Những vấn đề của chúng ta:
AI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC LỊCH
SỬ ?
Thiện Ý
ß----Tài liệu
nghiên cứu lý luận: “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” được phát hành lần đầu và ra mắt nhân dịp
30-4- 1995 tại nhà hàng Fu-Kim ở downtown Houston với khoảng 400 người tham dự,
sau đó được nhà xuất bản Đại Nam ở California phát hành rộng rãi ở hải ngoại.(Tái
bản Tháng 4 năm 2005)
Vào cuối năm 1996, một độc giả ở Westminster, California
đã viết cho chúng tôi một lá thư nguyên văn như sau:
“ Kính gửi Ông Thiện Ý,
Ông có công truy cứu nhiều sách vở tài liệu
có liên quan đến Việt Nam
nhưng ông cũng chẳng biết gì về chính trị.
Lịch sử là một công cuộc sáng tạo. Trong công
cuộc sáng tạo lịch sử cần có những con bò giúp sức.
Lớp trí thức khoa bảng của các ông đã đi qua
và để lại một quê hương tàn lụi. Tất cả các ông hãy quỳ xuống mà tạ tội với tổ
tiên.Tước hiệu, bằng cấp, danh xưng của các ông là một điều ô nhục của nòi
giống. Các ông chỉ có một điều nên làm, đó là noi gương Nguyễn Trãi, Trần Nguyên
Hãn nghe phong phanh có người đức độ lặn lội đi tìm để mà khuông phò. Có như
thế mới mong cứu vãn được giống nòi. Tôi cảnh cáo các ông.
Việt nam đang đứng trước cơn bão lớn của lịch
sử, cơn bão đó sẽ xóa nước việt Nam
trước lịch sử nhân loại.
Trân trọng,
Trịnh Sơn”
Lời lẽ của bức trên thể hiện sự phẫn
nộ,hằn học,trút hết trách nhiệm trước lịch sử lên đầu những người mà độc giả
Trịnh Sơn gọi là “
Lớp trí thức khoa bảng của các ông đã đi qua và để lại một quê hương tàn lụi…”.
Lời lẽ trong trang thư cỏ vẻ nặng nề, nhưng
hoàn toàn có thể cảm thông được, vì nó xuất phát từ một nhiệt tâm mong muốn
những điều tốt đẹp cho Đất nước và Dân tộc. Tôi nghĩ rất có thể những sự kiện
lịch sử được trình bầy trong cuốn sách đã đụng chạm đến quá khứ một thời dấn thân
của Ông cho Quê hương Đất nước và nay vẫn hằng quan tâm đến vận mệnh Đất nước
và Dân tộc.
Thế nhưng thật là không công bằng và không
đúng với thực tế và lịch sử, khi trút hết trách nhiệm lịch sử cho “lớp trí thức khoa
bảng…” về sự suy tàn của Đất nước hôm nay; và cũng thật là bi quan
quá đáng khi tác giả bức thư đưa ra nhận định, rằng “Việt Nam đang đứng trước cơn bão của lịch sử,
cơn bão đó sẽ xóa nước Việt Nam trước lịch sử nhân loại…”.Vì lịch sử đã
chứng minh rằng dù có bất cứ cơn bão táp ở mức độ và cường độ nào, đất nước, con người, dân tộc và lịch sử Việt Nam vẫn trường tồn.
Tôi không giám nhận mình thuộc hàng ngũ “Trí thức khoa
bảng”, không phải vì sợ phải gánh cái trách nhiệm mà tác giả bức thư
đổ lên đầu, mà vì thực tế trình độ tri thức và học vị cá nhân chưa đạt tới danh
hiệu ấy.Tôi chỉ giám nhận là một “Trí
thức” theo nghĩa phổ quát là một người được học hành đôi chút để có được
một kiến thức phổ thông.
Vì vậy, sau khi nhận được bức thư trên vào
cuối năm 1996, tôi đã viết bài nhan đề “AI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC LỊCH SỬ?”, đã được một
số báo Việt ngữ ở hải ngoại đăng tải. Nội dung bài viết không phải để biện minh
hay chậy tội cho giai cấp “Trí thức khoa
bảng” trước lịch sử, mà chỉ
muốn trình bầy với riêng Ông Trịnh Sơn cũng như những độc giả có cùng nhận thức
và quan điểm như Ông, rằng những ai mới thực sự phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử?
