Wednesday, November 16, 2011

Tham luận: Phải quan niệm và gọi nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam thế nào cho đúng thực chất và thực tế?

Tham luận:
PHẢI QUAN NIỆM VÀ GỌI NHÀ CẦM QUYỀN TRONG CHẾ ĐỘ ĐƯƠNG THỜI TẠI VIỆT NAM THẾ NÀO CHO ĐÚNG THỰC CHẤT VÀ THỰC TẾ?

Thiện Ý

·      Đôi điều trước khi vào bài:
        Sau khi Bác sĩ cho biết căn bệnh của chúng tôi đã phát triển đến thời kỳ tiền ung thư cần phải trị liệu tích cực. Trong thời gian trị liệu (khoảng 48 tuần lễ - một năm) cơ thể  có thể có biến chứng làm xáo trộn tâm sinh lý và cần phải nghỉ ngơi hoàn toàn. Chúng tôi dự trù trước khi đi vào trị liệu, sẽ viết loạt bài cuối cùng rồi tạm biệt độc giả thân hữu và đồng hương. Chúng tôi đang viết một trong những bài cuối cùng theo dự hoạch thì nhận được thư email của một đồng môn Luật khoa Sàigòn nội dung như sau:
   Anh Thang,   Song song vơi bai vo Anh gởi cho toi đoc, toi cung nhan đuoc bai cua NG.Q.Duy tư Uc.Toi khong ro NQD co thuoc goc nguon LKVN không.Nhưng toi thay ca hai anh va nhieu nhan vat khac trong CDVN đeu co tu tưong uyen bac va biet lo cho TuDoDanChu cua VN.   TOI AO UOC :phai chi tat ca cac Anh hop tac voi nhau thanh mot khoi Tri Thuc Lanh Dao thi nhung bai viet se co hieu qua manh me,rong rai hon.Toi chua chuyen cam nghi nay cua toi den NG.Q.D.Ke ra thi viec nay qua kho khan.Bang chung la cai vu 30 Tri Thuc (trong do co O.Thay VQT cua chung ta)da bi LXK lua bip,loi dung.Nhung truoc het xin hoi Anh nghi the nao?......CHNG”
       
        Để trả lời câu hỏi cuối thư “Anh nghĩ thế nào?” về “cái vu 30 Tri Thuc (trong do co O.Thay VQT cua chung ta)…”, mặc dầu đã có câu trả lời trong một phần bài viết “Vì lợi ích chống cộng, người Việt quốc gia đừng đánh người Việt quốc gia nữa”, nay chúng tôi cũng viết thêm bài tham luận này, sau khi nhận được thư email trên của một đồng môn Luật khoa Sàigon (biết nhau qua email, nhưng chưa một lần gặp mặt) và được đọc các bài tham luận của Luật sư Trần Thanh Hiệp (có quen biết trước đây), Luật sư Lưu Nguyễn Đạt (Chỉ nghe danh), là những bậc thầy  và các bài biện luận của Giáo sư Vũ Quốc Thúc,  một vị Khoa Trưởng và là một người Thầy khả kính của nhiều thế hệ sinh viên Đại học Luật khoa Sàigòn,là một trong (36-1) nhà trí thức Việt Nam ở hải ngoại đã viết thư ngỏ gửi cho các nhà lãnh đạo đảng cầm quyền và nhà nước trong chế độ đương thời tại Việt Nam. Một bức thư đã gây tranh luận, đúng ra là bị đả kích khá gay gắt, qua các bài viết đôi khi có những ngôn ngữ nặng nề, thiếu văn hóa, có tính lăng mạ, xúc phạm đến nhân cách và nhân phẩm của các vị đồng ký tên trong thư ngỏ này mà lý ra không đáng bị xúc phạm đến như vậy. Đây chính là lý do chúng tôi đã viết bài “Vì lợi ích chống cộng, người Việt quốc gia đừng đánh người Việt quốc gia nữa”.
          Thực ra, nội dung Thư Ngỏ chỉ nói lên những vấn nạn nghiêm trọng của Đất nước về đối nội cũng như đối ngoại không chỉ giới trí thức Việt Nam quan tâm mà mọi giới quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước đều quan tâm và có bổn phận phải nói lên, cách này hay cách khác, mối quan tâm này với những người lãnh đạo đảng cầm quyền và nhà nước trong chế độ đương thời, có trách nhiệm phải giải quyết.
         Tuy nhiên, lý do bị đả kích chỉ là vì cách thức gửi Thư Ngỏ, đã gửi cho những danh vị lãnh đạo một chính quyền trong một chế độ độc tài đảng trị mà Người Việt Quốc Gia chống cộng từ bao lâu nay không thừa nhận tính chính thống,chính nghĩa, chính đáng, chính danh và hợp pháp trên bình diện pháp lý cũng như thực tế,  đối với quốc dân Việt Nam. Cách thức gửi như thế bị những người chống đối coi là mặc nhiên thừa nhận tính chính danh, hợp pháp của chính quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam, mà người Việt Quốc gia chống cộng bao lâu nay đấu tranh nhằm phủ định nó.
      Bài tham luận này nhằm góp phần làm sáng tỏ tư cách và danh nghĩa nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam. Bài viết lần lượt trình bầy:
-       Nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam có chính thống, chính nghĩa, chính đáng, hợp pháp và chính danh  không?
-       Phải quan niệm và gọi nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại việt nam như thế nào cho đúng thực chất và thực tế?
-       Thư ngỏ của (36-1) nhà trí thức Việt Nam ở hải ngoại có thể biện minh trên cơ sở nào?
* Kết luận.
I/-NHÀ CẦM QUYỀN TRONG CHẾ ĐỘ ĐƯƠNG THỜI TẠI VIỆT NAM CÓ CHÍNH THỐNG, CHÍNH NGHĨA, CHÍNH ĐÁNG, HỢP PHÁP VÀ CHÍNH DANH KHÔNG?
      
       Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tra cứu để tìm hiểu thấu đáo ý nghĩa các từ ngữ qua các tự điển:Hán-Việt của cố học giả Đào Duy Anh do một nhà xuất bản tại Sàigon in lại năm 1996, Anh-Việt Việt-Anh của Gs. Nguyễn Văn Khôn do Đainamco ở Hoa Kỳ ấn hành năm 1987, Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học(VNNH) thuôc Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia do một nhà xuất bản tại Sàigòn ấn hành năm 2002 và The Oxford Modern English Dictionary (OMDE) Tự điển Anh-Việt do Nguyễn Văn Sanh và các cộng tác viên biên soạn, do một nhà xuất bản tại Hà Nội ấn hành năm 2000.
           Đồng thời chúng tôi cũng tham khảo hai bài viết của các luật sư Trần Thanh Hiệp và Lưu nguyễn Đạt, các thư biện minh của Gs. Vũ Quốc Thúc. Sau đó đối chiếu, suy luận về mặt ý nghĩa từ ngữ, dẫn chứng thực tế và lịch sử để có câu trả lời cho câu hỏi:Nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam có chính thống, chính nghĩa, chính đáng,chính danh và hợp pháp hay không?

1.- Có chính thống ?
