Wednesday, August 30, 2017

VIẾT LỊCH SỬ CHO ĐẤT NƯỚC HAY CHO ĐẢNG VÀ CHẾ ĐỘ ĐƯƠNG THỜI?



VIẾT LỊCH SỬ  CHO ĐẤT NƯỚC HAY CHO ĐẢNG VÀ CHẾ ĐỘ ĐƯƠNG THỜI?

Thiện Ý

Theo báo chí tại Việt Nam cho hay Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam hôm 18-8 -2017 đã phát hành rộng rãi trên thị trường bộ sách mang tên Lịch sử Việt Nam dày 10.000 trang, được coi là bộ sử đồ sộ nhất của đất nước từ trước đến nay, viết về Việt Nam từ khởi thủy đến năm 2000.
Trên báo chí Việt Nam, phó giáo sư, tiến sĩ Trần Đức Cường, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng Chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam, nói rằng bộ lịch sử mới “bổ khuyết được nhiều vấn đề mà các công trình sử học trước đó chưa có điều kiện nghiên cứu”. Một trong những bổ khuyết đó có lẽ là các sách sử trước đây của chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam dùng các từ “ngụy quân”,ngụy quyền” để gọi Việt Nam Cộng hòa và quân đội của chính thể đó. “Nhưng bây giờ chúng ta viết là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn” ?
Trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ hôm 18-8-2017, ông Trần Đức Cường đã nói rằng “Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam… Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, mọi người vẫn hay gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo cách đó mà gọi là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn. Lịch sử phải khách quan, phải viết thế nào để mọi người chấp nhận”.
Sự thể này đã được công luận trong và ngoài nước quan tâm, bình phẩm, đánh giá khác nhau.
1/- Một dấu hiệu tích cực cho hiện tại cũng như tương lai đất nước và dân tộc?
Đối với chúng tôi, khi nghe qua những lời tuyên bố trên không khỏi ngạc nhiên, vui mừng một cách dè dặt, bán tín bán nghi tự hỏi sự thay đổi cách gọi của “Bên thắng cuộc” đối với “Bên thua cuộc” như thế có ý nghĩa tích cực gì không cho hiện tại cũng như tương lai đất nước và dân tộc?
Ý nghĩa tích cực là đảng và nhà cầm quyền CSVN phải chăng đã giác ngộ, phản tỉnh để nhận ra được thực chất cũng như thưc tế của cuộc chiến tranh “cốt nhục tương tàn” hôm qua (1954-1975), tạo tiền đề cho sự hòa giải dân tộc, đoàn kết thống nhất toàn lực quốc gia để bảo vệ Tổ quốc trước họa ngoại xâm và xây dựng phát triền toàn diện đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ ngang tầm cao thời đại; để mọi tầng lợp nhân dân Việt Nam được sống trong “Độc lập-Tự do -Hạnh phúc” như khẩu hiệu tuyên truyền bao lâu nay của đảng và chế độ đương thời?
2/- Thế nhưng mọi người đã thất vọng vì sao?
Thế nhưng, người viết cũng như nhiều người Việt Nam khác đã thất vọng ngay sau khi nghe chính ông Trần Đức Cường cũng trong cuộc phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ, đã giải thích thêm là sự thay đổi tên gọi chính quyền và quân đội chế độ Saigon như thế chỉ là thay đổi về từ ngữ cho có ý nghĩa trung tính để phù hợp với tính khách quan của lịch sử,. Vì “Lịch sử phải khách quan, phải viết thế nào để mọi người chấp nhận” như Ông nói. Nhưng ông khẳng định bản chất của chính quyền và quân đội Saigon vẫn không thay đổi. Theo Ông Cường chính quyền ấy (Việt Nam Cộng Hòa) thực chất cũng như thực tế vẫn là một chính quyền công cụ tay sai do Mỹ dựng lên và nuôi dưỡng; và quân đội ấy (Quân đội VNCH) được Mỹ trang bị vũ khí và nuôi sống cũng chỉ là một quân đội đánh thuê… !?!
