Tham luận:
ĐÂU LÀ GIẢI PHÁP KHẢ THI ĐỂ
CỨU NƯỚC VÀ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN ĐẤT NƯỚC?
Thiện Ý
Tôi đã đọc di đọc lại ba lần “THƠ KHẨN GỞI
CĐ/NVHN VÀ ĐỒNG BÀO QN” đề tên Trưng Triệu ở cuối thư, dường như là
bút hiệu của Bà Bs. Nguyễn Thị Thanh.Thư này được phát tán rộng rãi trên mạng
và đã được một số người coi đề nghị trong thư như là một giải pháp khả thi để
cứu nước.
Đối
với Bs. Nguyễn Thị Thanh là một người không xa lạ gì với tôi.Vì tôi là bạn với em
trai Bà là anh Nguyễn Văn Diễn (đã mất
tại Houston
cách nay ít năm), từ trước 1975 khi dạy học chung ở Trường Trung Học Hưng
Đức, Buôn Mê Thuột. Sau 1975, tôi là thầy dậy học hai đứa con Bà và nhiều lần
được Bà mời đến ăn trưa để đàm đạo thời sự tại căn Biệt thự trên đường Điện
Biên Phủ,(tức Phan Thanh Giản cũ).Trong
thời gian này (1975-1978) BS. Thanh có nhân trao tận tay Ông Lê Duẩn, (Tổng Bí Thư Cộng đảng Việt Nam lúc bấy giờ)
tài liệu “Việt
Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới Của Các Cường Quốc Cực”do tôi
viết làm tài liệu lý luận cho “Mặt Trận
Nhân Quyền Việt Nam”, với cam kết không nói tên tác giả. Vì Bà nói là cùng
quê Quảng Trị và là bạn thuở nhỏ với Lê Hãn,trưởng nam của Ông Lê Duẩn nên có
thể làm được việc này…
Bài tham luận này như một góp ý kiến với
Bs. Thanh,chúng tôi xin lần lượt trình bầy:
-
Giải pháp mà Bs.
Nguyễn Thị Thanh đề nghị có khả thi hay không?
-
Đâu mới là giải
pháp khả thi để cứu nước và phát triển toàn diện đất nước?
-
Kết luận.
II/- GIẢI PHÁP MÀ BS.
NGUYỄN THỊ THANH ĐỀ NGHỊ CÓ KHẢ THI HAYKHÔNG?
1.-
Giải pháp Bs. Nguyễn Thị Thanh đề nghị là gì?
Căn cứ vào nội dung “THƠ KHẨN GỞI
CĐ/NVHN VÀ ĐỒNG BÀO QN”, của Trưng Triệu-Nguyễn
Thị Thanh (Đính kèm nguyên văn sau bài
viết này) thì hiện nay Bs. Nguyễn Thị Thanh đang ở Hà Nội lo trị liệu ung
thư cho đồng bào, được chính quyền ủng hộ việc này. Ngoài công việc chuyên môn,
Bs Thanh đã có cơ hội tiếp xúc, thăm dò nơi một số cán bộ đảng viên cộng sản
cao cấp đang tại chức hay đã về hưu. Bà cho hay:
* Tất cả cán bộ cao cấp, kể cả chưa về hưu cũng đều xác nhận là nước đã
mất vào tay Trung quốc rồi,“ĐCSVN sẽ trở thành một chi bộ của đảng CS
Tàu…”.Họ khẳng định rằng "Phải
chi có ‘đại đòan kết dân tộc’, có Mỹ
giúp thì sức mấy Tàu Chiếm VN đựơc.".
* Phần mình, Bs. Nguyễn Thị Thanh
cho biết đang làm những việc sau đây:
-
Phải cố làm công việc đơn thương độc mã thuyết phục ĐCSVN bỏ ăn mừng ngày 30/4
(nhưng không kịp cho năm nay được) và
chấp nhận CĐ/NVHN là thành phần đối lập với cây Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Chấp
nhận Siêu cường Mỹ giúp cứu nguy đất nước mới còn mong thoát nô lệ Tàu, và bảo
vệ vẹn tòan lãnh thổ lãnh hải VN.”
- Yêu cầu những cán bộ đảng viên cao cấp mà
Bà tiếp xúc, giới thiệu cho gặp ông Thủ Tướng
Dũng và 15 ông TƯ ĐCSVN để yêu cầu họ chịu bỏ phân nửa gia tài cứu
đói đồng bào, cứu nguy kinh tế VN, chấp nhận bỏ Điều 4 Hiến Pháp chấp nhận tự
do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên, thì nhân dân sẽ tha hết tội tham
nhũng, tội bán nước, sẽ không bao giờ có sự trả thù, không có một giọt máu đổ
ra nữa." Họ làm thinh. Có một ông nguyên là Chủ tịch Ủy Ban Tổ
chức đảng nói rằng : “Đó là con đường phải đi đến.”. Những người khác thì
đều đồng ý là phải có buổi họp đối thoại giữa CD/NVHN với TƯ ĐCSVN.
BS. Thanh thêm rằng : “Buổi họp phải khóang đạt, tôn trọng lẫn nhau
tại một nước thứ 3 lần đầu. Nhưng chúng tôi tại hải ngoại cần tổ chức UB
Đại diện trước đã”.
Bs. Thanh nói với họ rằng "Lực lượng của CĐ/NVHN rất lớn, không chỉ là
ngoại giao. Đó là cả lực lựợng kinh tế, quân sự của cả thế giới, dư sức
chống Tàu dành độc lập và vẹn tòan lãnh thổ cho VN chúng ta và cho cả thế giới
tự do. Chỉ cần ĐCSVN thức tỉnh là cứu được nước. Tuy đã quá trể,
nhưng tôi tin chắc sẽ cứu được nước.".