    Chính là phải, ngay thẳng, hợp lệ, hợp pháp, chính đáng (right, just, legitimacy, legality). Chính thống là dòng chính của nhà vua hay môn học hay dòng chính của sự kế thừa (Orthodox: the main line of succession).Tỷ như Chính Thống giáo (Orthodox Church), tự tách ra khỏi giáo hội Công Giáo (Catholic Church), một Giáo Hội do Đấng Cứu Thế thành lập trước khi về Trời theo giáo sử. Vì họ cho rằng giáo phái mình là chính thống so với phái Công Giáo và Tin Lành, vì kế thừa trung thực các nghi thức tế lễ theo đúng truyền thống của giáo hội Thiên Chúa giáo tiên khởi .
        Theo ý nghĩa kết hợp từ ngữ này, nhà cầm quyền trong chế độ đường thời tại Việt Nam KHÔNG chính thống. Vì:
- Nó không hội đủ các yếu tính theo ý nghĩa từ ngữ.
- Thực tế Nó không kế thừa và tiếp nối quyền bính chính trị (Political power) một cách cách ngay thẳng và thích đáng theo truyền thống lịch sử dân tộc, mà là cướp đoạt và áp đặt quyền bính chính trị theo phương cách ngoại lai, để cướp chính quyền của cộng sản quốc tế(bạo lực cách mạng vô sản), tách khỏi và chống lại chính quyền chính thống quốc gia kế thừa và tiếp nối quyền bính chính trị theo truyền thống lịch sử dân tộc (Chính quyền chính thống Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa- hội đủ các yếu tính theo ý nghĩa từ ngữ)
2.- Có chính nghĩa ?
     chính nghĩa (justices, orthodox principle, just, righteous cause) có đạo lý chính đáng, là công đạo. Nghĩa là chính nghĩa phải hội đủ tính chính thống, chính đáng, chính danh và hợp pháp.Theo ý nghĩa kết hợp từ ngữ này, nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam hiện nay KHÔNG có chính nghĩa. Vì:
- Nó không hội đủ các yếu tính trên theo ý nghĩa từ ngữ.
- Thực tế chính quyền ấy đã không chính thống,không chính đáng, không chính danh, không hợp pháp, thì không thể có chính nghĩa.  Vì trước sau Nó  đã không thực hiện công đạo đối với quốc gia, dân tộc và  đạo lý đối với nhân dân, là phải hành xử quyền bính chính trị đối nội cũng như đội ngoại như là một công bộc lương hảo, ăn lương của dân, hành xử quyền bình phục vụ nhân dân,để thành đạt lợi ích tối thượng cho đất nước, dân tộc, vì hạnh phúc thực sự của nhân nhân.
        Nói cách khác, đó là một chính quyền trong một chế độ phản dân chủ, phản dân tộc và phản dân hại nước, không đáp ứng được mọi ước nguyện chính đáng của nhân dân nên bị coi là phi chính nghĩa (injustices), không được nhân dân ủng hộ, tự giác chấp nhận và tự nguyên chấp hành, nên phải luôn luôn dùng bạo lực (quân đội, công an) để trấn áp mọi sự phản kháng của nhân dân, buộc nhân dân phải tuân hành mọi mệnh lệnh, thực hiện mọi chủ trương chính sách của chính quyền, dù trái lòng dân, hại cho đất nước.
        Nó hoàn toàn trái ngược với chính quyền trong chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa trước đây, vừa chính thống,lại có chính nghĩa; cũng như cuộc đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước  tiếp nối 36 năm qua của người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nước, là có chính nghĩa. Vì có chính nghĩa, nên dù trong điều kiện tương quan lực lượng không cân sức với chính quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam, nhưng người Việt quốc gia vẫn kiên trì đấu tranh vì tin tưởng vào sự tất thắng của chính nghĩa đấu tranh: chính nghĩa tất thắng phi nghĩa ((Justice triumphs over injustice)
        Nó phi chính nghĩa, vì trước sau chính quyền trong chế độ hiện nay, chỉ phục vụ cho lợi ích của một tập đoàn thống trị độc quyền (đảng Cộng sản Việt Nam) với một chính quyền chuyên chế (chuyên chính hay độc tài vô sản) trong một chế độ độc tài toàn trị (xã hội chủ nghĩa ngụy nghĩa)phi dân tộc, phản dân chủ, chỉ biết cấu kết và phục vụ lợi ích ăn chia với ngoại bang (với Nga, Tầu và quốc tế  cộng sản trong thời kỳ chiến tranh ý thức hệ; với  tư bản nước ngoài thời hậu Chiến Ttranh lạnh, thời kỳ mở cửa cho đến hôm nay…); sẵn sàng hy sinh quyền lợi đất nước, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân cho những lợi ích trên (Cắt đất nhượng biền, hợp đồng khai thác rừng đầu nguôn, Beauxit với Tầu cộng, nhận hối lộ ký các hợp đồng đầu tư với tư bản nước ngoài bất lợi cho quốc gia về an ninh quốc phòng cũng như về kinh tế…)
3.- Có chính đáng ?
    Chính đáng (righteous,rightful,legitimate,honest,fair,duty,legit…)là đúng đắn không trái lẽ, trái luân thường đạo lý, trái luật, trái ý dân trong một chế độ dân chủ pháp trị…. Theo ý nghĩa kết hợp từ ngữ này, nhà cầm quyền trong chế độ hiện nay tại Việt Nam KHÔNG chính đáng. Vì
   - Nó không hội đủ các yếu tính trên theo ý nghĩa từ ngữ.
   - Trên thực tế, sự tiếm quyền bính chính trị và hành xử chính quyền ấy không có tính chính thống, không chính nghĩa,không chính đáng, không hợp pháp,và không chính danh. Do đó, chính quyền ấy trước sau vẫn không đáp ứng được những nguyện vọng chính đáng (legitimate aspirations) của nhân dân (độc lập dân tộc,dân chủ, dân quyền,dân giầu, nước mạnh, dân sinh hạnh phúc…), không bảo vệ được các quyền lợi  tối thượng của đất nước và dân tộc trước họa ngoại xâm: xâm lấn lãnh thổ, xâm thực kinh tế của ngoại bang và không làm cho đất nước phát triển toàn diện đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại.
4.- Có hợp pháp ?
    Hợp pháp là thích đáng với pháp luật(legal,legality, Legitimate,lawful), là hành động phù hợp với pháp luật (a lawful act)… Theo ý nghĩa kết hợp từ ngữ này, nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam KHÔNG hợp pháp. Vì
- Nó không hội đủ các yếu tính theo ý nghĩa từ ngữ.
- Trên thực tế, chính quyền ấy đã chiếm quyền bằng bạo lực,duy trì bằng bạo lực, vi phạm luật pháp quốc tế (vi phạm Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp định Paris 1973 ) khi xua quân cưỡng chiếm Miền Nam, vùng đất thuộc chính quyền chính thống Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Sau đó không phải do dân mà có, từ dân mà ra, mà dùng bạo lực áp đặt và duy trì một chính quyền trong một chế độ chính trị trái với ý muốn của toàn dân (chế độ Xã hội Chủ nghĩa nguy nghĩa). Trong khi cả hai Hiệp Định vừa kể đều qui định rõ việc thống nhất đất nước phải diễn ra một cách hòa bình, không bên nào được dùng võ lực thôn tính bên nào.