Nghe người đứng đầu việc soạn thảo bộ  sách Lịch sử Việt Nam khẳng định như thế mà dám nói sự thay đổi tên gọi miệt thị chế độ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trong cuộc chiến “Nồi da sáo thịt” hôm qua (1954-1975) là viết “Lịch sử phải khách quan” ư?
3/-Viết lịch sử cho đất nước và dân tộc hay cho đảng và chế độ đương thời?
Người ta không khỏi tự hỏi Tiến sĩ Trần Đức Cường và những sử gia của chế độ đã viết lịch sử cho đất nước và dân tộc Việt Nam hay đang viết tài liệu tuyên truyền theo lệnh và cho ý đồ của  đảng và chế độ  đương quyền tại Việt Nam?
Chẳng cần nói ra thì ai cũng biết câu trả lời cho câu hỏi này rồi. Vì ai cũng biết, các sử gia đều là cán bộ viên chức nhà nước; vì cuộc sống, vì an toàn cá nhân và gia đình đã phải “ăn cơm Chúa (đảng) múa tối ngày”, phải uốn ngòi bút viết lịch sử theo đơn đặt hàng của “đảng và nhà nước ta”! Mặc dầu Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường đã cố gắng phủ nhận khi trả lời với báo chí, rằng khi soạn thảo bộ Lịch sử Việt Nam không nhận chỉ thị hay chiu một áp lực nào. Nhưng ai cũng hiểu trong chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị hiện nay tại Việt Nam, không một cơ quan đoàn thể nào, nhất là một đòan thể “trí thức xã hội chủ nghĩa” có trách nhiệm soạn bộ Lịch sử Việt Nam thuộc lãnh vực tư tưởng, mà không nằm trong vòng cương tỏa của bộ máy đảng và nhà nước cộng sản (Ban tư tưởng tuyên giáo Trung Ương đảng CSVN) hiện nay. Cho dù trước đó người của “đảng và nhà nước ta” đã cố gắng đưa ra những động tác giả để dàn cảnh trước cho điều mà TS Trần Đức Cường nói với báo chí là “Độc lập”, không chịu áp lức hay nhận chỉ thị nào cả khi soạn thảo bộ sách Lịch sử Việt Nam.
Tỷ như trên trang VNTB.org xuất hiện bài viết được cho là của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, nguyên Cục Trưởng Cục Tuyên huấn, Bộ Quốc phòng, không chấp nhận việc công nhận chính quyền Sài gòn, tác giả cho rằng công nhận chế độ VNCH là “đánh tráo lịch sử”(!?!) và “yêu cầu Đảng, Nhà nước phải kiểm tra xử lý kiên quyết thu hồi, đính chính trở lại tập sử và làm rõ trách nhiệm những người gây nên hậu quả sai trái.”
Gần đây nhất, hồi tháng 6/2017, báo Quân đội Nhân dân, trong một bài ca ngợi Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn như là “người truyền lửa cho cộng đồng người Việt trong và ngoài nước”, vẫn tố cáo “tội ác của chế độ Mỹ-Ngụy”. Bài báo nói ông Tuấn từng được phân công để “lên lớp chính trị cho gần một vạn binh lính, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền.”sau ngày “Giải phóng”(30-4-1975).
4/- Thế còn ý đồ của đảng cầm quyền độc tôn trong chế độ độc tài toàn trị CSVN muốn thành đạt qua kịch bản thay tên gọi cho chế độ và quân đội Saigon là gì?
Theo suy đoán của nhiều người trong và ngoài nước thuộc cả hai phe “Quốc-Cộng” thì sự thay đổi này chỉ là vì nhà đương quyền muốn tạo cơ sở pháp lý xác định chủ quyền trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam.
Cơ sở pháp lý đó là sự thể hiện chủ quyền qua việc quản lý chính trị, hành chánh liên tục của chính quyền Saigon trước năm 1975 .v.v…Nếu đúng như vậy thì không biết đảng và nhà đương quyền có biết kịch bản này sẽ mâu thuẫn với kịch bản “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” trước đây trong thời kỳ “chiến tranh giải phóng Miền Nam” không?