*Tóm tắt giải pháp mà Bs. Nguyễn Thị Thanh
đề nghị gồm ba điểm:
1.- Thành lập Ủy Ban Đại Diện Cộng Đồng
Việt Nam Hải Ngoại.
2.- Tổ chức cuộc họp đối thoại giữa Ủy Ban
Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại với Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra lần
đầu ở một nước thứ ba trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
3.- Nội dung và mục đích đối thoại để thuyết
phục Đảng Cộng Sản Việt Nam “chấp nhận bỏ Điều 4
Hiến Pháp, chấp nhận tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên… để đem lại Đại đòan kết dân tộc, đem lại
viện trợ lực lượng cứu nguy đất nước từ CĐ/NVHN, từ Hoa Kỳ và thế giới tự do.”
2.- Giải pháp đề nghị có
tính khả thi hay không?
Những người Việt Quốc Gia chân chính chắc
sẽ có cùng câu trả lời tổng quát rằng giải pháp mà Bs. Nguyễn Thị Thanh đề nghị
là không khả thi. Vì:
1.-
Việc thành lập một “Ủy Ban Đại Diện Cộng
Đồng Việt Nam
Hải Ngoại” là điều không tưởng.
Vì thực tế ai cũng thấy từ lâu nỗ lực đoàn
kết các lực lượng chống cộng ở hải ngoại trong một tổ chức thống nhất để hoạch
định và cùng thực hiện một sách lược chống cộng chung, đều thất bại. Thực tế
người ta chỉ thấy hiện tượng phân hóa trong các tổ chức Cộng Đồng Người việt
Quốc Gia tỵ nạn cộng sản, trong các chính đảng và các tổ chức đấu tranh, tổ
chức xã hội và cả tôn giáo nữa.Nay nếu thành lập một ““Ủy Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại” sợ rằng chưa thành
lập được thì sự tranh cãi về tư cách đại diện không thôi cũng đủ gây thêm sự
phân hóa trong các Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại, các chính đảng Quốc Gia và các
tổ chức đấu tranh….
2.-
Việc tổ chức cuộc họp đối thoại giữa Ủy Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải
Ngoại với Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là điều không thực tế.
Vì thực tế Việt cộng chưa bao giờ muốn
đối thoại với các Cộng Đồng Việt Nam ở hải ngoại mà chỉ thực hiện chủ trương
chính sách “phân hóa hàng ngũ chống cộng”, “Chiêu hồi người Việt Quốc gia” về
hợp tác vô điều kiện với chế độ để “Xây dựng đất nước” trong khung cảnh chế độ
độc tài toàn trị do đảng Cộng sản Vie65tNam thống trị độc quyền.
Bằng chứng là Bs. Nguyễn Thị Thanh khi đề
nghị “đối thoại giữa Ủy Ban Đại Diện
Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại với Đảng Cộng sản Việt Nam” chỉ là cảm tính cá
nhân, dựa trên ước muốn cá nhân của một số cán bộ đảng viên cộng sản cao cấp đã
về hưu hay còn tại chức mà Bs, Thanh nói là đã tiếp xúc, đó không phải là ý
muốn của các lãnh tụ hàng đầu đảng (Tổng
Bí thư và các Ủy viên Bộ Chính Trị…) và nhà nước Việt cộng (Thủ tướng chính phủ, Chủ tịch Quốc Hội…)
hiện nay. Những kẻ này, cho đến lúc này vẫn ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền
thống trị độc quyền, độc tôn cho đảng Cộng sản Việt Nam qua việc sửa đổi Hiến
Pháp vẫn duy trì Điều 4, vẫn giữ bảng hiệu chế độ độc tài toàn trị “Cộng Hòa Xã
hội Chủ Nghĩa”, không chịu chuyển đổi qua chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên đa
đảng theo đòi hỏi của nhân dân, phù hợp với xú thế thời đại(dân chủ hóa và thị trường tự do hóa tòan cầu).
Chính vì vậy, khối Việt quốc ở
hải ngoại cho đến lúc này vẫn chống đối quyết liệt những ai chủ trương “Đối
thoại với Việt cộng” với ngụy biện như là một phương thức “Đấu
tranh trực diện với Việt cộng”.Vì rằng chẳng cần “Đối thoại” thì Việt cộng
cũng đã biết Việt quốc muốn gì, quốc dân Việt Nam đòi hỏi gì, Việt cộng chỉ cần
đáp ứng những mong muốn và đòi hỏi đó, là sẽ “đem lại Đại đòan kết dân tộc, đem lại viện trợ lực
lượng cứu nguy đất nước từ CĐ/NVHN, từ Hoa Kỳ và thế giới tự do” như Bs. Nguyễn Thị Thanh và một
số người khác kỳ vọng đạt được qua đối thoại
3.- Vì vậy, không thể qua nội dung và mục đích đối thoại mà thuyết phục
được Đảng Cộng Sản Việt Nam “chấp
nhận bỏ Điều 4 Hiến Pháp, chấp nhận tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên…
để đem lại Đại đòan kết dân tộc, đem lại
viện trợ lực lượng cứu nguy đất nước từ CĐ/NVHN, từ Hoa Kỳ và thế giới tự do.