(Hiệp định Geneve 20-7-1954: Thống nhất đất nước trong một chế độ chính trị thông qua Tổ chức Tổng tuyển cử, quốc gia nào được lòng dân bằng các cuộc cải cách sáng suốt và cấp tiến sẽ có hy vọng tồn tại
(Hiệp Định Paris 27-1-1973: Điều 15:Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngòai. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
         Trong khi chờ đợi thống nhất:
   a) Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ thuyến thứ mười bẩy chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lãnh thổ, như quy định trong đọan 6 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm một nghìn chín trăm năm mươi tư.
   b) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽ tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời.
   c) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt. Trong các vấn đề sẽ được thương lượng, có vấn đề thể thức đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời.
   d) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ngòai có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự trên đất mình, như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một nghìn chínm trăm năm mươi tư về Việt Nam quy định.”
     Mặc dầu sự tiếm quyền bằng hành động vi phạm trắng trợn các Hiệp ước có bảo đảm quốc tế như vậy, nhưng quốc tế làm ngơ, Hoa Kỳ phủi tay, để cho một chính quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam tiếm quyền bất hợp pháp tồn tại 36 năm qua, và mặc nhiên hợp thức hóa sau khi thâu nhân Quốc gia Việt Nam có chế đô này vào Tổ Chức Liên Hiệp Quốc.
      Và như thế chính quyền trong chế độ hiện nay tại Việt Nam đúng ra phải bị coi là bất hợp pháp trên bình diện pháp lý đối với quốc dân Việt Nam cũng như trước cộng đồng thế giới. Thế nhưng thực tế lại được coi là hợp pháp theo quốc tế công pháp. Vì sao lại có sự nghịc lý, bất công  này? Vì quốc tế là ai, Luật pháp quốc tế do ai, của ai và vì ai?
        Câu trả lời ngắn gọn: Quốc tế cụ thể là những cường quốc cực  hợp thành trung tâm quyền lực thế giới có sức khuynh đảo và định hướng phát triển thế giới trong mọi thời đại. Luật pháp quốc tế do Họ làm ra, của Họ nên có toàn quyền giải thích luật pháp, vận dụng vào thực tiễn theo ý chí chủ quan của Họ, vì quyền lợi trước hết cho chính Họ.
5.- Có chính danh ?
    Theo tự điển Hán-Việt của học giả Đào Duy Anh,Chính danh là “một nguyên tắc về chính trị, gốc ở Khổng Tử, ví như gọi là vua thì phải đúng đạo vua, gọi là quan thì đúng đạo quan…”.Còn theo tự điển Việt-Anh của Gs. Nguyễn Văn Khôn, chính danh dịch là “True name”, nghĩa là “tên thật” khác “tên giả” hay ngụy danh (false name).Trong khi tự  điển Việt-Anh của Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam thì không thấy dịch “Chính danh” mà chỉ dịch  từ “Chính” (main,just, right, righteous).Như vậy, theo thiển ý, Chính danh có thể hiểu theo ý nghĩa chính trị , hay ý nghĩa từ ngữ thông thường. Nói cách khác có thể hiểu “Chính danh” theo nghĩa đen, nghĩa hẹp hay nghĩa bóng, nghĩa rộng.
       -  Nếu hiểu theo ý nghĩa chính trị, hay nghĩa bóng, nghĩa rộng thì một chính quyền “Chính danh” phải hội đủ các yếu tính: Chính thống, chính nghĩa, chính đáng và hợp pháp.  Như khi Ls. Nguyễn Lưu Đạt chuyển dịch từ ngữ “chính danh” qua Pháp ngữ là “Légalité” (cũng có nghĩa là hợp pháp) đã lý giải “có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định
       - Nếu hiểu theo ý nghĩa từ ngữ thông thường hay nghĩa đen, nghĩa hẹp, thì “Chính danh” là tên thật (True name) trái với “ tên giả”(false name) hay ngụy danh của một cá nhân, một đoàn thể, một vật hay một sự vật. Nói theo ý nghĩa từ ngữ triết học, thì “Chính danh” là một thể  thống nhất giữa hiện tượng (phenomenon) bên ngoài và bản chất (essence, substance, nature) bên trong của sự vật.
         Theo ý nghĩa kết hợp từ ngữ này, nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam KHÔNG chính danh.
- Nó không hội đủ các yếu tính theo ý nghĩa của từ ngữ theo nghĩa bóng, nghĩa rộng cũng như nghĩa đen, nghĩa hẹp.
- Trên thực tế, theo nghĩa hẹp, nghĩa đen Nó đã không thực hiện đúng danh xưng “Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam”. Vì thực tế chủ quyền quốc gia không thuộc về toàn dân (như ý nghĩa từ ngữ Cộng hòa) mà thuộc về đảng cầm quyền độc tôn, độc quyền (ngụy danh Đảng Cộng sản Việt Nam).Việt Nam cũng không hề có một xã hội “Xã hội chủ nghĩa” hay phấn đấu thực hiện hình thái xã hội này theo đúng lý tưởng và lý luận của chủ nghĩa cộng sản (một xã hội không còn cảnh người bóc lột người, tuy còn giai cấp, nhưng mọi người sống với nhau trong tình hữu ái, mọi người lao động theo năng lực, hưởng thành qua theo sức lao động bỏ ra…).
         Thực tế là giai cấp cán bô đảng viên cộng sản (ngụy danh) đã gặt hái thành quả trên lưng người khác, độc quyền hưởng lợi trên sức lao động của nhân dân. Họ làm giầu, có nhiều của cải vật chất thực tế không phải do chính sức lao động của họ, mà do chức quyền, quyền uy đem lai. Như vậy là cả đảng độc quyền và chế độ độc tài đương thời đều không chính danh theo đúng ý nghĩa từ ngữ này. Chính vì vậy mà tiêu đề và trong cả bài viết này, chúng tôi đã viết các nhà lãnh đạo Đảng cầm quyền và nhà nước chế độ đương thời tại Việt Nam” mà không  viết“ Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam  và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Ngụy danh, ngụy nghĩa)
II/- PHẢI QUAN NIỆM VÀ GỌI NHÀ CẦM QUYỀN TRONG CHẾ ĐỘ ĐƯƠNG THỜI TẠI VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG THỰC CHẤT VÀ THỰC TẾ

1.-Từ  quan niệm (Conception, View, conceive,idea):
         Thực chất (real matter) nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam là một chính quyền công cụ cho một đảng cầm quyền độc tôn (đảng Cộng Sản Việt Nam ngụy danh) trong một chế độ độc tài toàn trị hay độc tài đảng trị (Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngụy nghĩa). Mọi hoạt động của guồng máy công quyền quốc gia đều được lãnh đạo và chi phối toàn diện bởi bộ máy đảng cầm quyền độc tôn, nhằm thành đạt lợi ích cho Đảng và bảo vệ các ưu quyền đặc lợi cho giai cấp thống trị là các cán bộ đảng viên.
         Nói cách khác,đó là một chính quyền “do Đảng, của Đảng và vì Đảng cầm quyền”, không phải là một chính quyền “do dân, của dân và vì dân”. Một chính quyền phản dân chủ hoàn toàn. Và do đó đã không hội đủ các tính chất cần có của một chính quyền chính thống, chính nghĩa, chính đáng, chính danh và hợp pháp trên bình diện pháp lý thuần tùy cũng như thực tế đối với quốc dân Việt Nam, mặc dầu trên thực tế, được quốc tế coi như là một chính quyền đại diện hợp pháp của quốc gia Việt Nam.
