Thursday, March 10, 2016

Nhận định: VÌ SAO DỰ LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM BỊ CHỐNG ĐỐI ?



Nhận định:
VÌ SAO  DỰ LUẬT  VỀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO  Ở VIỆT NAM BỊ CHỐNG ĐỐI ?

Thiện Ý

    Tháng tư năm nay, chính phủ Việt Nam công bố Dự thảo 4 của Luật tín ngưỡng,tôn giáo khiến một số cộng đoàn các tôn giáo trong nước lên tiếng phản đối.
     Một nhóm các tổ chức xã hội dân sự cùng các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế  cũng ra Tuyên bố chung phản đối Dự thảo Luật tín ngưỡng,tôn giáo được đưa ra thảo luận tại Quốc hội Việt Nam từ hôm 6-11-2015.Bản Tuyên bố với chữ ký của 27 tổ chức trong đó có Hội Ân xá Quốc tế đã nêu rõ các quan ngại về nội dung Dự thảo 5 của Luật tín ngưỡng,tôn giáo lưu hành từ tháng 9 năm nay.Câu hỏi được đặt ra là vì sao Dự thảo luật tín ngưỡng,tôn Giáo này gây quan ngại và bị chống đối?
      Sau khi đọc toàn văn Dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo, gồm XI Chương, 11 Mục và 68 Điều, chúng tôi, một người có tôn giáo cảm thấy ngột ngạt khó thở vì đã quen sống  trong bầu không khí tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975 và nay đang sống trong một nước dân chủ bậc nhất thế giới như Hoa Kỳ này. Bởi vì đọc qua Dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, các Chương, Mục, Điều khoản nào cũng thấy các nút mở, rồi kèm ngay các nút cột, nút chặn, nút thắt quá chặt chẽ  về mặt pháp lý, đối với một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của con người: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; một quyền tự nhiên như hơi thở với không khí.
     Nhận xét chung về mặt hình thức Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo so với Pháp lệnh tín ngưỡng,tôn giáo số 21/2004/UBTVQH-K11 được áp dụng bao lâu nay tại Việt Nam, thì có tiến bộ hơn theo nghĩa đúng văn thức, bố cục của một Đạo luật, qui định đầy đủ các quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo (Từ Điều 1 đến Điều 6 Chương I : Những qui định chung), nhưng lại thắt chặt khi thực thi các quyền tự do này trên thực tế , với nhiều Điều, Khoản trong các Chương Mục kế tiếp.Có lẽ vì vậy mà  Quốc Hội của đảng CSVN đã dùng tiêu đề “Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo”, tránh không dùng tiêu đề “Dự luật tự do tín ngưỡng, tôn giáo”, (vì vẫn chưa coi là một quyền tự do của nhân dân). Nhưng xét về nội dung Dự luật thì phản tiến bộ, không phù hợp chiều hướng không thể đảo ngược tại Việt Nam (dân chủ hóa), vì cốt lõi vẫn duy trì chủ trương của đảng CSVN coi tôn giáo là một đối tượng phải đề phòng, nhất là những tôn giáo có tính tổ chức hệ thống, cơ cấu cao và niềm tin sắt son gắn bó giữa các tín đồ với tinh thần kỷ luật tự giác cao,dưới sự lãnh đạo có hệ thống quốc tế và quốc nội, của hàng giáo phẩm. Vì tính chất này mà Dự luật tín ngưỡng, tôn giáo chỉ có ít những điều khoản qui định về quyền tự do tín ngưỡng (6 Điều trong Chương II: Hoạt động tín ngưỡng) có tính chiếu lệ đối với quyền tự do tín ngưỡng (niềm tin cá nhân hay tập thế không có tính tổ chức cơ cấu); còn hầu hết các điếu khoản của Dự thảo luật qui định cho quyền tự do tôn giáo (Chương III: Đăng ký hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,Chương IV: Tổ Chức tôn giáo; Chương V: Hoạt động tôn giáo; Chương VI: Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo; Chương VII: Hoạt động của cơ sở tín ngưỡng,tôn giáo…).
     Bởi đảng CSVN vẫn lo sợ tôn giáo là một hiểm họa,bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành nguy cơ, vì một lực lượng quần chúng tôn giáo đấu tranh có sức mạnh lật độ được chế độ. Vì vậy, do tình thế bắt buộc phải hội nhập với thế giới bên ngoài, các nghị quyết của đảng CSVN được thể chế hóa thành pháp luật (nghị luật) thông qua Quốc Hội “đảng cử, dân bầu”. Sau khi thành luật, nhà cầm quyền sử dụng như một công cụ pháp lý (cùng với hệ thống Tòa án, nhà tù…) của giai cấp thống trị để kiểm soát chặt chẽ, trấn áp kịp thời mọi sự phản kháng của các tôn giáo bằng pháp luật (chế độ pháp quyền); trái với vai trò của luật pháp trong chế độ dân chủ pháp trị, là thể hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cần được luật pháp (do một Quốc hội của dân do dân và vì dân) qui định và nhà cầm quyền phải tôn trọng, bảo vệ quyền tự do giữ đạo, hành đạo của các giáo hội và các tín đồ ( chế độ pháp trị).
     Thật vậy, để thực hiện chủ trương và ý đồ trên, Dự luật Tín ngưỡng, Tôn giáo vẫn không tôn trọng quyền độc lập tự chủ của các giáo  hội và các tín đồ; can thiệp sâu rộng vào cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành và các hoạt động tín ngưỡng của các giáo hội và tín đồ các tôn giáo (Chương III: Đăng ký sinh hoạt tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Từ Điều 13 đến Điều 17); cái gì cũng phải xin phép, phải làm theo qui định,có được cơ quan đặc trách về tôn giáo các cấp có thẩm quyền từ trung ương đến các địa phương,cho phép mới được thực hiện (Chương X: Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, từ điều 58 đến 65).Ngoài sự kềm kẹp của các cơ quan chính quyền chuyên trách về tín ngưỡng, tôn giáo, còn phải chịu sự giám sát của “Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam”, vốn là tổ chức ngoại vi của đảng CSVN (Điều 61).Sự thể này cho thấy tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam không còn là một quyền tự do của nhân dân mà là một ân huệ của nhà cầm quyền ban cho những tín đồ và các Giáo hội nào ngoan ngoãn tuân phục chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của đảng CSVN và Nhà nước.