Vì thực tế, với áp lực từ nhiều phía
trong nhiều thập niên qua (các cuộc đấu
tranh kiên trì của Việt quốc ở hải ngoại cũng như của mọi tầng lớp nhân dân
trong nước, áp lực quốc tế và nay áp
lực từ một bộ phận “phản tỉnh” trong đảng CSVN…), thế mà đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn ngoan cố không từ bỏ quyền thống trị độc tôn trong một chế độ độc tài
đảng trị, thế thì làm sao chỉ qua “các cuộc đối thoại” mà có thể
“thuyết phục” được đảng CSVN “chấp nhận bỏ
Điều 4 Hiến Pháp, chấp nhận tự do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên…”?
Tóm lại: Giải pháp thành lập một Ủy Ban
Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại để thông qua “Đối thoại” mà thuyết phục
được Đảng Cộng Sản Việt Nam “chấp nhận bỏ Điều 4 Hiến Pháp, chấp nhận tự
do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên… để đem lại Đại đòan kết dân tộc…là hoàn toàn bất khả thi,chỉ là không
tưởng,không thực tế.
Vậy thì:
II/- ĐÂU LÀ GIẢI PHÁP KHẢ THI ĐỂ CỨU NƯỚC VÀ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
ĐẤT NƯỚC?
Cần xác tín rằng:
1.- Chủ nghĩa cộng
sản và các chế độ cộng sản trong đó có cái gọi là chế độ “Cộng Hòa Xã hội Chủ
Nghĩa Việt Nam” đã ở “Giờ thứ 25”, sự tiêu vong đã là một tất yếu, và thời gian
kết thúc sẽ chẳng còn bao lâu nữa.
2.- Chủ nghĩa quốc
gia và công cuộc đấu tranh cho lý tưởng tự do, dân chủ mà Việt quốc theo đuổi
trong nhiều thập niên qua là chính nghĩa tất thắng, chiến thắng sau cùng khẳng
định “chính quốc” tất thắng “Tà cộng” sẽ
đến nay mai.
Vì vậy, giải pháp khả
thi để cứu nước và phát triển toàn diện đất nước bây giờ chỉ có thể:
-
Một
là Việt cộng không cần “Đối thoại” với ai, thức thời tự nguyện tự giác, và chủ
động hợp tác (với Việt quốc) để kết thúc tiến trình chuyển thể từ “độc tài, độc đảng, toàn trị” qua “dân chủ, đa đảng, pháp trị” theo chiều hướng “Chiến
lược Toàn Cầu” (Chế độ dân chủ, kinh tế thị trường tự do).
-
Hai
là để sức mạnh quần chúng nhân dân kết thúc quá trình chuyển
thể khi tình hình thực tế phát triển đến
biên độ “tức nước vỡ bờ”.
1.-
Nếu Việt cộng tự nguyện, tự giác, đơn phương, chủ động , hợp tác thực hiện kết
thúc tiến trình chuyển thể hòa bình và êm dịu như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào cuối thập
niên 80 và đầu thập niên 90, hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân phiệt
Miến Điện đã đang muốn làm, và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đến nay đã có dấu hiệu và hiệu quả thực tiễn
bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
Nếu làm theo cách này, là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước và cho chính
Việt cộng. Có lợi cho Việt cộng, vì chế độ độc tài toàn trị dù bị tiêu
vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu
không đổi tên) vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt
bình đẳng, hợp pháp để giành quyền lãnh đạo đất nước trong một chế độ dân chủ
đa đảng.Thực tế, Cộng đảng Việt Nam vẫn có nhiều thuận lợi hơn các chính đảng
khác (nhờ thế lực sẵn có sau nhiều năm
nắm quyền độc tôn…) để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa
đảng này, nếu được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử
tự do. Đồng thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân (đổ máu…), đất nước (tan hoang…) và cho chính Việt cộng như nhân dân, đất nước và các
nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu.
Một giả
định, nếu chọn và làm theo cách này,
Việt cộng có thể chủ động thực hiện cách thức kết thúc tiến trình chuyển đổi
hòa bình êm dịu như sau:
* Chuyển đổi trên bình diện pháp lý:
1.-
Quốc hội đương nhiệm đang có nghị trình sửa đổi Hiến pháp hiện hành, thay vì
sửa chữa theo hướng củng cố chế độ độc tài độc đảng hiện nay, sẽ sửa đổi theo
hướng dân chủ pháp trị,đa đảng.
Theo hướng này, chỉ cần sửa đổi những
điều khoản căn bản liên quan đến danh hiệu chế độ chính trị và vai trò các
chính đảng trong chế độ chính trị dân chủ pháp trị, đa đảng.Còn lại các điều
khoản khác vẫn duy trì, chỉ sửa đổi hay bãi bỏ các điều khoản nào không còn phù
hợp với chế độ chính trị dân chủ pháp trị,đa đảng.
Mục đích
duy trì nguyên trạng những qui định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành
chính quyền dân sự cũng như quân sự các cấp, các ngành (lập pháp,hành pháp và tư pháp) hiện hành từ trung ương đến địa
phương trên cả nước,là để tránh mọi sự xáo trộn bất lợi cho đất nước. Sau đó sẽ
sửa đổi, điều chỉnh dần dần những mâu thuẫn, bất hoàn theo thời gian thích hợp
để hoàn chỉnh từng bước chế độ chính trị dân chủ pháp trị, đa đảng trên bình
diện pháp lý.
Tỷ dụ, Hiến pháp hiện hành (1992) qui định nơi:
CHƯƠNG I: Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Chế độ chính tri.