       Nhưng theo suy luận của chúng tôi chính quyền trong chế độ hiện nay chỉ ở thế hợp thức, hợp lệ hay hợp cách (regular government) theo công pháp quốc tế (Vì hội đủ các yếu tố cấu thành một quốc gia: lãnh thổ, dân cư và chính quyền), nên được coi là một chính quyền chính thức (official government) của quốc gia Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, nhưng không nhất thiết, không thể là một chính quyền hợp pháp (Legal government).
       Nói cách khác, tính hợp pháp (Legal,lawful, legitimate) của một chính quyền chỉ có được do nhân dân và chỉ có nhân dân quyết định tính hợp pháp căn cứ trên các yếu tính chính thống, chính nghĩa, chính đáng, chính danh (Thẩm quyền đối nội).Trong khi quốc tế chỉ xét xem chính quyền trong chế độ ấy có hội đủ yếu tố cấu thành một quốc gia, để được coi là có hợp lệ, hợp thức, hợp cách (regular, correct, in due form), có tư cách thay mặt cho một quốc gia, để được kết nạp vào các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc hay tổ chức khu vực như Hiệp Hội Các Quốc gia Đông Nam Á” (ASEAN)…
         Nghĩa là dường như quốc tế không quan tâm và cũng không coi tính hợp pháp hay không hợp pháp của một chính quyền (Legal Government or illegal Government) như điều kiện xét định tư cách của một quốc gia hội viên (Vì thuộc thẩm quyềnnhân dân và chủ quyền đối nội của quốc gia hội viên chăng?). Vì thế mà trong tổ chức LHQ, cũng như nhiều tổ chức quốc tế khác, đã có cả các quốc gia hội viên có chính quyền hợp pháp cũng như có chính quyền không hợp pháp (Độc tài các kiểu, chống lại và đàn áp nhân dân…) trong đó có chính quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam: Một chính quyền hợp lệ (Regular Government) chứ không phải là chính quyền hợp pháp (Legal Governmet) và được coi là chính quyền chính thức (Official government) của quốc gia Việt Nam.
      Nhìn lại lịch sử Việt Nam dưới thời Pháp thuộc đã từng tồn tại hai chính quyền: Chính quyền thuộc Triều Đình Huế với các Vua quan cai tri Việt Nam có thể coi là chính quyền hợp pháp (Legal Government) về đối nội, bên cạnh chính quyền bất hợp pháp (illegal government) với viên Toàn quyền và viên chức chính quyền bảo hộ Pháp, có thể coi là chính quyền hợp thức (regular Government) về đối ngoại, nên được coi là một chính quyền chính thức (official government) thay mặt cho quốc gia Việt Nam thời thuộc địa.
     Một giả định lịch sử, nếu sau ngày 30-4-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các nhà lãnh đạo hàng đầu các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp Việt Nam kịp di tản ra nước ngoài, có can đảm và viễn kiến, quy tụ thành lập “Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lưu vong(Government in exile) như chính phủ lưu vong Tây Tạng hiện nay, hay Chính Phủ lưu vong của Tướng De Gaulle  trong Đệ Nhị Thế Chiến, là một chính quyền hợp pháp ở hải ngoại, tồn tại song sóng với chính quyền bất hợp pháp trong nước Pháp của Thống chế Pétain do Phát xít Đức chiếm đóng dựng lên. . Với tư cách là một chính quyền hợp pháp trên bình diện pháp lý, hội đủ tính chính thống, chính nghĩa, chính đáng và chính danh, có quần chúng người Việt tỵ nạn, chỉ thiếu lãnh thổ, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa lưu vong sẽ trở thành đầu não lãnh đạo công cuộc chống cộng, có hệ thống, có sách lược chung thống nhất (chứ không phân tán đa đầu như hiện nay…) đấu tranh toàn diện để đòi lại chủ quyền lãnh thổ Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam trên căn bản Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973…Nếu làm được như vậy, thì công cuộc chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước đã hữu hiệu hơn nhiều,hay có thể đã tiến triển theo chiều hướng khác tốt đẹp hơn cho đất nước và dân tộc. Chẳng hạn, chúng ta có thể rút ngắn thời gian thành đạt mục tiêu tối hậu: dân chủ hóa đất nước mà thực tế cho đến nay đã 36 năm qua chúng ta vẫn chưa thành đạt (mới chỉ thành đạt mục tiêu “Diệt được cộng sản về mặt bản thể” như đã lý giải tổng quát ở phần trên, nhưng dân chủ hóa đất nước thì vẫn chưa đạtnên còn phải tiếp tục đấu tranh)
2.- Đến thực tế (Reality)
    Quan niệm thực chất trên đã được lịch sử và thực tiễn Việt Nam soi sáng
       Thật vậy, sau Hiệp Định Genève 1954 tạm thời chia đôi đất nước, Ông Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam đã chiếm Miền Bắc, áp đặt chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập quyền bính theo mệnh lệnh của cộng sản quốc tế, với một chính quyền trong một chế độ độc tài đảng trị trái với ý nguyện của nhân dân, đã phát động chiến tranh chống lại và thôn tính chế độ chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam.
       Chính thống vì chính quyền của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã kế thừa và tiếp nối quyền bính chính trị theo dòng chính lịch sử dân tộc. Vua Bảo Đại của chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam, sau khi tiếp nhân chủ quyền độc lập từng phần qua các Hiệp ước song phương với chính quyền thực dân Pháp, sau cùng đã nhận chủ quyền độc lập hoàn toàn trên một nửa nước ở Miền Nam. Vua Bảo Đại trong vai trò Quốc Trưởng và chính phủ quốc gia Việt Nam đã tiếp nhận chủ quyền độc lập, sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ.Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử nhân sĩ Ngô Đình Diệm, gốc quan lại của Triều đình, làm Thủ Tướng thành lập Chính Phủ mới kế tục quyền bính chính trị (political power) từ các chính phủ quốc gia trước đó trong thời kỳ Pháp trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam .
        Sau đó, do ý nguyên của nhân dân phù hợp với xu thế thời đại, được thể hiện qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 đã truất phế vua Bảo Đại, cáo chung chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam, khai sinh chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa với bản Hiến Pháp ban hành ngày 26-10-1956. Và như thế đã hình thành một chính quyền trong một chế độ dân chủ hội đủ 5 tính chất: Chính thống, chính nghĩa, chính đáng, hợp pháp và chính danh. Trên nguyên tắc, chính quyền và chế độ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại về mặt pháp lý chính trị  thuần túy (trên căn bản Hiệp Định Geneve 1954 và Hiệp Định Paris 1973 như đã trích dẫn ở phần trên) dù không còn tồn tại được về mặt thực tế.
        Sau khi thôn tính được Miền Nam vào ngày 30-4-1975, thống nhất đất nước bằng võ lực, vi phạm trắng trợn cùng lúc hai bản Hiệp Định Geneve 10-7-1954 và Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, Cộng đảng Việt Nam đã áp đặt chế độ xã hội chủ nghĩa trên cả nước, hoàn toàn trái với ý nguyện của toàn dân, nhưng đã làm tròn “nghĩa vụ quốc tế” đối với cộng sản quốc tế là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam tiến tới mục tiêu tối hậu là cộng sản hóa toàn thế giới theo ý đồ, tham vọng của các lãnh tụ cộng sản quốc tế, đúng đầu là cộng sản Nga- Tầu  thời bấy giờ .