Hôm nay, bước vào Tháng Tư Đen để tưởng niệm
biến cố 30-4-1975 lần thứ 38, chúng tôi xin gửi lại bài viết này với nội dung
như sau:
I/- Lịch sử và trách nhiệm lịch sử.
II/- Ai chịu trách nhiệm trước lịch sử về một
Quê hương tàn lụi?
III/-
Thay lời kết: Tương lai Việt Nam
có đáng bi quan lắm không?
I/- LỊCH SỬ VÀ TRÁCH NHIỆM
LỊCH SỬ.
1.- KHÁI NIỆM VỀ LỊCH SỬ.
Theo từ điện Hán-Việt của học giả
Đào Duy Anh thì “lịch sử biên chép những
sự biến – cách trải qua các đời – Biên chép những việc lớn của quốc gia xã hội
(histoire).”.
Từ định nghĩa này chúng tôi
suy luận,một cách tổng quát lịch sử bao gồm các sự kiện và biến cố thuộc về quá
khứ. Chính con người làm nên lịch sử. Vì vậy, lịch sử của con người nói chung
và lịch sử của một dân tộc, một đất nước nói riêng, bắt đầu khi các sự kiện và
biến cố xẩy ra được các nhà viết sử ghi chép lại dưới hình thức này hay hình
thức khác.Những sự kiện hay biến cố lịch sử mang tính khách quan, chỉ có phần
nhận định, phê phán các sự kiện và biến cố lịch sử của sử gia, dù cố gắng để
đạt tính khách quan cách mấy cũng ít nhiều mang tính chủ quan.Vì thế những nhận
định lịch sử có tính khách quan càng cao, được nhiều người công nhận, càng có
giá trị lịch sử cao.
2.- TRÁCH NHIỆM TRƯỚC LỊCH SỬ.
Thông thường người ta phân định lịch sử
theo từng thời đại với nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau. Chính những
con người sống ở mỗi thời đại,trong mỗi thời kỳ và mỗi giai đoạn lịch sử làm
nên lịch sử và phải chịu trách nhiệm chung (tập
đoàn) và cách nhiệm riêng (cá nhân)
trước lịch sử.
Nghĩa là, mọi tầng lớp con người sống
chung trong xã hội đương thời, từ tầng lớp quan quyền lãnh đạo đến các giai cấp
thứ dân, cá nhân hay tập thể đều phải chia xẻ ít nhiều trách nhiệm trước lịch
sử,tùy vị trí, vai trò, tính chất và ở mức độ khác nhau.Vì vậy dù muốn dù
không, mỗi cá nhân hay tập thể không thể tự coi mình là không có chút trách
nhiệm nào trước lịch sử.
Trên đây là nói một cách khái quát về
trách nhiệm lịch sử. Nhưng nếu đi sâu phân tích để quy trách thì có sự khác
nhau về mức độ trách nhiệm trước lịch sử giữa các tầng lớp, tập thể, cá nhân
sống chung trong một thời đại, một thời kỳ , một giai đoạn lịch sử.
Thông
thường, thành phần chịu trách nhiệm trước lịch sử hàng đầu, cao nhất là tầng
lớp lãnh đạo đất nước trong một thời đại, thời kỳ , giai đọac lịch sử nhất
định.Nhưng cụ thể trên hết và trước hết vẫn là những người đứng đầu guồng
máy cai trị đất nước, nắm vận mạng dân tộc. Bởi vì, chính những người này,
trong thẩm quyền và chức năng đã đưa ra những quyết định và hành động của họ đã
tạo ra các sự kiện và biến cố gây ảnh hưởng tốt xấu, lợi hại trực tiếp hay gián
tiếp đến các lãnh vực của đời sống con người và xã hội, làm cho đất nước cường
thịnh hay suy vong. Vậy thì….
II/- AI CHỊU TRÁCH NHIỆM
TRƯỚC LỊCH SỬ VỀ MỘT QUÊ HƯƠNG TÀN LỤI?
Đến đây vấn đề đặt ra là, “ai
chịu trách nhiệm trước lịch sử về một quê hương tàn lụi?” (theo ngôn từ của Ông Trịnh Sơn viết cho tôi).Sự
tàn lụi ở đây có nghĩa là tình cảnh quê hương Việt Nam đã và đang mỗi ngày một
suy đồi toàn diện, họa diệt vong có thể xẩy ra, nếu con dân nước Việt không
ngăn chặn và chấn chỉnh kịp thời.