Có thể sửa đổi thành : Nước Cộng Hòa Dân
Chủ Việt Nam (1)
Hoặc: Nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (2)
(Nếu muốn lấy lại danh xưng HP. 1946)
Hay: Nước
Cộng hòa dân bản chủ nghĩa Việt Nam(3)
( Nếu
muốn nghe cho quen tai và có ý nghĩa lấy dân làm gốc)
Chế độ chính trị
Điều
1: Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Sửa đổi thành : Nhà nước Cộng Hòa
Dân Chủ Việt Nam(hoặc
chọn 2 hay 3)là
nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về toàn dân.
Điều
4: Đảng Cộng
dản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Có thể sửa đổi Điều 4 thành:
Điều 4: Mọi công dân Việt Nam, với tư
cách cá nhân hay chính đảng, có quyền tham gia công việc lãnh đạo, quản lý đất
nước và xã hội, thông qua các cuộc tranh cử và bầu cử tự do.
Mọi cá nhân công dân và tổ chức chính đảng phải hoạt động
chính trị trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2.-
Quốc hội cơ quan lập pháp đương nhiệm sau đó cần:
- Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến
pháp dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng,mới được hình thành từ Hiến pháp hiện
hành được sửa đổi.(Luật Đất Đai, Nhà
đất,Luật Hình, Luật Hộ…)
- Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham
gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng đã được khai sinh
từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.
- Làm“Luật
ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ pháp
trị,đa đảng,cho phép mọi cá nhân công dân và đại diện các tổ chức chính đảng có
thể tham gia hợp pháp trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do vào các chức vụ
dân cử các cấp, các ngành trên cả nước.
- Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc”(như nước Cộng Hòa Nam Phi đã làm sau khi kết
thúc thắng lợi vào đầu thập niên 90, cuộc chiến tranh chống chế độ phân biệt
chủng tộc giữa thiểu số người da trắng thống trị trên tuyệt đại đa số người da
đen bị trị; tương tự như chế độ độc tài đảng trị bao lâu nay tại Việt Nam,
thiểu số các đảng viên Cộng đảng Việt Nam đã thống trị trên tuyệt đại đa số
nhân dân Việtt Nam trên nửa thế kỷ qua).
Luật này sẽ áp
dụng nguyên tắc bất hồi tố của luật pháp nhằm miễn tố chung cho những hành động
vi phạm luật pháp quốc nội hay quốc tế của cá nhân hay tập thể xẩy ra trước
ngày ban hành “Luật Hòa Giải Dân Tộc”
ở cả hai phía Việt cộng cũng như Việt quốc.(trừ
các tội ác diệt chủng, chống nhân loại) .
Luật này nhằm hóa giải hận thù quá
khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên
nhân từ quá khứ, dưới bất cứ hình thức nào, tạo sự hòa giải những mâu thuẫn
trong lòng dân tộc, duy trì ổn định chính trị, xã hội để có điều kiện thuận lợi
kiện toàn chế độ chính trị dân chủ pháp trị,đa nguyên,đa đảng mới hình thành;
tạo tiền đề đoàn kết thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng, củng cố,
phát triển toàn diện Đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến
hóa chung của nhân loại, tạo thế và lực chống ngoại xâm hữu hiệu,bảo vệ Tổ
Quốc.
Công, tội của các cá nhân hay tập thể
ở cả hai phía Quốc-Cộng nếu có trong quá khứ, thiết tưởng cần để cho lịch sử
mai nầy xét định. Hiện tại chỉ nên coi đó là những bài học kinh nghiệm cần rút
ra cho hiện tại và tương lai.
3.- Chính phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng
các văn bản lập qui dưới luật,để điều chỉnh theo các luật lệ đã được Quốc Hội sửa đổi một cách phù hợp với
thời gian, không gian và tiến trình hoạt
động bình thường của guồng máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn,
bất ổn chính trị và xã hội, bất lợi cho đại cuộc.
Tỉ như “luật ứng cử và bầu cử” Quốc hội hay Hội Đồng Nhân Dân các cấp sẽ
được áp dụng trong nhiệm kỳ sắp tới (Trừ
khi Cộng đảng, Quốc hội và chính quyền đương nhiệm đồng thuận về một quyết định
khác hơn, chẳng hạn giải tán các cơ quan dân cử cho ứng cử và bầu cử sớm hơn,
do tình hình đòi hỏi mà không gây xáo trộn chính trị và xã hội).Nhưng các luật hủy bỏ hoặc thay thế những luật lệ
trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, hay“Luật
chính đảng”, “Luật hòa giải dân tộc” thì cần có hiệu lực tức thời sau khi ban hành
tạo tiền đề chứng tỏ thực tâm và thiện chí của Cộng đảng và nhà cầm quyền đương
thời muốn thực hiện sự chuyển đổi hòa bình và êm dịu từ “Chế độ độc tài, độc đảng” qua “Chế độ dân chủ,
đa đảng”. Đồng thời giúp cho các cá nhân công dân cũng như chính
đảng có thời gian củng cố, phát triển tổ chức và sinh hoạt, chuẩn bị kịp thời
tham gia ứng cử với tư cách cá nhân
hay do Chính đảng đưa người ứng cử vào
các cơ quan dân cử của cả nước (Quốc Hội,
Chủ tịch nước hay Tổng Thống, nếu Hiến pháp tu chính người đứng đầu hành pháp
do dân trực tiếp bầu cử trong các cuộc phổ thông bầu phiếu, thay vì do Quốc Hội
bầu cử như Hiến pháp hiện hành…) và địa phương (như Hội đồng nhân dân các cấp…).