       Thế nhưng mộng cộng sản hóa toàn cầu đã tan theo mây khói sau khi đế quốc đỏ Liên Xô đứng đầu phe Xã Hội Chủ Nghĩa chấp nhận sự thất bại sau hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa không tưởng này (1917-1991), đã mau chóng thức thời chuyển đổi qua chế độ dân chủ, kéo theo sự xụp đồ cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, để rồi sau đó đã cùng chuyển đổi qua chế độ dân chủ. Hiện chỉ còn tồn tại 4 nước trong đó không may  có Việt Nam, đảng cầm quyền độc tôn vẫn cố đeo bảng hiệu “Đảng Cộng Sản Việt Nam” ngụy danh và “Chế độ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ngụy nghĩa, dù thực chất cũng như thực tế không phải là như vậy.
         Ai cũng biết sự ngoan cố bám lấy hai bảng hiệu này chỉ cốt làm ô dù che cho một đảng có lý do tiếp tục độc quyền thống trị trong một chế độ độc tài toàn trị, với một chính quyền “Chuyên chính vô sản” (giả) để dễ dàng trấn áp nhân dân, bảo vệ các ưu quyền đặc lợi chính trị, kinh tế , xã hội cho giai cấp cầm quyền tộc tôn là các cán bộ đảng viên cộng sản (ngụy danh nghĩa) chia nhau nắm quyền, chia lợi nhuận từ thượng tầng quốc gia đế hạ tầng cơ sở.
         Thật vậy,thực chất cũng như thực tế tại Việt Nam, không phải bây giờ mà đã từ lâu  không còn đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ còn bảng hiệu che đậy một thực trạng: Không còn đảng viên nào còn đủ phẩm chất người cộng sản,theo đúng lý luận của một đảng Marxist- Leninnist, có phẩm chất giống như một nhà tu chân chính, hoạt động quên mình, chỉ biết hy sinh quyền lợi cá nhân phục vụ tha nhân, hợp thành đội tiên phong của giai cấp công nhân hay vô sản, tiến hành đấu tranh “cách mạng vô sản” để giải phóng giai cấp, xây dựng  “một xã hội không còn giai cấp, không còn cảnh người bóc lột người” – từ “ một xã hội chủ nghĩa còn giai cấp” tiến tới xã hội viên mãn trong viễn tưởng “Xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn giai cấp- một:Thiên Đường Cộng Sản….” ngay trên trần thế này. Thiên đường cực lạc của tôn giáo thì còn được hàng tỉ người tin theo, vì chỉ hiện thực sau cái chết. Còn Thiên Đường Cộng sản thì đã phá sản hoàn toàn, nay chẳng còn ai tin theo (kể cả những kẻ đang khoác áo đảng viên cộng sản); vì nó không thể hiện thực ngay trên trần thế này; Vì thực tế nó chỉ là bánh vẽ, được những kẻ hoạt đầu chính trị xử dụng như một chiêu bài lừa bịp để thành đạt một “Thiên Đường Cộng sản cho chính họ và gia đình” ngay trên trần thế này. Đó là thực cảnh tại Việt Nam và những nước gọi là cộng sản còn sót lại trên hành tinh này.
         Nay thực tế hoàn toàn trái ngược tại Việt Nam, đảng viên cộng sản chân chính chẳng còn ai, hầu hết đã “phản tỉnh” từ bỏ đảng tịch công khai hay âm thầm (vì miếng cơm manh áo phải bám “Đảng”), chỉ còn lại một tập đoàn thống trị cấu kết với nhau vì quyền lợi chứ không còn vì lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa, song vẫn dùng bảng hiệu “Đảng Cộng sản Việt Nam” che đậy thực chất của một đảng “Tư bản Đỏ Việt Nam(Đỏ vỏ xanh lòng) mà ngôn ngữ bình dân gọi là “Đảng Xôi Thịt” (phấn đấu vào đảng chỉ để có vị thế chia ghế chia phần, hưởng  lợi lộc trong vị thế cầm  quyền hay dùng quyền uy sau khi rời chính quyền để thủ lợi).
        Thực chất cũng như thực tế chưa bao giờ hình thành “xã hội chủ nghĩa” tại Việt Nam. Vì sau 10 năm quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước thất bại thảm hại (1975-1985), tiếp đến 10 năm “Đổi mới” nửa vời theo Nghị quyết Đại Hội VI Cộng đảng Việt Nam (1986-1995)theo gương Liên Xô, mà một năm trước đó đã thực hiện chủ trương, chính sách “Cải Tổ” (Glasnost) và “Cởi Mở” (Perestroika) để cứu chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô, cũng đã không thành, đi đến sụp đổ, sau hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1917-1991).
         Từ đó, nhất là sau khi thiết lập được quan hệ ngoại giao với cựu thù “Đế quốc Mỹ”, qua việc vận dụng vào thực tiễn các nghị quyết của các Đại Hội sau Đại Hội VI (1986) mệnh danh là “Đổi Mới” cho thấy, toàn “Đảng Ta” ngày càng xa dần và nay thì đã mất hẳn mục tiêu phấn đấu hiện thực lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa tại Việt Nam. Cái gọi là chế độ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cũng chỉ là bảng hiệu giả mạo để lừa bịp và che đậy thực chất là một chế độ độc tài đảng trị với chủ quyền quốc gia thuộc về độc đảng cầm quyền(chứ không thuộc về toàn dân như ý nghĩa từ ngữ “Cộng hòa”) và thực tế không phải là một “Xã hôi chủ nghĩa” theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cao đẹp (chỉ là bánh vẽ để lừa mị lôi kéo quần chúng và không tưởng vì không thể, không bao giờ thực hiện được) :“xã hội không người bóc lột người”, với những “con người xã hội chủ nghĩa” sống trong một xã hội “xã hội chủ nghĩa” tuy còn gia cấp, nhưng mọi người sống chung trong tình hữu ái, “lao động theo năng lực, hưởng theo sức lao động” bỏ ra v.v và v.v….
          Thực tế nhân dân ai cũng biết, thấy rõ đã có sự lừa bịp, mâu thuẫn giữa lý luận của chủ nghĩa cộng sản và thực tiển hiện thực chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam: Không còn đảng viên cộng sản chân chính, không có con người xã hội chủ nghĩa và cũng chưa bao giờ, không bao giờ có một xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, ngay cả Liên Xô cũ nước đầu thiên thực hiện chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản) sau hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa hoàn thành đã sụp đổ (1917-1991).