1.- Tình cảnh quê hương Việt Nam đã
và đang suy đồi toàn diện như thế nào?
Để thấy chiều hướng tàn lụi của quê hương,
chúng ta hãy so sánh một cách tổng quát, thực trạng đất nước và dân tộc Việt
Nam hôm nay với thực tế trong các giai đoạn lịch sử trước đây trên mọi lãnh vực
đời sống con người, xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa,giáo dục….
Thực tế lịch sử ấy là đời sống nói chung
của người Việt ở Miền Nam trước năm 1975 dưới chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) tốt đẹp hơn nhiều về mọi mặt so với đời sống của nhân dân Việt
Nam ở Miền Bắc trong chế độ độc tài đảng trị ngụy danh Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (VNDCCH). Rồi sau năm 1975 cho đến nay, đời sống nhân dân Việt Nam cả nước
dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa (CHXHCN) do đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt
đã chỉ dễ thở hơn đôi chút so với đời sống của nhân dân Miền Bắc trước năm 1975(không phải do chế độ XHCN mà nhờ con đường
làm ăn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa). Thế nhưng nhìn chung vẫn thua
kém xa đời sống nhân dân Miền Nam dưới chế độ VNCH trước năm 1975.Thậm chí trên
một số lãnh vực của đời sống,nhân dân Việt Nam dưới chế độ đương quyền còn tệ
hại, thua kém cả đời sống nhân dân Việt Nam dưới chế độ thực dân Pháp trước năm
1954.
Nếu so sánh về trình độ văn minh và phát
triển toàn diện thì càng thấy rõ sự “Tụt
hậu” của Việt Nam trước thế giới trên nhiều lãnh vực đời sống con người và
xã hội.Tỉ như ở vào thời đại thế giới đang chuyển mình và phát triển với tốc độ
chóng mặt bước vào Thiên Niên Kỷ thứ 21, với sự toàn thắng của lý tưởng tự do,
dân chủ đối với các chế độ độc tài các kiểu, tiêu biểu như kiểu độc tài cộng
sản, thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn cố thủ trong chế độ độc tài toàn
trị XHCN và phát triển đất nước bằng con đường cưỡng ép, phản qui luật “Kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” (ngụy tạo và ngụy
biện).
Hậu quả là, trong khung cảnh chế độ chính
trị phản dân chủ lỗi thời ấy,các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền căn bản
mà phần đông các dân tộc sống trên hành tinh này đều đã và đang được thụ hưởng
đầy đủ, thì nhân dân Việt Nam vẫn còn đang phải đấu tranh quyết liệt với nhiều
tổn thất và hy sinh.Trong nhiều năm nắm quyền thống trị độc tôn cho đến nay,
đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) vẫn tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách
cai trị độc tài, sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho đất
nước.
Chẳng hạn trên lãnh vực văn hóa, với chủ
trương xây dựng
“Con người mới xã hội chủ nghĩa”, với phẩm chất “đạo đức cộng sản chủ nghĩa”, đảng
và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã phá đổ nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, hủy diệt nền tảng đạo đức xã hội lâu đời của tổ tiên. Vì không có,
không tạo được một nếp sống văn hóa mới và một nền tảng đạo đức xã hội mới tốt
đẹp hơn để thay thế, nên chế độ đã sản sinh ra một thứ văn hóa lai căng, hổ lốn,
phi dân tộc, phi nhân bản, vô đạo đức.Trong cái gọi là nền văn hóa mới xã hội
chủ nghĩa ấy, nền trật tự xã hội và các mối quan hệ xã hội truyền thống dân tộc
đều bị phá đổ, bài bác, đảo lộn luân thường đạo lý, như quan hệ cha mẹ, vợ chồng,
con cái, thầy trò, bạn hữu, láng diềng, nghề nghiệp, tôn giáo, triết học.v.v….sản
sinh ra lớp người mang hai bộ mặt người và máy trong một xã hội đảo điên, lai
căng mất gốc.
Mặt khác, trên lãnh vực giáo dục đào tạo
nhân cách, kiến thức và khả năng chuyên môn đã không
hình thành được những mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa “vừa hồng vừa chuyên”. Nghĩa là những con
người có tác phong đạo đức và năng lực chuyên môn đáp ứng được như cầu phát
triển toàn diện con người và đất nước.Vì vậy thực tế đã không theo kịp đà tiến hóa
chung của thời đại và trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật toàn cầu.