*Chuyển
đổi trên bình diện thực tế:
Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự
điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả
nước vẫn duy trì nguyên trạng và hoạt
động bình thường.Sự sửa đối Hiến pháp, sửa đổi luật lệ do Quốc hội đương nhiệm
hay các văn bản lập qui dưới luật do Chính phủ đương nhiệm ban hành để điều
chỉnh theo sự sửa đổi Hiến pháp và luật lệ của Quốc hội, cần được các cấp, các
ngành thực thi nghiêm túc, đồng bộ trên cả nước.
Quốc Hội và Chính phủ đương nhiệm cần
thống nhất và chủ động chỉ đạo thực hiện những sửa đổi Hiến pháp, luật pháp và
lập quy theo hướng chuyển đổi hòa bình, êm dịu từ “chế độ độc tài, độc đảng ” hiện nay
qua “Chế độ dân
chủ, đa đảng”. Đồng thời, Quốc hội và Chính phủ đương nhiệm cũng cần
ấn định rõ lịch trình cải đổi về pháp lý, chính trị cũng như thực tế phải hoàn
tất chậm nhất là trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ Quốc hội đương nhiệm (2015) chẳng
hạn.
Bởi vì, nếu giả định Việt cộng chấp nhận chủ động thực hiện cách thức
chuyển đổi hòa bình êm dịu trên đây, từ sau năm 2015,
Việt Nam sẽ có Quốc hội mới, chính phủ mới hình thành từ và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp hiện hành sau khi được Quốc hội đương nhiệm sửa đổi theo
hướng dân chủ pháp trị, đa đảng.
Mặc dầu cách thức chuyển đổi này là
cách tốt nhất, có lợi nhất không chỉ cho đảng Cộng sản Việt Nam, mà lợi cho cả
nhân dân, dân tộc và đất nước, nhưng đây chỉ là một giả định, muốn trở thành sự
thật, cần có những điều kiện cần và đủ sau đây:
1.-
Việt cộng chỉ chủ động làm theo cách chuyển đổi hòa bình và êm dịu này, khi nội bộ Cộng đảng Việt Nam, phe
“cấp tiến” (theo chiều hướng
mới) phải mạnh hơn phe “bảo thủ”.
Đồng thời, trong cũng như ngoài nước các cá nhân hay tổ chức chính trị có cùng
khuynh hướng đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cách nào
đó, phải liên kết được với nhau, tập hợp và lãnh đạo được quần chúng, vận dụng
được hậu thuẫn quốc tế, tập trung được lực lượng trong, ngoài hổ trợ hiệu quả
cho phe cấp tiến trong Cộng đảng Việt Nam
(Như ở Liên Xô đã làm được để hậu thuẫn hiệu quả choTổng bí thư Gorbachev và
phe cấp tiến trong Cộng đảng Nga 1985-1991).
Theo nhận định của chúng tôi, căn cứ
trên các sự kiện và diễn biến tình hình hiện nay thì dường như so sánh lực
lượng giữa khuynh hướng cấp tiến (theo Mỹ)và
bảo thủ (theo Tầu) là nghiêng ngửa
trong nội bộ Cộng đảng Việt Nam.
Các lực lượng quần chúng trong nước qua các cuộc dấu tranh cá nhân cũng như tập
thể đòi các quyền dân sinh, dân chủ, thì đã có dấu hiệu phát triển theo chiếu
hướng liên kết, tập trung lực lượng, dù còn lỏng lẻo.
Mặt
khác, áp lực quốc tế, nhất là Hoa Kỳ phải làm sao tạo áp lực buộc được Việt
cộng chuyển đổi càng sớm càng tốt qua dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng theo
cách hòa bình và êm dịu này.Trên nguyên tắc cũng như thực tế Hoa Kỳ và các nước
dân chủ trên thế giới từ lâu đã có chủ trương này, và đã có nhiều việc làm có
tính tạo áp lực, thúc đẩy Việt cộng đi về hướng dân chủ.
Tuy nhiên, cường độ còn yếu nên tốc độ
chuyển đổi theo chiều hướng này còn chậm, dù có đạt được một số thành quả nhất
định sau mỗi áp lực. Có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ nói riêng và các nước dân chủ
khác nói chung còn tùy thuộc vào sự tính toán lợi ích song phương hay đa phương
với Việt cộng. Nhất nữa là dường như Hoa Kỳ cũng chỉ muốn “cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược trong vùng” theo một
tiến trình thời gian với tốc độ vừa phải. Phải chăng vì thế mà Hoa Kỳ đã chỉ thực hiện “chính sách áp lực cầm chừng”,thả nổi
cho một tiến trình chuyển đổi từ từ, để chế độ độc tài toàn trị Việt cộng tồn
tại thêm thời gian, để thuận lợi và dễ
xử dụng công cụ cho mục tiêu chiến lược trong vùng hơn là trong khung cảnh một
chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, nếu
hình thành sớm còn phôi thai, bất ổn và nhiều bất trắc ? Có lẽ biết vậy, nên
Việt cộng (phe bảo thủ theo Tầu) đã
tiếp tục ngoan cố cho đến lúc này vẫn không chịu chuyển đổi, tiếp tục thực hiện
chiến thuật “Mềm nắn, rắn buông”, tìm
cách diên trì tiến trình dân chủ hóa để kéo dài thêm thời gian độc quyền chính
trị, ngụy biện bằng lý do cần sự ổn định chính trị để phát triển đất nước, để
chỉ “Đổi mới
kinh tế, không đổi mới chính trị” là
vậy.