           Bởi vì chính thực tế trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” các đảng viên cộng sản và cả chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam,như con ruồi sa vào hũ mật, cũng đã biến chất và biến thế hoàn toàn sau 15 năm được “Đế quốc Mỹ” hóa thân tịnh tiến theo đúng quy luật duy vật biện chứng“Lượng đổi, chất đổi”, cho dù “Đảng ta” miệng có la hoảng, cảnh giác đảng viên về cái gọi là “Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch”, thì thực tế chân vẫn phải chậy theo và bị “diễn biến ấy” lôi đi xềnh xệch không sao cưỡng lại được. Diễn biến đó là: cán bộ đảng viên cộng sản bị tư sản hóa từng bước (trở thành tư bản Đỏ), nhà nước được tư bản hóa từng phần (tiến trình giải tư công, nông, thương nghiệp quốc doanh…), chế độ thì được dân chủ hóa tịnh tiến (đã phải trả lại cho nhân dân nhiều quyền dân chủ, dân sinh so với hơn 15 năm trước đây,dù còn ít nhiều hạn chế…)
         Trên thực tế tại Việt Nam hiện nay sau 57 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, người ta chỉ thấy một đảng mang bảng hiệu giả mạo “Đảng Cộng sản Việt Nam” theo kiểu gian thương “Treo đầu dê, bán thịt chó”, qui tụ những đảng viên cộng sản(giả) thành một giai cấp thống trị mới: Giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản (giả) với nhiều ưu quyền, đặc lợi, độc quyền áp bức, bóc lột nhân dân, làm giầu bất chính (bằng tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc, cửa quyền, hối mại quyền thế...) trở thành những “đại gia”, những nhà “Tư bản Đỏ” tiền rừng bạc biển, đài thọ vô tư cho các cậu ấm, cô chiêu du học nước ngoài để mai này trở về tiếp tục sự nghiệp con ông cháu cha độc quyền lãnh đạo đất nước (cùng nghĩa với độc quyền đè đầu cưỡi cổ nhân dân theo ngôn ngữ bình dân); hay chuyển tiền ra đầu tư địa ốc, kinh doanh ở nước ngoài để đã giầu càng giầu thêm vừa chuẩn bị hậu hoạn, vừa phục vụ cho đời  sống hiện tại có tiện nghi vật chất cao và lối sống tiêu sài xa hoa phung phí cách biệt một trời một vực với giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động nghèo, vốn là giai cấp khi chưa nắm được chính quyền, đã được Đảng Cộng sản” cho uống nước đường, tôn vinh là giai cấp trí cốt, tiên phong cách mạng”“Giai cấp lãnh đạo cách mạng vô sản”…
         Nay thực tế, giai cấp công,nông và nhân dân lao động nghèo, đã chỉ là giai cấp đem máu xương lót đường trong quá khứ  cho bọn “nguy giai cấp vô sản” tiến lên giành chính quyền; rồi mhân danh giai cấp vô sản dùng “chính quyền chuyên chính vô sản” trấn áp, bóc lột ngay cả giai cấp vô sản (công nhân), nông dân, lao động nghèo và mọi giai cấp khác trong toàn xã hội. Nghĩa là đảng Cộng sản Việt Nam (giả hiệu) ngày nay đã thực hiện đúng luận điểm Marxist- Leninnist, rằng “chính quyền chỉ là công cụ của giai cấp thống trị trấn áp, bóc lột nhân dân trong một xã hội còn giai cấp.”. Nhưng cũng xin nhắc thêm với giai cấp thống trị gốc cộng sản hiện nay ở Việt Nam luận điểm Marxist- Leninnist về đấu tranh cách mạng này, rằng “Cách mạng là sự nghiệp cùa quần chúng. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
         Chúng tôi xin thêm luận điểm này, rằng “Một chính quyền trong một chế độ thiết lậu bằng bạo lực, duy trì bằng bạo lực, thì sớm muốn cũng sẽ bị tự hủy diệt do tự bản chất và do sức mạnh vùng lên của những con người bị áp bức bóc lộ” ( Trích Tuyên Ngôn của Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam 1977 do người viết khởi thảo khi tham gia thành lập và hoạt động trong Mặt Trận này)
      Vậy thì chúng ta:
3.- Phải gọi nhà cầm quyền trong chế độ đường thời tại Việt Nam thế nào cho đúng thực chất và thực tế? 
        Bao lâu nay chúng ta thường gọi đảng đương quyền, tức là đảng đang nắm chính quyền độc tôn tại Việt Nam hiện nay là “đảng Cộng sản Việt Nam”, và chế độ đương thời tại Việt Nam là “Cộng hòa Xả hội chủ nghĩa Việt Nam”. Từ lâu, chúng tôi cho rằng gọi như thế không đúng với thực chất (Real matter, Essence, substance) cũng như thực tế (Reality, real life) tại Việt Nam. Vì vậy trong bài viết này và những bài viết trước đây, chúng tôi rất dè dặt và miễn cưỡng mỗi khi phải viết tên đảng và chế độ đương thời tại Việt Nam.
         Vậy thì,đã đến lúc chúng ta, quốc dân Việt Nam, những người Việt quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản, cần gọi tên đảng cầm quyền và chế độ đương thời tại Việt Nam như thế nào cho đúng thực chất  và thực tế.
        Chúng tôi đề nghị, đã đến lúc cần khai tử đảng “Cộng sản Việt Nam” và chế độ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” trên danh nghĩa về mặt ngôn ngữ, bằng cách không viết, không nói, không gọi đến những danh xưng giả mạo này nữa. Thay vào đó, chúng ta chỉ viết, nói, gọi tên “Đảng cầm quyền” hay “Đảng thống trị độc quyền”, hoặc “Tập đoàn thống trị độc quyền” , “tập đoàn thống trị mafia Việt Nam”,trong một chế độ “Độc tài đảng trị” hay “Chế độ độc tài  toàn trị” tại Việt Nam.
        Nếu chưa quen thì cần thêm trước những bảng hiệu ấy cụm từ “cái gọi là”. Ví dụ: Tổng Bí Thư, Bộ Chính Trị của cái gọi là “đảng Cộng sản Việt Nam”. Thủ Tướng, Quốc Hội, nhà nước của Cái gọi là chê độ hay nhà nước, chính quyền “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”….
       Vì nếu chúng ta tiếp tục viết, nói, gọi tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay “Chế độ Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, hoặc “Chế độ cộng sản Việt Nam”, “Chính quyền hay nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam”… là vô tình giúp tập đoàn thống trị độc tôn, độc quyền tiếp tục dùng danh xưng giả hiệu để lừa bịp nhân dân, tiếp tục dùng bộ máy Đảng và bộ máy nhà nước “Chuyên chính vô sản” trấn áp và độc quyền bóc lột nhân dân.
        Vì thực tế, sư tiêu vong hoàn toàn đảng, nhà cầm quyền trong chế độ đương thời tại Việt Nam đã là một tất yếu. Nếu dựa vào những biến chuyển tình quốc tế và quốc nội, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, vì nhà cầm quyền trong chế độ độc tài toàn trị ấy đã ở vào cuối quá trình tiêu vong và ở sát biên độ “Tức nước vỡ bờ” đối với nhân dân.
        Tiêu vong khi nào và bằng cách nào là tùy những nhà lãnh đạo đảng cầm quyền và chính quyền trong chế độ độc tài đảng trị hiên nay tại Việt Nam lựa chọn một trong những cách sau đây :
1.-Tự nguyện, tự giác, chủ động, đơn phương khởi động kịp thời một tiến trình dân chủ hóa đất nước trước khi quá muộn, (Chúng tôi đã có đề nghị cụ thể tiến trình này trong bài viết sau cùng của loạt bài sau cùng này và sẽ công bố nếu cần, sau khi đã gửi riêng đến những nơi cần gửi).
          Đây là sự lựa chọn sáng suốt và tối ưu, vừa có lợi cho dân, cho nước, vừa có lợi cho chính những nhà lãnh đạo hàng đầu và đảng cầm quyền trong chế độ độc tài toàn trị hiện nay tại Việt Nam.