Trên bình diện kinh tế, với chủ trương con
đường phát triển kinh tế nữa nạc, nữa mỡ “kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”ấy, vẫn
không làm thay đổi được thực trạng: Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo,
chậm tiến nhất thế giới, tạo ra một xã hội đầy rẫy bất công, áp bức bóc lột độc
quyền nhà nước (chế đô CHXHCNVN) và
độc quyền giai cấp (cán bộ đảng viên CS),
hố ngăn cách giấu nghèo đã đạt mức độ chênh lệch chưa từng có trong xã hội Việt
Nam từ trước đến nay.
Tuy nhiên, mọi suy đồi nhiều mặt về đối nội
được nêu ra như những điển hình trên đây, dẫu sao với thời gian và cơ hội mới
đều có thể sửa chữa được. Thế nhưng một nguy cơ lớn nhất hiện nay là nguy cơ
mất nước vào tay Tầu cộng, nếu xẩy ra thì khó mà sửa chữa được.
Nguy cơ này bắt nguồn từ tham vọng xâm lấn
mở rộng lãnh thổ, lãnh hải của Tầu cộng đã là nguy cơ truyền kiếp đã đành. Bây
giờ lại được chính đảng và nhà cầm quyền
Việt cộng từ quá khứ (tìm nguồn chi viện trong chiến tranh xâm lấn Miền Nam) đến hiện tại (sau chiến tranh tìm chỗ dực để củng cố
quyền thống trị độc tôn trong một chế độ độc tài toàn trị) Việt cộng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho Tầu cộng thực hiện tham vọng lấn đất, lấn biển từng
phần trên bình diện pháp lý (ra tuyên bố
công nhận chủ quyền cho Tầu Cộng (1958), ký các hiệp ước song phương về biến
giới lãnh thổ lãnh hải với Tầu cộng các năm 1999 và 2000…) cũng như thực tế
(dùng bạo lực chiếm đóng các hải đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam…),giúp Tầu cộng tiến đến xâm chiếm toàn
cõi giang sơn Việt Nam. Nếu nguy cơ này thật sự xẩy ra, phải chăng chính là
điều mà Ông Trịnh Sơn lo ngại, đã viết trong thư gửi cho chúng tôi vào cuối năm
1996, rằng “Việt
nam đang đứng trước cơn bão lớn của lịch sử, cơn bão đó sẽ xóa nước việt Nam
trước lịch sử nhân loại.” ?
Với đôi nét chấm phá điển hình trên đây,chúng ta có thể hình dung
được phần nào mức độ suy đồi toàn diện của Quê Hương Việt Nam hiện nay.(dù chưa đến độ suy tàn như ông Trịnh Sơn viết một cách bi quan).
Vậy thì…
2.- Ai phải chịu trách nhiệm
về sự suy đồi của Quê Hương Việt Nam?
Theo
nhận thức của chúng tôi, câu trả minh bạch:
* Một là:Trách
nhiệm trực tiếp, chính yếu, trước hết là những cá nhân và tập đoàn cộng sản
Việt Nam đã gây ra tình
trạng suy đồi toàn diện của Quê Hương Việt Nam.
Đó là các lãnh tụ hàng
đầu và các cán bộ đảng viên CSVN đã có cơ hội nắm quyền lãnh đạo trên một nữa
đất nước Miền Bắc ( 1954-1975) và
trên cả nước (1975 đến nay);tiêu biểu
từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến Nguyên
văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và
các lãnh tụ hàng đầu khác của đảng và nhà nước chế độ độc tài toàn trị “Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” hiện nay.
Vì sự suy đồi của Quê Hương hôm nay chung quy cũng
chỉ bởi những người CSVN đã du nhập và thực hiện chủ nghĩa cộng sản tại Việt
Nam, áp đặt và cưỡng ép nhân dân Việt Nam đi theo con đường phản dân chủ, trái
chiều với hướng phát triển của lịch sử Việt Nam và xu thế của thời đại.
Từ quá khứ đến hiện tại,
trong nhiều thập niên qua, ở vào các thời kỳ khác nhau, các lãnh tụ hàng đầu
của đảng CSVN đã liên tục thực hiện các chủ trương, chính sách gây ra nhiều sự
kiện, biến cố lịch sử di hại lâu dài, toàn diện cho Đất nước và làm phân hóa dân
tộc.