     Chẳng hạn, việc mở trường lớp, chương trình học  tập, kết quả đào tạo, lý lịch các chức sắc tôn giáo phải được nhà cầm quyền thông qua đầu vào, đầu ra (Các Điều 22, 23, 24). Việc phong chức,bổ nhiệm hàng giáo phẩm của các giáo hội trong nước hay có liên hệ đến nước ngoài, đều phải được phép trước của nhà cầm quyền (Từ Điều 32 đến Điều 42 thuộc Chương V: Hoạt động tôn giáo)
     Đúng như nhận xét sau chuyến đi Việt Nam tìm hiểu thực tế hồi tháng 7 năm 2014 của Ông Heiner Bielefeldt,  Báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về Tự do Tôn giáo và Tín ngưỡng, rằng quyền tự quản của các tổ chức tôn giáo độc lập không được nhà nước công nhận tại Việt Nam vẫn bị hạn chế; và rằng sinh hoạt đạo giáo của họ không được an toàn, thường xuyên bị sách nhiễu, đe dọa.Đồng thời cũng đúng như Bản Tuyên bố với chữ ký của 27 tổ chức bao gồm Hội Ân xá Quốc tế đã nêu rõ các quan ngại về nội dung dự luật này đi ngược lại với quyền tự do tôn giáo của công dân với các hạn chế vượt mức cho phép của các luật nhân quyền mà Việt Nam có nghĩa vụ phải tuân thủ.
     Vậy đảng và nhà cầm quyền CSVN cần phải làm gì để Dự thảo luật tín ngưỡng, tôn giáo không còn bị chống đối?
    Theo nhận định của chúng tôi thì:
     1.- Đảng CSVN cần thay đổi cách nhìn đối với tôn giáo theo hướng tích cực ( một quyền tự do,vì hạnh phúc của nhân dân, góp phần vào nền đạo đức xã hội) (1) và để cho Quốc Hội Việt Nam làm luật tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng tôn trọng, bảo vệ và tự do hành xử quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, thay vì coi tôn giáo là đối tượng phải đề phòng, mà tiếp tục chủ trương dùng luật pháp như công cụ trấn áp tôn giáo, để bảo vệ sự tồn tại thêm thời gian cho đảng CSVN và chế độ đương quyền.
     Theo đó, luật chỉ nên qui định những gì đặc thù của tín ngưỡng, tôn giáo, còn lại áp dụng các luật lệ phổ thông theo từng lãnh vực liên quan đến đời sống, sinh hoạt các thể nhân (các công dân tín đồ) và pháp nhân (Các giáo hội). Nghĩa là Luật cần tạo được sự an toàn, an tâm, thoải mái sống và sinh hoạt theo tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo của các tín đồ và quyền độc lập tự chủ của các giáo hội trong việc tổ chức cơ cấu, nhân sự điều hành và quyền tự do hành đạo và truyền đạo trong khuôn khổ luật pháp quốc gia được áp dụng chung cho mọi công dân bình thường, có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo, thuộc mọi giai tầng xã hội, sắc tộc, miễn không phương hại đến quyền lợi người khác và trật tự an toàn xã hội.
     Nếu thực hiện theo hướng trên, nhân dân có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ thoát khỏi nỗi sợ hãi nhà nước khi có những sinh hoạt thể hiện niềm tin của mình. Đồng thời nhà nước tiết kiệm được ngân sách phải chi tiêu cho quá nhiều các cơ quan, nhân sự các cấp chính quyền chỉ để làm công việc quản lý, giám sát, trấn áp tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
     2.- Quốc hội Việt Nam, với tinh thần cầu thị, cần tham khảo ý kiến rộng rãi trong giới tín đồ và các giáo hội, để biết hình thức, nội dung Luật tín ngưỡng, tôn giáo phải thế nào mới đáp ứng được  ý muốn của nhân dân.
     Nhân đây xin được nhắc lại một “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín ngưỡng, Tôn giáo tại Việt Nam” do đại biểu Quốc Hội khóa 8 Phan Khắc Từ đệ nạp văn phòng thường vụ Quốc Hội, vào khoảng năm 1990-1991. Trong thời gian này, được mời làm cố vấn pháp luật riêng cho vị Đại biểu Quốc hội này , chúng tôi đã được ủy thác khởi thảo Dự thảo luật này. Sau ba lần mời họp lấy ý kiến đóng góp của khoảng 20 luật gia, luật sư thân hữu trong đó có cố Giáo sư Tiến Sĩ Vũ Tâm Tư, nguyên Giáo sư Đại Học Luật Khoa Saigon,và sự tham khảo trong chốn riêng tư với một số chức sắc các tôn giáo quen biết, chúng tôi đã đúc kết thành “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam” , để sau đó Đại biểu Phan Khắc Từ đệ trình Quốc Hội (2).
     Tất nhiên, vào thời khoảng 1990-1991, đảng CSVN mới chuyển đổi từ chủ trương “Nghị trị” (cai trị bằng nghị quyết của đảng CSVN) qua “Pháp quyền” (cai trị bằng luật pháp được Quốc Hội thể chế hóa từ các ngị quyết của đảng CSVN), nên “Dự thảo Luật Sinh hoạt Tín ngưỡng, Tôn giáo tại Việt Nam” này còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, quyền độc lập tự chủ của các Giáo Hội và quyền tự do sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ đã được xác lập tương đối đầy đủ trong Dự thảo luật nay. Chúng tôi nghĩ, các Đại biểu Quốc hội hiện nay có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi làm Luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam./.
Thiện Ý.
Houston, ngày 15 -12-2015