Đó là một công cụ chính trị bên cạnh công cụ quân sự là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được chính quyền CSBV dựng lên để tiến hành chiến tranh xâm chiếm nhuộm đỏ Miền Nam dưới chiêu bài “ngụy dân tộc”. Sau khi xâm chiếm được  Miền Nam, lại đã được sử dụng làm công cụ pháp lý trong cái gọi là “Hiệp thương thống nhất đất nước” (1976) giữa chính phủ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” và “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”. Vì là chính quyền ma nên đảng và nhà cầm quyền đương thời nay không dám sử dụng kịch bản này, mà phải sử dụng chính quyền thật Việt Nam Cộng Hòa để có căn bản pháp lý bảo vệ chủ quyền biển đảo theo công pháp quốc tế phải không nào?
Đúng là “dấu đầu, lòi đuôi”, tương tự như kịch bản ngụy dân tộc để tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam dưới ngọn cờ “Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc” đã lòi đuôi sau khi chiếm được Miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước tiên lên “xã hội chủ nghĩa”. Vì lãnh tụ cộng đảng Viêt Nam Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Đối với cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa Mác Lê không những là một cẩm nang thần kỳ mà còn là mặt trời soi sáng con đường thẳng tới thắng lợi cuối cùng, tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”. Còn Lê Duẩn, cố tổng Bí thư đảng CSVN từng tuyên bố “Ta đánh Mỹ đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.Một tự thú làm công cụ tri tình cho cộng sản quốc tế tiến hành “chiến tranh cách mạng”,“Chiến tranh giải phóng” nhuộm đỏ Miền Nam và toàn thế giới của cộng sản quốc tế (đã thất bại hoàn toàn).
5.- Vậy nếu gọi chính quyền VNCH là chính quyền tay sai, quân đội VN CH là lính đánh thuê, thì phải gọi chính quyền VNDCCH và quân đội cộng sản Bắc Việt là gì cho đúng thực chất và thực tế đây?
Vậy khách quan sử gia Ts Trần Đức Cường gọi chính quyền và quân đội Miền Bắc là gì khi đã nhận viên trợ vũ khí, lương thực, đạn dược, quân trang quân dụng và khí tài quân sự, kể cả chi viện người của Liên Xô, Trung cộng và các  nước “Xã Hội Chủ Nghỉa anh em” là gì? Chính quyền VNDCCH có phải là chính quyền tay sai và quân đội NDVN ở Miền Bắc lúc đó có phải là lính đánh thuê cho Liên-Xô, cho Trung Quốc không? Vậy tại sao Ông và các sử gia của chế độ lại cho chính quyền và quân đội  VNCH là chính quyền tay sai, là lính đánh thuê của “đế quốc Mỹ” điều mà chính quyền, quân đội và tất cả những người Việt quốc gia chân chính từng chiến đấu bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị VNCH ở Miền Nam không nghĩ thế bao giờ?
Khách quan công bằng mà nói trong bối cảnh cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa hình thành sau Thế Chiến II, Việt Nam có số phận không may rơi vào thề gọng kìm của cuộc chiến toàn cầu này. Đất nước bị chia đôi, với một đất nước hai chế độ, hai chính quyền trong hai chế độ chính trị đối nghịch: Miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa nằm trong quỹ đạo phe Xã hội Chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô. Miền Nam xây dựng chế độ tự do dân chủ, nằm trong quỹ đạo các nước tư bản chủ nghĩa hay còn gọi là “Thế giới tự do”, đứng đầu là Hoa Kỳ. Chính quyền và quân đội trong chế độ XHCN Miền Bắc nhận chi viện lương thực, vũ khí và khí tài quân sự của Liên Xô, Trung Quốc, ngụy dân tộc làm “chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc” để xâm chiếm Miền Nam, cộng sản hóa cả nước. Chính quyền và quân đội chế độ VNCH ở Miền Nam nhận viện trợ kinh tế, vũ khí và các phương tiện chiến tranh của Hoa Kỳ và đồng minh để làm “tiền đồn Thế giới tự do” thực hiện chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh thôn tính do Miền Bắc phát động. Dầu muốn dầu