Chẳng hạn, sau khi nắm
quyền thống trị nữa nước Miền Bắc, Việt cộng đã thực hiện chủ trương xây dựng
Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa thành hậu phương lớn cho cuộc “Chiến
tranh giải phóng Miền Nam”,
thống nhất đất nước bằng bạo lực. Chính cuộc chiến tranh do Việt cộng phát động
này, đã vắt cạn nhân tài vật lực và xương máu của nhân dân Miền Bắc đổ vào
chiến trường Miền Nam, buộc chính quyền quốc gia và nhân dân Miền Nam chẳng
đặng đừng phải lao vào một cuộc chiến tranh tự vệ hao người tốn của để bảo vệ
chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa và vùng đất tự do Miền Nam Việt Nam,
bảo vệ giang sơn dất nước.
Hệ quả là Việt Nam trở
thành bãi chiến trường, nhân dân Việt Nam trên cả hai miền đất nước trở thành
bia đỡ đạn cho các thế lực khuynh đảo quốc tế tiêu thụ hết số lượng vũ khí còn
tồn đọng sau Thế Chiến II và thử nghiệm thêm nhiều loại vũ khí giết người mới.
Hậu quả bi thảm là, sau 21 năm chiến tranh Quốc –Cộng, hàng triệu người Việt
Nam bị thương vong ở cả hai chiến tuyến trên cả nước, đất nước tan hoang, hận
thù chống chất và lòng người ly tán.
Thế nhưng điều phi lý,
bất công đã gây hậu quả bi thảm và đáng phẫn nộ hơn nữa, là các thế lực khuynh
đảo quốc tế, do nhu cầu thay đổi chiến lược quốc tế mới, vì quyền lợi thiết
thân của mình, đã tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ gây chiến là Việt cộng đóng
vai kẻ thắng trận (biểu kiến) trong
cuộc chiến Quốc- Cộng kéo dài 21 năm. Bởi vì, sau khi nắm trọn quyền thống trị
trên cả nước,Việt cộng đã một lần nữa thực hiện các chủ trương, chính sách phá
hoại đất nước, gây hậu quả nghiêm trọng, nhiều mặt di hại lâu dài cho đất nước
và dân tộc, làm cho Quê hương ngày một tàn lụi hơn. Chẳng cần nhắc lại ở đây,
thì mọi người Việt Nam và cả thế giới ai cũng đã biết Việt cộng đã làm gì, gây
hậu quả nghiêm trọng trên thực tế ra sao sau 38 năm cầm quyền.
* Hai là: Trách nhiệm gián tiếp và kế tiếp là những người lãnh đạo
hàng đầu và những người Việt quốc gia từng nắm các chức vị lãnh đạo các cấp
chính quyền, quân đội trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam từ
1954-1975.
Vì
sự suy tàn của quê hương hôm nay, chính là vì tầng lớp lãnh đạo chế độ Việt Nam
Cộng Hòa ở Miền Nam nói riêng, người Việt quốc gia nói chung, đã thất bại trong
việc thực hiện hai nhiệm vụ lịch sử chủ yếu (xây dựng và bảo vệ Đất nước) sau
đây:
- Một là chống cộng, ngăn
chặn, đẩy lùi, đập tan cuộc xâm lăng Miền Nam của cộng sản Bắc Việt, tiến tới
tiêu diệt chủ nghĩa và chế độ độc tài toàn trị cộng sản, phi dân tộc tại Việt Nam, để bảo vệ, tài bồi và phát
triển truyền thống quốc gia, tiếp nối lịch sử dân tộc.
- Hai
là xây dựng thành công một chế độ tự do dân chủ pháp trị đích thực, một nền kinh tế phát triển giầu mạnh tiến
đến tự túc, tự cường,và một đất nước phát triển toàn diện, văn minh, tiến bộ
theo kịp đà tiến hóa chung của thế giới, tạo thế và lực tiến tới thống nhất đất
nước một cách hòa bình, bằng sự ưu thắng của một Miền Nam quốc gia dân chủ,
giầu có, văn minh, tiến bộ đối với Miền Bắc cộng sản độc tài, nghèo đói,lạc
hậu.(Không cần xử dụng bạo lực tiêu diệt
chủ nghĩa cộng sản và chế độ cộng sản Bắc Việt).