(Đến đây xin mở dấu ngoặc nói thêm về hệ quả chính sách can thiệp nửa
vời của các cường quốc tư bản chủ nghĩa vào tiến trình dân chủ hóa các chế độ
độc tài tại các nước Trung cận đông và Bắc phi .Hệ quả trực tiếp đối với các
nhà độc tài đang còn nắm quyền thống trị từ nhiều thập niên tại vùng này, là sự
ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền thống trị, chống lại cao trào đòi dân chủ hóa
đất nước của nhân dân. Một điển hình là tập đoàn độc tài của Tổng Thống Al-
Bassad ở Syria đã ngoan cố không chịu từ bỏ quyền hành, đàn áp đẫm máu các cuộc
nổi dậy của nhân dân với cường độ mức độ tàn bạo gia tăng theo thời gian hơn hai
năm qua. Tổng thống chế độ độc tài Al- Bassad sở dĩ ngoan cố dám chống lại nhân
dân, là vì biết rằng vẫn chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng với phe quần
chúng nổi dậy, lại được sự hổ trợ của hai cực cường quốc cộng sản hàng đầu là
Nga và Tầu cộng. Trong khi Al- Bassad cũng biết rằng sẽ không có sự can thiệp
trực tiếp bằng quân sự từ bên ngoài theo kiểu
Hoa Kỳ và khối NATO dưới ngọn cơ Liên Hiệp Quốc đã làm tại Lybia khoảng
một năm trước, nên lực lượng quần chúng nổi dậy ở Syria khó thành công được như
lực lượng quần chúng nổi dậy ở Lybia là đã lật đổ được chế độ của nhà độc tài Mumamar Ghaddafi.
Sự thể này cũng đã có ảnh hưởng gián tiếp ít nhiều đến sự toán tính của Việt
cộng trong việc đối phó với các lực
lượng chính trị cũng như quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân
sinh và nhân quyền trong nước. Việt cộng toan tình rằng, cũng như tại các nước
độc tài Trung cân đông và Bắc Phi, nếu không có sự hổ trợ bằng sự can thiệp
trực tiếp, triệt để của bên ngoài, Cộng đảng Việt Nam vẫn nắm vững được nền
“Độc tài chuyên chính tư sản (Đỏ vỏ xanh
lòng)”, nên chưa vội gì mà chấp nhận nền “Dân chủ,đa nguyên, đa
đảng ”.
Tuy nhiên, Việt cộng cũng có ít nhiều
nao núng và dường như trên nguyên tắc đã có sự thống nhất về “chiều hướng mới không thể đảo ngược”
(theo chiến lược toàn cầu mới:chế độ độc tài các kiểu sớm muộn cũng phải tiêu
vong, để hình thành các chế độ dân chủ, đa đảng tại các nước trên phạm vi toàn
cầu). Thực tại chỉ còn sự bất đồng giữa phe bảo thủ (theo Tầu cộng) và phe “Cấp tiến” (Theo Mỹ quốc) về thời điểm
nào được coi là thích hợp để kết thúc quá trình chuyển đổi đã tịnh tiến tự
nhiều năm qua.).
Vì vậy ngoài yếu tố kết hợp trong và
ngoài nước, áp lực Hoa Kỳ và quốc tế cũng là nhân tố quan trọng có tính quyết định, hậu thuẫn
phe cấp tiến, đẩy chế độ độc tài độc đảng Việt cộng phải kết thúc tiến trình
chuyển đổi qua chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng nhanh chóng hơn.
Một
yếu tố có tính quyết định khác cho sự kết thúc tiến trình chuyển đổi của chế độ
Việt cộng qua dân chủ pháp trị đa đảng, là tốc độ chuyển biến của Tầu cộng theo
hướng dân chủ đa đảng trong “Môi trường mật ngọc kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”.
Nếu Tầu cộng tăng tốc, thì phe bảo thủ Việt
cộng cũng tăng tốc. Tầu cộng kết thúc quả trình chuyển đổi sớm thì Việt cộng
cũng sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sớm. Vì ai cũng thấy Việt cộng đã học và
làm theo sách “chuyển đổi câu giờ” của
Tầu cộng, cố bám giữ quyền lực độc quyền, độc tôn để kéo dài thêm thời gian thụ
hưởng các ưu quyền đặc lợi có được và chỉ có được cho tập đoàn thống trị độc
quyền (Cộng đảng VN) trong khung cảnh
một chế độ độc tài đảng trị hay độc tài toàn trị kiểu cộng sản mà thôi.
Chính vì vậy đã có nhiều người khi thấy
gần đây có một vài dấu hiệu Tầu cộng tăng tốc
về phía dân chủ, thì vội lạc quan
Việt cộng cũng sẽ tăng tốc theo và sớm đi đến kết thúc quá trình chuyển
đổi qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng tại Việt Nam một cách hòa bình, êm
dịu.Chúng tôi cũng cảm thấy lạc quan một cách dè dặt. Chúng ta tiếp tục chờ xem
diễn biến tiếp theo tình hình thực tế, với ước mong niềm lạc quan của chúng ta
sớm biến thành sự thật trên đất nước chúng ta. Vì đó là ước vọng chung của hơn 90
triệu nhân dân trong nước và khoảng 4 triệu con dân Nước Việt ở hải ngoại luôn
hướng lòng về Tổ Quốc. Vì đó là mục tiêu tối hậu mà nhân dân trong nước và
người Việt hải ngoại đã kiên trì hy sinh đấu tranh trong nhiều thập niên qua.
2.-Nếu Việt cộng chủ động làm thì phải có những dấu hiệu chứng tỏ thực
tâm bằng các hành động cụ thể thực tế tương tự như chế độ độc tài quân phiệt
Miến Điện đã và đang làm.