không, cả hai chính quyền, quân đội của hai chế độ đối nghịch Bắc-Nam đều là công cụ của ngoại bang; có khác chăng chính quyền cộng sản Bắc Việt đã là một công cụ tri tình (tình nguyện tích cực làm nghĩa vụ quốc tế CS), trong khi chính quyền quốc gia ở Miền Nam đã là một công cụ ngay tình (bị buộc làm công cụ “Tiền đồn thế giới tự do, trái với ý muốn…) nên mới có việc lật đổ sát hại Ngô Đình Diệm, người đứng đầu chính quyền Đệ Nhất VNCH (mà Hồ Chí Mình từng thừa nhận “Diệm có cách yêu nước của Ông ấy”) vì chính quyền này không muốn làm công cụ chống cộng cho Hoa Kỳ, không muốn Hoa Kỷ và đồng minh đưa quân chiến đấu vào Miền Nam, giúp cho cuộc chiến tranh xâm chiếm Miền Nam ngụy dân tộc của CSBV có chính nghĩa “Chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc”.
Vậy thì, theo thiển ý, muốn viết lịch sử về cuộc chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) hội đủ tính khách quan lịch sử, các sử gia của cả hai phía Quốc-Cộng phải đứng trên lập trường dân tộc, dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa yêu nước mà viết sử, không thế đứng về một bên trong cuộc chiến mà viết lịch sử cho đất nước và dân tộc.
Thiết tưởng, ngày nào các sử gia của chế độ đương quyền (cũng như chế độ đã mất quyền VNCH)  còn đứng trên lập trường quan điểm của một bên trong cuộc chiến Quốc-Cộng hôm qua (1954-1975) thì mọi công trình viết sử đều không có giá trị lịch sử vì nặng tính chủ quan, một chiều.Có chăng chỉ có giá trị tuyên truyền cho mỗi bên trong cuộc chiến và là tài liệu tham khảo cho các sử gia chân chính sau này mà thôi.
Vì nếu các sử gia của chế độ đương thời mà viết lịch sử cho dân tộc thì phải đứng trên “lập trường dân tộc”, dưới ánh sáng soi đường của “chủ nghĩa yêu nước”; chứ không phải đứng trên “lập trường giai cấp vô sản”, dưới ánh sáng soi đường của “chủ nghĩa cộng sản Mác-Lênin” để viết như thế.
Đến đây xin thưa với Phó Giáo sư Tiến sĩ Trần Đức Cường và các sử gia của chế độ Cộng Hòa  Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, những thành phần ưu tú và được ưu đãi của hàng ngũ “trí thức xã hội chủ nghĩa” hiện nay tạiViệt Nam, rằng nếu muốn viết lịch sử cho đất nước và dân tộc hội đủ tính khách quan của lịch sử, thì các sử gia phải hoàn toàn độc lập trong suy tư, nhận thức khi viết sử, trong bối cảnh khác hơn hoàn cảnh “chim lồng, cá chậu” mà các sử gia đang sống hiện nay. Đồng thời, chính các sử gia cũng phải giác ngộ để thoát ra khỏi não trạng nô dịch mà nền giáo dục, tuyên truyền một chiều của đảng và chế độ đã tạo ra, mới có thể viết lịch sử cho đất nước về thời kỳ có cuộc “Nội Chiến Ý Thức Hệ Quốc- Cộng” tại Việt Nam một cách khách quan được. (Viết thế nào về thời kỳ này mới đúng là viết lịch sử cho đất nước (Chính sử), chúng tôi sẽ trình bầy trong một bài viết khác).
Tựu chung, nếu vượt thoát được những điều kiện chủ quan cũng như khách quan nêu trên, các sử gia mới đúng là sử gia để viết đúng thực chất cũng như thực tế một cách khách quan về một giai đoạn lịch sử có cuộc nội chiến tạm gọi là “Quốc-Cộng phân tranh ” , tương tự  như thời kỳ “Trịnh – Nguyễn phân tranh” hay “Mười hai sứ quân” trong Lịch sử Việt Nam.Vì tính khách quan của lịch sử về hai cuộc nội chiến trước đây trong lịch sử, hiển nhiên không thể do các sử gia của họ Trịnh hay họ Nguyễn viết hoặc của các lãnh chúa trong 12 sứ quân viết phải không ạ?- Thưa các sử gia của đảng và chế độ đương thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Thiện Ý
Houston, ngày 26-8-2017