Trên
thực tế, trong suốt 21 năm vừa phải chiến đấu chống cộng sản Bắc Việt xâm lược,
vừa xây dựng chế độ dân chủ pháp trị ở
Miền Nam, hàng ngũ lãnh đạo Việt quốc đã tạo ra nhiều sự kiện và biến cố lịch
sử làm suy yếu nội lực, bị lệ thuộc ngoại bang, mất độc lập tự chủ trong việc
thực hiện các nhiệm vụ lịch sử đã đề ra.
Thực tế và lịch sử
đã cho thấy, những người Việt quốc gia ở Miền Nam đã hoàn toàn thất bại trong
việc thực hiện hai nhiệm vụ lịch sử nói trên (dựng nước và giữ nước), mặc dầu có chính nghĩa và có nhiều điều kiện chủ quan
cũng như khách quan thuận lợi trong quá khứ.Vì vậy trách nhiệm lịch sử trước
hết thuộc về những người lãnh đạo cao nhất trong chế độ Việt Nam Cộng
Hòa như Ngô Đình Diệm (Đệ nhất Cộng Hòa), Nguyễn Văn Thiệu,Nguyễn Khánh,
Trần Văn Hương, Dương Văn Minh ( Đệ nhị
Cộng Hòa)…Kế đó cũng phải chia xẻ một phần trách nhiệm trước lịch sử là
những người lãnh đạo hàng đầu khác có trách nhiệm trong các ngành lập pháp,
hành pháp,tư pháp, dân sự cũng như quân sự các cấp, từ trung ương đến địa
phương trong hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa.
Như vậy, nếu nói về tầng lớp chịu trách
nhiệm trước lịch sử trong giai đoạn lịch sử vừa qua (từ 1954-1975 và sau đó); hoặc nói rõ hơn là trách nhiệm về sự suy
tàn của Quê hương hiện nay, chắc chắn không phải là “Tầng lớp trí thức khoa bảng” hay “trí thức phổ quát”
như đã lập luận ở trên.
Bởi
vì, trong lịch sử chưa bao giờ tầng lớp trí thức được chính thức coi là giai
cấp nắm quyền lãnh đạo Đất nước. Tất cả chỉ được giai cấp cầm quyền đào tạo thành
những công cụ tri thức phục vụ cho các cấp, các ngành trong guồng máy công
quyền quốc gia.Chẳng hạn như dưới thời quân chủ ở nước ta, giới trí thức có
học vị như Trạng nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa hầu hết được xử dụng trong quan
trường; hay Tiến sĩ, cử nhân, luật sư, Bác sĩ, kỹ sư…thời sau này được giai cấp
cầm quyền bổ nhiệm vào các chức vị chính trị, hành chánh trong guồng máy công
quyền quốc gia.
Thật vậy, tầng lớp trí thức trong giai đoạn lịch sử này ở
Miền Bắc chính thức cũng không phải là giai cấp nắm quyền lãnh đạo tối cao,
mà chỉ được Đảng và chế độ độc tài đảng trị xử dụng như những công cụ tri thức
trong guồng máy độc tài đảng trị. Bởi vì,trong chế độ này lúc bấy giờ và cho
đến nhiều năm thời kỳ sau này, ngoài những người thuộc giai cấp công nhân thật
(rất ít) hay những người được coi là
mang tính giai cấp công nhân (vô sản)
do đã “đầu hàng
giai cấp công nhân” theo lý luận (cũng không nhiều), còn lại các giai cấp khác trong xã hội đều bị
coi là đối tượng “Phải cải tạo”.
Trong đó, tầng lớp trí thức bị quy kết thành phần là “Trí thức tiểu tư sản” cũng chịu sự
cải tạo như giai cấp địa chủ, tư sản công, thương nghiệp tư bản tư doanh.
Một số ít thuộc tầng lớp “trí thức tiểu tư sản” chỉ được bước vào
hàng ngũ giai cấp thống trị (đảng Cộng sản Việt Nam) sau khi được học tập cải
tạo, chịu “đầu
hàng giai cấp vô sản” theo lý luận và thực tế nhất nhất phải hành
động theo lệnh và dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN (Đảng của giai cấp công nhân mà !?!).Nghĩa là chỉ biết vâng lệnh và
phục tùng “Bác và Đảng” nếu muốn sống,
tồn tại, không bị hủy diệt (bằng chê độ
hộ khẩu, tem phiếu, cải tạo, nhà tù, pháp trường…).