2.- Đợi đến khi nhân dân nổi giận xuống đường lật đổ bằng sức mạnh của quần chúng như đã, đang, sắp xẩy ra tại các nước Bắc phi và Trung Cận Đông. Lúc đó nhà cầm quyền đương thời có thể đối phó bằng hai cách:
   - Một là dùng công cụ của bô máy “chuyên chính vô sản” là công an quân đội trấn áp nửa vời một thời gian , sau mới chịu nhượng bộ trao trả chính quyền cho nhân dân như ở Tunisia, Ai Cập, ...để rồi sau đó những kẻ lãnh đạo có trách nhiệm như  Tổng Thống Hosni Mubarak của Ai Cập,  phải ra trước Tòa trả lời về tội đàn áp nhân dân, và các tội ác khác đã phạm trong suốt thời gian cầm quyền độc tài kéo dài nhiều thập niên, dẫn đến tù tội, tài sản tích lũy làm giầu trái phép do tham nhũng, hối mại quyền thế, đục khoét công quỹ phải bị tịch thu.
- Hai là trấn áp triệt để, đến cùng như nhà độc tài Kadhafi của Lybia đã làm, hay nhà độc tài al Assad của Syria đã, đang làm theo gương (nay dường như đã có dấu hiệu nao núng để tránh số phân bi thảm như Kadhafi và đang được các nước thuộc khối Ả Rập khích lệ, mở đường bắn tiếng sẵn sàng cho tị nạn chính trị?) để cuối cùng cá nhân, con cái và bộ hạ thân tín cầm quyền đã phải nhận lãnh những cái chết bi thảm hay bị truy lùng như những kẻ phạm tội ác chống nhân loại, của cải tích lũy  làm giầu sau 42 năm cầm quyền cũng tan thành mây khói.
III/- VIỆC LÀM CỦA (36-1) NHÀ TRÍ THỨC VIỆT NAM Ở HẢI NGOẠI CÓ THỂ BIỆN MINH?     
     Ngay sau khi Thư Ngỏ của 36 nhà trí thức Việt Nam hàng đầu ở hải ngoại được phổ biến rộng rãi trên mạng internet và thấy có những bài viết phản đối dùng những ngôn ngữ nặng nề có tính nhục mạ, xúc phạm đến nhân cách (personality), nhân phẩm (human dignity) các vị đồng tác giả, (trong đó có những bậc thầy khả kính của chúng tôi như Gs Vũ Quốc Thúc…) mà lý tình đều không nên làm như vậy, chúng tôi đã viết bài “Vì lợi ích chống cộng, người quốc gia đừng đánh người quốc gia nữa”.Chủ đích khi viết bài này là để lưu ý công luận về những bài viết quá đà này.(Xin coi bài viết đính kèm).
       Trong phần cuối bài viết hôm nay chúng tôi chỉ muốn trả lời vắn tắt câu hỏi: Việc làm của (36 -1) nhà trí thức Việt Nam ở hải ngoại có thể biện minh?
       Câu trả lời vắn tắt đó là: Có thể biện minh trên một lập luận khác hơn cách lập luận của Giáo sư Vũ Quốc Thúc, một người Thầy khả kính và khả ái của nhiều thế hệ môn sinh Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Người đã ký tên vào Thư Ngỏ với ý thức tự do, tinh thần minh mẫn, sáng suốt dù đã ở độ tuổi ngoài 90, chứ không phải (theo nhân định của chúng tôi) Ngài đã bị Gs. Lê Xuân Khoa lừa bịp, như có sự lầm tưởng.
     Như chúng tôi đã trình bầy trong bài viết vừa nêu, rằng “Nội dung Thư Ngỏ đề cập đến những vấn đề nghiêm trọng của Đất nước, người Việt Nam nào trong nước cũng như hải ngoại còn quan tâm đến vận mạng dân tộc đều biết. Những điểm đề nghị với các lãnh đạo tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam cũng không có gì mới, cũng chẳng trái với lập trường, quan điểm chống cộng bao lâu nay của người Việt quốc gia chân chính, song đã bị công luận chống đối vì hình thức Thư ngỏ đã vi phạm lập trường, quan điểm chống cộng có tính nguyên tắc bất di bất dịch của Việt quốc, khi dùng hình thức Thư Ngỏ “Kính gửi” đến các nhà lãnh đạo hàng đầu cơ chế đảng và nhà nước Việt cộng (Tổng Bí Thư Cộng đảng, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ Tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao của nước “Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”)
         Bởi vì lập trường, quan điểm có tính nguyên tắc bất di bất dịch của Việt quốc bao lâu nay vẫn là: không nhìn nhận chế độ chính trị và chính quyền Việt cộng là hợp pháp và chính đáng đối với Quốc dân Việt Nam (những công dân của Tổ quốc Việt Nam), dù được coi là hợp pháp theo Công pháp quốc tế (đối với quốc tế)…..
         “Hình thức Thư ngỏ  của (36-1) nhà trí thức hải ngoại gửi cho các nhà lãnh đạo hàng đầu đảng và nhà nước Việt cộng bị coi là mặc nhiên thừa nhận tính hợp  pháp và chính danh của chế độ và chính quyền này, nên đã bị công luận tỏ sự bất bình, chống đối quyết liệt là điều dễ hiểu.(khác với các nhà trí thức trong nước chấp nhận làm thần dân của chế độ, họ có thể gửi kiến nghị hay Thư ngỏ, trí thức Việt quốc thì  không thể)….”
         Vậy thì việc làm của (36-1) nhà trí  thức Việt Nam ở hải ngoại, về phương cách gửi Thư Ngỏ như thế, không thể biện mình rằng vì Họ đã “thống nhất đất nước bằng võ lực bất chấp cam kết long trọng của họ trong Hiệp định Paris ngày 27/1/1973: như vậy là họ đã đảm nhận trọng trách của bất cứ chính quyền Việt Nam – thực tại ( de facto ) hay hợp pháp (de jure) – trong giai đoạn lịch sử này là bảo vệ nền độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của tổ quốc…”.
     Theo thiển ý, có thể biện minh rằng hình thức gửi Thư Ngỏ như thế không nhất thiết thừa nhận tính hợp pháp, chính đáng của chính quyền trong chế độ độc tài đảng trị đương thời tại Việt Nam, mà chỉ là sự chấp nhận một thực tế (Reality) để thực hiện một phương cách chống cộng (đòi hỏi qua đối thoại công khai với đối phương) là một thực thể (entity, existence)như đã có tiền lệ.
      Trước đây khi chính quyền chính thống Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa bị ép buộc phải chấp nhận cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam với cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, được có vị thế ngang hàng trong bàn Hội Nghị bốn bên về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam tại Paris Pháp quốc. Mặc dầu thực tế ai cũng biết cái Mặt Trận  và Chính phủ này chỉ là công cụ quân sự và chính trị xâm lăng Miền Nam Việt Nam của chính quyền Cộng sản Bắc Việt. Chúng tôi còn nhớ lúc đó Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong chức vụ Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Tức Thủ Tướng) đã tuyên bố với báo chí rằng “Chúng ta không thừa nhận, nhưng phải chấp nhân một thực tế”.
      Thực tế sau này cho đến hiện nay, như chúng tôi trình bầy ở phần quan niệm trên, rằng “chính quyền trong chế độ hiện nay là một thực thể chỉ hiện hữu ở thế hợp thức, hợp lệ hay hợp cách (regular government) theo công pháp quốc tế (Vì hội đủ các yếu tố cấu thành một quốc gia: lãnh thổ, dân cư và chính quyền), nên được coi là một chính quyền chính thức (official government) của quốc gia Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, nhưng không nhất thiết, không thể là một chính quyền hợp pháp (Legal government).