Tỷ như Việt cộng song song với việc
sửa đổi Hiến pháp, luật pháp theo hướng dân chủ pháp trị, đa đảng, Việt cộng sẽ
phải có hành động cụ thể thực tế như: Thả hết các thù nhân chính trị đang bị
cầm tù, chấm dứt mọi hành động theo dõi, trấn áp các nhà bất đồng chính kiến,
tìm cách đối thoại với họ và để cho mọi cá nhân công dân cũng như các chính
đảng bao lâu nay bị coi là hoạt động bất hợp pháp, thì cần tiến tới hợp pháp
hóa tạo điều kiện cho các cá nhân và chính đảng này hoạt động công khai, hợp
pháp, có thời gian chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào các cơ quan dân cử các
cấp trong tương lai…
Chúng ta cần chờ thêm thời gian để hội
đủ các điều kiện cần và đủ, về chủ quan (Việt cộng) và khách quan (trong nước và quốc tế) để cách
chuyển đổi giả định “chế độ độc tài,độc đảng” Việt cộng qua “Dân chủ đa đảng”
sớm trở thành sự thật tại Việt Nam.
2.-Nếu Việt cộng chọn cách để sức mạnh quần
chúng nhân dân kết thúc quá trình chuyển thể
khi tình hình thực tế phát triển đến biên độ “tức nước vỡ bờ” thì sao?
Câu trả lời ngắn gọn là các lãnh tụ có
trách nhiệm của Cộng đảng và chế độ Việt cộng sẽ nhận lãnh hậu quả bi thảm,
nhân dân Việt Nam sẽ phải gánh chịu nhiều tổn thất nhân mạng, tài sản và đất nước có thể tan hoang,
như số phận của các nhà độc tài và tập đoàn sau nhiều năm thống trị độc quyền ở
các nước vùng Trung Đông và Bắc Phi như Tunisia, Ai Cập, Lybia và Syria hiện
nay.
Vấn đề đặt ra là các lãnh đạo “Đảng và Nhà nước
Việt cộng” có dám chọn sự kết thúc bi thảm cho chính mình và sự tổn
hại, tàn phá đất nước hay không?
Theo nhận định của chúng tôi, câu trả lời ngắn gọn là KHÔNG, không bao
giờ những nhà lãnh đạo có trách nhiệm của “Đảng và Nhà
nước Việt cộng” dám chọn sự kết thúc này. Việt cộng chỉ tìm cách kéo dài
thời gian độc quyền thống trị, nhưng rồi sẽ đến lúc phải chủ động, hợp tác kết
thúc quá trình chuyển đổi vào thời điểm thích hợp trước khi đẩy quần chúng nhân
dân đến biên độ “Tức nước vỡ bờ”. (Như
chúng tôi đã lý giải trong nhiều bài viết)
Nghĩa là Việt cộng đang tìm cách hạ cánh
an toàn, vừa bảo vệ được tính mạng và tài sản cho tập đoàn thống trị tích lũy
được sau bao năm cầm quyền, vừa còn cơ hội tồn tại và trở lại nắm quyền trong
chế độ mới, chế độ dân chủ đa đảng.
Bởi vì hơn ai hết, Việt cộng cũng biết
rõ chiếu hướng chiến lược toàn cầu hóa không thể đảo ngược (Thị trường tự do hóa và dân chủ hóa toàn cầu), tất yếu sớm muộn
Việt Nam phải có chế độ dân chủ pháp trị đa nguyên đa đảng sau một quá trình “vừa thị trường tự
do hóa vừa dân chủ hóa” như chúng tôi đã lý giải ở các phần trên.
Những người lãnh đạo có trách nhiệm của “Đảng và Nhà nước Việt cộng”hiện
nay không dại gì chọn thế đối đầu với nhân dân đến cùng, để cuối cùng những kẻ
lãnh đạo có trách nhiệm phải ra trước Tòa án công lý quốc gia,nhận lãnh những
bản án nặng nề, tài sản bao năm cầm quyền tích lũy tiêu tán như cá nhân Tổng
thống Ai Cập Murbarck và những bộ hạ
thân tín có trách nhiệm trong guồng máy độc tài toàn trị đã phải ra trước Tòa án công lý để nhận chịu những hình phạt
tương xứng với các hành vi tội ác đã làm trong hơn 30 năm cầm quyền độc tài.
Hay như nhà độc tài Moumur Kadhafi
thống trị Lybia hơn 40 năm cố thủ đến cùng, đã bị người dân căm thù giết chết
dã man năm 2011 vừa qua; hay như nhà độc tài Al- Bassad ,hơn một năm qua cho đến nay vẫn say máu đàn áp giết hại
hàng chục ngàn nhân nhân Syria nổi dậy,làm tan hoang đất nước, chấp nhận là tên
tội phạm chống nhân loại để bị xét xử trong tương lai.
Vì không muốn phải nhận lãnh những hậu
quả bi thảm trên, dường như những người lãnh đạo hàng đầu Đảng Cộng sản Việt
Nam, thuộc phe
bảo thủ (theo Tầu cộng)
cũng như phe
cấp tiến (theo Mỹ) được
đánh giá là ngang ngửa hiện nay, đã thỏa hiệp được với nhau về thời điểm thích
hợp có thể chủ động khởi sự một tiến trình kết thúc sự chuyển đổi an toàn. Thời
điểm đó có thể là:
- Sau
khi thấy tình hình chống đối chế độ của mọi tầng lớp nhân dân trong nước
phát triển lan rộng gần đến biên độ “Tức
nước vỡ bờ”.