Vì vậy trách nhiệm của tầng lớp trí thức (vốn được đào tạo trước đây trong thời
kỳ thực dân phong kiến) trước lịch sử trong giai đoạn này chỉ có thể là chẳng đặng đừng đã phải đem
tim óc, chất xám phục vụ cho một tập đoàn thống trị (Đảng CSVN) thực hiện chủ nghĩa cộng
sản ngoại lai, phi dân tộc trên đất nước ta.
Một cách cụ thể là họ đã bị Đảng và nhà cầm
quyền Cộng sản Bắc Việt xử dụng như những công cụ tri thức thực hiện các chủ
trương, đường lối,chính sách xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa ở Miền
Bắc và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, gây tang thương, chết
chóc cho hàng triệu sinh linh, làm phân hóa dân tộc, tàn phá tan hoang đất
nước.Để rồi sau khi cưỡng đoạt được Miền Nam vào ngày 30-4-1975 đảng CSVN tiếp
tục thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa trên cả nước, gây kinh hoàng cho nhân dân
Miền Nam, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho dân tộc
và đất nước.
Trong khi đó tại Miền Nam, nếu nói về tầng lớp lãnh đạo thời
Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trong giai đoạn này (1954-1963)
thì hầu hết đều xuất thân từ hàng ngũ quan lại Triều đình hay công chức trong
guồng máy hành chánh, hay sĩ quan binh lính trong quân đội của chế độ thực dân
Pháp.Qua thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa hầu hết các tướng tá nắm quyền cũng đều
được đào tạo từ lò quân đội Liên Hiệp Pháp, dù có được Mỹ cho tu nghiệp vẫn
không gột hết được tính lệ thuộc, nô lệ ngoại bang. Nếu có lúc chính quyền quân
đội cách mạng được dân sự hóa theo đòi hỏi của nhân dân và áp lực của ngoại bang, một số nhà trí thức khoa
bảng hay trí thức phổ quát có mặt trong hàng ngũ lãnh đạo này, thì thực quyền
cũng vẫn nằm trong tay các tướng tá đã làm cuộc đảo chánh lật đổ “chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm”.
Thực tế cũng như thực chất các nhà trí
thức trước sau gì cũng chỉ được những kẻ nắm thực quyền, được ngoại bang tuyển
chọn, hổ trợ xử dụng học vị với những kiến thức chuyên môn của họ như những
công cụ tri thức mà thôi.
Và nếu như tại Miền Nam sau năm 1954 không
có những nhà trí thức làm công cụ nối giáo cho giặc như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ,
Kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, Luật sư Trịnh Đình Thảo và nhiều
nhà trí thức khác đã tham gia cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam vốn là những công cụ
quân sự và chính trị xâm lăng Miền Nam của cộng sàn Bắc Việt; hoặc những nhà
trí thức phổ quát đã tham gia phong trào thanh niên sinh viên học sinh chống
chính quyền quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, một chính quyền kế thừa quyền lực quốc
gia chính thống trong dòng sinh mệnh và lịch sử dân tộc ở Miền Nam Việt Nam,
sau khi Thực dân Pháp buộc phải trao trả độc lập cho Việt Nam vào năm 1954…thì
Việt Nam đâu đến nỗi suy đồi theo hướng ngày một tàn tạ như hôm nay.
Tựu
chung: những lãnh tụ hàng đầu của đảng CSVN và các cán bộ đảng viên CS nắm
quyền cai trị ở các cấp trong nhiều thập niên qua đã chết hay còn tại chức phải
chịu trách nhiệm chính trước lịch sử về sự suy đồi toàn diện của đất nước của
Quê Hương, Dân Tộc Việt nam hôm nay. Vì chính những cá
nhân và tập đoàn thống trị Việt cộng này đã có những hành động phá nước,làm cho
Quê hương ngày một suy đồi tàn tạ, nhất là đã tạo nguy cơ có thể làm mất nước
vào tay ngoại bang. Nhưng đồng thời, những nhà lãnh đạo hàng đầu cũng như các
cấp, các ngành của Việt quốc cũng phải
chịu một phần trách nhiệm trước lịch sử vì đã không làm tròn nhiệm vụ dựng nước
và giữ nước (Việt Nam Cộng Hòa), để cho Việt cộng phá nước và bán nước tạo tiền
đề có thể bị mất nước
Thế những, dẫu sao thì…
III/- TƯƠNG LAI VIỆT NAM CÓ
ĐÁNG BI QUAN LẰM KHÔNG?