      Với quan niệm trên, trong khung cảnh chế độ dân chủ mà (36-1) nhà trí thức đang sống ở hải ngoại, họ có quyền suy tư và hành động theo ước muốn trong vòng luật pháp quốc gia sở tại. Việc làm của họ, những quốc dân Việt Nam trong khung cảnh công cuộc chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam, với tư cách cá nhân hay tập thể, có quyền suy tư và hành động không phù hợp, trái ngược  với quan niệm, quan điểm và phương thức chống cộng của nhiều người khác, song không thể vì thế mà bị kết án, lăng mạ, xúc phạm đến nhân cách, nhân phẩm con người như thế. Vả lại, hình thức gửi Thư Ngỏ như thế  chỉ là sự lên tiếng đòi hỏi, bầy tỏ nguyện vọng của một tập thể qui tụ các cá nhân đồng thuận,không có tư cách đại diện cho ai, nên không nhất thiết phản ảnh lập trường quan điểm chung của toàn khối Việt quốc chống cộng ở hải ngoại.
        Đúng ra, nhưng người chống đối có quyền nhân danh cá nhân hay tập thể ,bầy tỏ sự bất đồng khác hơn, thích hợp hơn là coi đó như một dịp chút căm thù cộng sản lên đầu những người an hem đồng hội đồng thuyền, có chung lập trường chống cộng, chỉ có quan điểm và hành động theo phương thức chống cộng khác mình. Bầy tỏ một cách đúng đắn tiêu biểu như các Luật sư Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Lưu Đạt và một số người khác đã làm.
        Bởi vì mục đích chỉ là bầy tỏ sự bất đồng chính kiến, của cá nhân hay tập thể này đối với việc làm của cá nhân hay tâp thể khác là (36-1) nhà trí thức việt Nam hải ngoại. Ngay cả trường hợp chúng ta có một Chính phủ VNCH Lưu Vong (một giả định không có trên thực tế) hay một tổ chức chính thức đại diện chung cho toàn thể người Việt Quốc Gia chống cộng ở hải ngoại (một ước muốn từ lâu vẫn chưa hiên thực được), trong trường hợp này, cũng chỉ có thể, cách nào đó, tìm cách phủ nhận, chống đối rằng “ Chúng tôi chống lại và minh định rằng nội dung và hình thức Thư Ngỏ của (36-1) nhà  thức việt Namở hải ngoại không nhất thiết phản ảnh lập trường, quan điểm chống cộng của chúng tôi”; Rằng  “ Chúng tôi cực lực chống lại việc làm của (36-1) nhà trí thức Việt Nam hải ngoại, vì đã vi phạm lập trường có tính nguyên tắc của toàn khối người Việt Quốc gia chống cộng ở hải ngoại, là không thừa nhận tính chính đáng và hợp pháp của cầm quyền trong chế độ độc tài đảng trị hiện nay tại Việt Nam”…  chẳng hạn.
      Chúng tôi thiết nghĩ, thế là đủ, là phù hợp với chế độ dân chủ nơi các quốc gia trong thế giới văn minh chúng ta đang sống. Nhất là  để chứng tỏ thực tâm của chúng ta, những người Việt quốc gia chân chính, đã và đang kiên trì đấu tranh chống cộng trong nhiều thập niên qua, không phải vì hận thù cần trả thù Việt cộng, mà là để hiện thực một chế độ Tự Do Dân Chủ đích thực cho Quê Mẹ Việt Nam, cũng không phải để thay thế chế độ độc tài toàn trị của cái gọi là “Cộng sản Việt Nam” bằng một chế độ độc tài khác kiểu.
        Thực tâm này thiết tưởng cần được thể hiện ngay từ bây giờ, trong các sinh hoạt Cộng Đồng, qua các bài viết phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng, để chứng tỏ mai này, nếu những người Việt Quốc gia chống cộng (cá nhân hay trong các chính đảng) vì mục tiêu dân chủ hóa Đất nước,có cơ hội nắm chính quyền, nhất định sẽ thực hiện một chế độ tự do dân chủ đích thực, chứ không như cái gọi là “Đảng Cộng sản Việt Nam” trong cái gọi là chế độ “Cộng hòa Xã hội Chủ nhĩa Việt Nam” đã hành xử, kể từ khi giành được chính quyền, thiết lập quyền thống trị độc tôn trên cả nước, đã quay lại đàn áp, áp bức, bóc lột nhân dân.
    
·      KẾT LUẬN:

        Tất cả những gì chúng tôi trình bầy trên đây chỉ muốn đi đến một kết luận rằng, người Việt Quốc gia chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam:
- Đối với đối phương, cần quan niệm và nhận định cho đúng thực chất nhà cầm quyền trong chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị hiện nay tại Việt Nam. Biết rõ thực chất để nhận diện rõ đối phương và hành động đấu tranh phù hợp với thực tế để có hiệu quả. Cổ nhân nói “Biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng” là thế.
-       Đối với chúng ta, những thành phần lãnh đạo công cuộc chống cộng cần duyết xét lại toàn bộ vấn đề chống cộng để kiện toàn về tổ chức, điều chỉnh sách lược chống cộng sao cho phù hợp với biến chuyển tình hình quốc tế và quốc nội, để sớm thành đạt mục tiêu tối hậu: Dân chủ hóa đất nước.
-       Cách hành xử của các chiến hữu chống cộng, giữa cá nhân hay giữa các đoàn thể hoặc trong mỗi đoàn thể chống cộng có chung một chiến tuyến, mỗi khi có sự bất đồng về quan điểm, phương thức chống cộng, cần được giải quyết khác hơn cách mà một số người bao lâu nay đã đang làm, chỉ có hại chứ không có lợi gì cho công cuộc chống cộng để dân chủ hóa cho Quê Mẹ Việt Nam.
         Nghĩa là,trong một số mâu thuẫn cá nhân hay đoàn thể về quan điểm và phương thức chống cộng, cần phải phê phán nghiêm túc, đúng nơi, đúng chỗ, nêu rõ đúng sai, phải trái, lợi hại cho công cuộc chống cộng, với thiện chí xây dựng, không đánh phá bừa bãi chỉ cho hả giận, vuốt ve lòng tự ái cá nhân, hay cho vơi đi lòng thù hận với Việt cộng, và khủng bố tinh thần anh em, chiến hữu…
         Nếu muốn để làm gương, rút kinh nghiệm, thì cần dùng lý lẽ, bằng chứng xác thực có tính thuyết phục, không nên dùng ngôn ngữ bình dân có tính lăng mạ, áp đặt, suy đoán và bịa đặt những điều không có truy chụp cho nhau, vi phạm luật pháp, xúc phạm nặng nề nhân cách và nhân phẩm của nhau, với ý đồ khủng bố tinh thần nhau để thủ thắng hay tranh danh đoạt lợi cho cá nhân hay tập thể bè phái mình, bất chấp sự tác hại cho công cuộc chống cộng chung, như thực tế đã xẩy ra ở nhiều nơi trong các Cộng Đồng Việt Nam tại hải ngoại.
          
         Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng
            Houston, ngày 11-11-2011

            

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.