GHI CHÚ:
(1) Trong Tuyên Ngôn của Mặt Trân Nhân Quyền Việt Nam năm 1977 do chúng tôi khởi thảo, đã nêu rõ giá trị tích cực của tôn giáo, rằng “Tôn giáo là một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, không mang tính chất mê hoặc mà góp phần vào nền đạo đức xã hội. Bởi v,ì nột xã hội có tôn giáo, hữu thần mà tội ác còn gia tăng, thì một xã hội phi thần linh tội ác  phải gia tăng nhiều hơn nữa…”
(2) Dự thảo Luật Sinh Hoạt Tín Ngưỡng, Tôn Giáo Tại Việt Nam được Đại biều PKT nạp cho Văn phòng Ủy Ban Thương Vụ Quốc Hội Khóa 8, đã không được hồi báo. Sau gần một năm, phái đoàn Văn Phòng Thường Vụ Quốc Hội, trong chuyến đi thăm lấy ý kiến trước khóa họp thường kỳ, có đến văn phòng Đại biểu Quốc hội PKT. Nhân dịp này, chúng tôi có phàn nàn là dù có đưa Dự thảo luật do Đại biều PKT đệ nạp hay không vào chương trình làm luật của Quốc Hội, cũng phải có văn thư  chính thức trả lời cho biết đã nhận và có đưa vào nghị trình khóa họp nào Quốc hội hay không. Chúng tôi cho rằng sự im lặng này sẽ có tác dụng tiêu cực đối với các Đại biểu có thiện chí muốn đóng góp tích cực vào công cuộc soạn thảo pháp luật.  Tất nhiên, vị Trưởng đoàn lúc đó đã đáp lại bằng sự ghi nhận, rút kinh ngiệm…

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.