- Sau
khi thấy được tập đoàn độc tài quân phiệt Miến Điện chủ động thực hiện tiến trình chuyển đổi hòa bình,
êm dịu qua dân chủ đa đảng, đã giúp tập đoàn độc tài quân phiệt thống trị nhiều
thập niên qua ở nước này, đã hạ cánh an toàn. Nghĩa là không thấy ai bị đưa
ra Tòa xét xử kết án, tù đầy tịch biên tài sản như Tổng thống Ai Cập Murbarck
và những bộ hạ thân tín có trách nhiệm trong guồng máy độc tài toàn trị của ông
ta.
- Cùng
lúc thấy Tầu cộng có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng cũng sẽ tiến tới
mục tiêu sau cùng là hình thành chế độ dân chủ, đa đảng tại Trung quốc nay mai.
- Cùng
lúc thấy Hoa Kỳ và các cực cường dân
chủ tư bản chủ nghĩa tạo áp lực mạnh mẽ (khác với chính sách áp lực cầm chừng bao lâu nay) có tác dụng như
một tối hậu thư để Việt cộng hiểu rằng đã
đến lúc phải kết thúc quá trình chuyển thể, không còn được kéo dài thêm nữa,
nếu không cả tập đoàn thống trị sẽ phải lãnh chịu hậu quả không thể sửa chữa
được cho chính bản thân, gia đình và tập đoàn thống trị độc quyền là Cộng đảng
Việt Nam.
III/- KẾT LUẬN:
Đối thoại
(Dialogue) là nói chuyện mặt đối mặt (trực
diện) giữa hai bên (song phương:
bilateral) hay giữa các bên (đa phương: multilateral) để giải quyết những
mâu thuẫn đi đến đồng thuận về một giải pháp giải quyết mâu thuẫn ấy.
Mâu thuẫn giữa Việt quốc và Việt cộng là:
-Việt quốc: muốn cứu nước và phát triển toàn diện đất nước thì
phải dân chủ hóa đất nước. Nghĩa là phải thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị
đa nguyên đa đảng để “Đại
đoàn kết dân tộc”, thống nhất toàn lực quốc gia tạo thế và lực chống
ngoại xâm hữu hiệu và phát triển toàn diện đất nước đến giầu mạnh.
- Việt cộng: Chấp nhận mất nước để bảo vệ quyền thống trị độc
tôn cho đảng Cộng sản Việt Nam
trong một chế độ độc tài toàn trị, nhất nguyên, độc đảng.
Đó là một mâu thuẫn đối kháng (Antagonistic contradiction) có tính một mất một còn giữa chính
nghĩa (Việt quốc) và phi chính nghĩa (Việt cộng), giữa chân lý (quốc gia ) và phi lý
(cộng
sản),
không thể giải quyết bằng đối thoại, nếu một trong hai bên (Việt cộng) vẫn không chấp
nhận chính nghĩa và chân lý (Việt quốc).
Hiện tại, trên cả hai bình diện pháp lý (Hiến pháp và luật pháp) cũng như thực tế (thực hiện chủ trương chính sách cai trị) đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
ngoan cố không chấp nhận chính nghĩa và
chân lý này: muốn cứu nước
và phát triển toàn diện đất nước không có con đường nào khác ngoài con đường
dân chủ hóa,thiết lập chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng.
Vì vậy, Việt cộng đã cự tuyệt và
chưa bao giờ có ý định “đối thoại” với bất cứ ai, thì việc đề nghị thành
lập “Ủy
Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại” để thông qua “đối thoại”
thuyết phục Đảng Cộng Sản Việt Nam “chấp nhận bỏ Điều 4 Hiến Pháp, chấp nhận tự
do dân chủ nhân quyền đa đảng đa nguyên…”chỉ là không
tưởng,không thực tế nên bất khả thi. Đối với những Việt quốc nào thực hiện chủ
trương “Đối thoại với Việt cộng” như là “Phương thức đấu tranh trực
diện với Việt cộng” chỉ là ngụy biện, không đem lại hiệu quả mà còn phản
tác dụng là giúp Việt cộng tiếp tục tuyên truyền lừa mị, có thêm lý cớ ngoan cố
kéo dài quyền thống trị độc tôn, độc quyền trong một chế độ độc tài toàn trị.
Vả lại, nếu cần đối
thoại để giải quyết toàn bộ các vấn đề căn bản, trọng đại của Đất nước, Việt
cộng không thể chỉ đối thoại với một cá nhân, một “Ủy Ban Đại
Diện Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại” mà phải đối thoại với hơn 90 triệu nhân dân Việt Nam trong nước, những
người chủ thực sự của Đất nước.
Thực tế giải
pháp cứu nguy đất nước và phát triển toàn diện Đất nước thì đã có,không cần
phải “Đối thoại” gì thêm. Vì giải pháp khả thi đã có. Bây giờ chỉ còn là Việt cộng có tự
nguyện tự giác chấp nhận thực hiện giải pháp đó hay không; hoặc để sức mạnh của
quần chúng nhân dân buộc Việt cộng phải làm theo ý nguyện của nhân dân.
Tất cả nay chỉ còn tùy
thuộc vào sự lựa chọn khôn ngoan của những người Cộng sản Việt Nam có trách
nhiệm.Vì hơn ai hết, tập đoàn thống trị hiện nay hẳn phải biết đến luận điểm
Marxism này: “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh” và rằng “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Thiện Ý
Houston ngày 18 tháng 4 năm 2013
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.