệu nhân dân Việt Nam trong nước, đòi hỏi khoảng 3 triệu đảng viên của
đảng cầm quyền (ngụy danh “Đảng cộng sản
Việt Nam”) phải chuyển đổi môt cách hòa bình, êm dịu, vô điều kiện càng sớm
càng tốt, từ chế độ “Độc tài, độc đảng”(ngụy
danh “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) qua chế độ “Dân chủ đa đảng” (Chính
danh: Cộng hòa dân chủ Việt Nam hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng hòa dân
bản chủ nghĩa Việt Nam…chẳng hạn) để mọi tầng lớp nhân dân được sống tự do,
âm no, hạnh phúc; để các quyền dân chủ, dân sinh,nhân quyền cơ bản được tôn
trọng, bảo vệ và hành xử; để mọi công dân và các chính đảng có cơ hội đem tài
năng, sáng kiến tham gia vào việc lãnh đạo và quản lý đất nước, xã hội, ngỏ hầu
kiến tạo một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do, giầu mạnh; để mọi người dân Việt
Nam không phân biệt giai cấp, sắc tộc, tôn giáo được sống thực sự trong “Độc
lập-Tự do-Hạnh phúc”
trong một xã hội công bình, chính trực hơn.
Triển vọng tương lai
tốt đẹp hay bi thảm cho nhân dân, đất nước và cho chính Việt cộng là tùy
sự chọn
lựa hôm nay của chính Việt cộng về cách thức kết thức tiến trình chuyển
đổi để đi đến tương lai đó: Tự nguyện,
tự giác, chủ động, hợp tác chuyển đổi từ “chế độ độc tài, độc đảng” qua
“Chế đọ dân chủ, đa đảng”sau một tiến trình thích hợp
(triển vọng tốt đẹp) hay
chờ đến lúc sự ức chế của nhân nhân đạt đến biên độ “Tức nước vỡ bờ”, sức mạnh của nhân dân sẽ vùng lên như thác đổ,
khi “Tình thế cách mạng chín mùi”
như những tổ sư cộng sản nói, sẽ kết thúc một qua trình chuyển đổi theo đúng
quy luật đấu tranh giai cấp, rằng “ở đâu
có áp bức, ở đó có đấu tranh và rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng…”, mà
hơn ai hết, những kẻ ngụy danh cộng sản đã thuộc nằm lòng, và đã có biện chứng
thực tiễn từ trong quá khứ đến hiện tại, xẩy ra tại các nước đồng chủng độc tài
các kiểu (Rumanie, Ai Cập, Lybia, Syria
…)với số phận của những kẻ thống trị độc tài ngoan cố đã kết thúc nhục nhã,
bi thảm như thế nào, gây hậu quả tai hại nhiều mặt cho nhân dân và đất nước ra
sao.
Ước mong đây là cơ hội
cuối cùng để Việt cộng có được những việc làm tốt đẹp cho Đất nước, để đoái
công chuộc tội về những lỗi lầm quá khứ, trước quốc dân Việt Nam, lịch sử Việt
Nam và Tổ Quốc Việt Nam.
Thiện Ý
Houston, ngày 12 tháng 6 năm 2012
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.