Để kết luận bài này, chúng tôi có thể khẳng
định một niềm lạc quan tin tưởng khi nhìn về tương lai Việt Nam. Chúng tôi không nghĩ bi quan như
Ông Trịnh Sơn rằng: “Việt Nam đang đứng
trước cơn bão lớn của lịch sử, cơn bão đó sẽ xóa nước Việt Nam trước lịch
sử nhân loại”.
Trái lại,chúng tôi tin tưởng mãnh liệt rằng “Việt Nam đang đứng trước vận hội mới có
nhiều triển vọng tốt đẹp cho dân tộc”. Chính đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ đương quyền tại Việt Nam đang đứng
trước cơn bão lớn của lịch sử. Cơn bão lớn này “ sẽ xóa sạch chế độ độc tài toàn trị “Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” trước lịch sử nhân loại”.Sau đó và từ
đó Quê hương, Đất nước và Dân tộc Việt Nam sẽ phục hồi và phát triển đến một
tương lai ngày một tươi sáng hơn.
Một tương lai
trong đó nhân dân Việt Nam nhất định sẽ được sống ấm no, hạnh phúc dưới một chế
độ tự do dân chủ đích thực, trên một đất nước phát triển toàn diện đến giầu
mạnh và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại.Đó
không chỉ là niềm tin, mơ ước của bất cứ người Việt Nam yêu nước nào mà còn là
một thực tế đang ngày một được khẳng định. Vì:
-
Lịch sử Việt nam từ ngày dựng nước đến nay
đã chứng minh sức mạnh quật cường và sự trường tồn của giòng giống Lạc Hồng, đã đánh bại mọi cuộc xâm lăng quân sự, tư tưởng và
văn hóa của bất cứ kẻ thù ngoại bang nào. Vì vậy không có “Cơn bão lớn nào” có thể “xóa
nước Việt Nam trước lịch sử nhân loại” như Ông Trịnh Sơn bi quan lo ngại.Đó
là một tất yếu lịch sử.
-
Thực tế đã xác tín rằng chủ nghĩa Cộng sản
và các chế độ độc tài toàn trị cộng sản gọi là “Xã hội chủ nghĩa” hầu hết đều đã
cáo chung và sẽ bị hủy diệt tại Việt Nam nay mai.
Đó cũng là một tất yếu thực tiễn khi các tiền đề của sự cáo chung ấy đang từng
bước hội đủ.
-
Thực tại đất nước cho thấy rằng, những
nguyên nhân làm suy tàn quê hương đất nước đang bị triệt tiêu từng phần: đảng CSVN đang bị phân hóa đến cùng cực, chế độ
CHXHCNVN đã và đang bị tiêu vong tịnh tiến (các cán bộ đảng viên CSVN đã
được “cải tạo” từng bước và phần đông bị “tư sản và tư bản hóa, đã “phản tỉnh”
công khai hay còn dấu mặt…),dưới áp
lực của chiếu hướng mới không thể đảo ngược (tự do dân chủ tất thắng mọi hình thái độc tài phản dân chủ…) và sức mạnh đấu tranh đòi dân chủ dân sinh,
nhân quyền của nhân dân trong nước (hợp
pháp cũng như bất hợp pháp…) ngày
một gia tăng mức độ và cường độ, lại được sự hậu thuẫn của người Việt hải ngoại
và quốc tế.
Vì rằng
“một chế độ thiết lập bằng bạo lực, duy trì bằng bạo lực thì
sớm muộn cũng sẽ bị sụp đổ do tự bản chất và do sức mạnh vùng lên của những con
người bị áp bức bóc lột…”(Trích Tuyên Ngôn
của Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam 1977 do người viết khởi thảo)
Vậy thì, Ông
Trịnh Sơn và tất cả những ai còn quan tâm đến tương lại Quê hương Đất nước,
vận mạng Dân tộc, xin hãy tự hỏi: mình
đã làm gì và còn có thể làm được gì để góp phần vào cuộc đấu tranh chung cho
một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn, không bị tàn lụi. Đó là một tương lai
chắc chắn sẽ đến với Việt Nam,
vấn đề chỉ còn là thời gian sớm hay muộn mà thôi.
Thiện
Ý
Houston, tháng 11 năm 1996
Hiệu đính lại cuối
tháng 4 năm 2013.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.