LUẬT SƯ ĐOÀN CÓ PHẢI LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?



LUẬT SƯ ĐOÀN CÓ PHẢI LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?

Thiện Ý


Có người cho rằng câu trả lời đã có sẵn trong tiêu đề trên. Vì theo cơ cấu tổ chức trong chế độ độc tài đảng trị hay tòan trị công sản bao lâu nay ở Việt Nam, luật sư đoàn là môt tổ chức nghề nghiệp mang tính công đoàn, đương nhiên nằm trong Mặt Trần Tổ Quốc Việt Nam, là tổ chức ngoại vị của đảng CSVN, có nhiệm vụ quản lý các hoạt động của các đoàn thể chính trị, tôn giáo, nghề nghiệp. Mỗi luật sư đoàn đều chịu sự lãnh đạo của chi bộ đảng, thì đương nhiên luật sư đoàn phải là công cụ của đảng CSVN chứ còn là gì nữa?
Tuy nhiên, đó là ý định chủ quan của đảng CSVN, khác với ý muốn của cá nhân các luật sư trong các luật sư đoàn tại Việt Nam. Vì vậy thực tế mới có những luật sư đã bất chấp hiểm nguy và những bất lợi cho việc hành nghề, đã có những hoạt động độc lập khi thực hiện chức năng nghề nghiệp trước các cơ quan tư pháp (như công an tư pháp, Tòa án và viện kiểm sát các cấp..) cũng như sinh hoạt trên nhiều lãnh vực ngoài xã hội. Tất nhiên, để có được những hành động độc lập tự chủ này, các luật sư thường phải trả giá bằng những khó khăn gặp phải khi hành nghề, có khi phải vào tù chỉ vì muốn bảo vệ công lý cho người dân thấp cổ bé miệng. Điển hình như các luật sư Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài đã hay đang phải ngồi tù; hay gần đây nhất là luật sư  Võ An Đôn, một luật sư nổi tiếng với những vụ bào chữa miễn phí giúp phơi bày tình trạng công an đánh chết dân, có thể bị Đoàn Luật sư Tỉnh Phú Yên kỷ luật vì những phát biểu chia sẻ trên Facebook cá nhân.
Theo thông báo từ Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư Tỉnh Phú Yên gửi ngày 17 tháng 8 cho luật sư Đôn được phổ biến trên mạng xã hội, luật sư Đôn đang bị xem xét kỷ luật vì trang Facebook Đôn An Võ của anh “có nhiều bài viết, clip nói xấu luật sư” cũng như những cuộc phỏng vấn giữa anh với “các đối tượng ở nước ngoài với các nội dung kích động, xuyên tạc không đúng sự thật, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước và luật sư Việt Nam…”

Trên trang Facebook Đôn An Võ, đính kèm theo thông báo này, luật sư Đôn khẳng định quyền tự do ngôn luận của mình và tố cáo Đoàn Luật sư chịu “sự chỉ đạo từ phía cơ quan nội chính và an ninh” để tìm cách bịt miệng làm anh im tiếng, “không cho nói sự thật.”; và rằng “Luật sư có cái miệng để nói, nhưng không cho tôi nói sự thật về bản chất nghề nghiệp của mình để mọi người trong xã hội biết, thì làm sao nghề luật sư ở Việt Nam phát triển được?”.

Trong một bài viết đăng ngày 6 tháng 7 trên Facebook, luật sư Đôn chỉ trích một quy định vừa ban hành của Liên đoàn luật sư Việt Nam cấm luật sư nói và viết có hại cho chế độ đôc tài toàn trị cộng sản trên mạng xã hội, mà theo anh là nhằm bịt miệng những cá nhân luật sư ít ỏi trong giới luật sư ở Việt Nam “dám lên mạng xã hội viết bài, bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề xã hội được dư luận quan tâm.”. Luật sư Đôn bình luận “Họ sợ vì luật sư là thành phần tri thức ưu tú của xã hội, uy tín xã hội của luật sư rất lớn, luật sư nói lên sự thật và chỉ trích những chính sách sai lầm của chính quyền, cũng như việc làm sai trái của quan chức nhà nước,”

Nhiều người được biết trước đây, luật sư Võ An Đôn từng bị đe dọa kỷ luật và thu hồi chứng chỉ hành nghề liên quan đến vụ án “Năm công an đánh chết dân” mà anh phơi bày và dấn thân theo đuổi công lý từ năm 2014.Luật sư Đôn được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao giải Nhân quyền năm 2016 vì các hoạt động bảo vệ cho quyền con người, bất chấp rủi ro và đe dọa.

Như vậy là sau khi quốc hội Việt Nam trong Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá 14 vào tháng 6-2017, trong lập pháp đã “cải lùi” hệ thống tư pháp Việt Nam khi giữ lại trong dự thảo sửa đổi, bổ sung nơi Điều 19, Khoản 3 Bộ luật Hình sự 2015, buộc luật sư phải tố cáo những điều thân chủ tiết lộ riêng với mình về các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, vi phạm trắng trợn vai trò, chức năng, bí mật nghề nghiệp của giới luật sư. Nay luật sư đoàn Phú Yên trong nghĩa vụ công cụ cho đảng và chế độ đã đưa ra quyết định có tính răn đe, rằng sẽ kỷ luật luật sư Võ An Đông do các hoạt động thể hiện trên facebook những suy tư độc lập thuộc quyền tự do tư tưởng, ngôn luận; cũng như trong lãnh vực nghê nghiệp, vì công lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng cho các thân chủ của mình cũng như dân oan.

Là một luật sư từng hành nghề trong ngành tư pháp chế đệ dân chủ pháp tri Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975 và nay đang được sống tại Hoa Kỳ, một nước có tiếng là dân chủ bấc nhất trên thế giới, người viết không khỏi phẫn nộ và xin bầy tỏ sự cảm thông, chia sẻ những áp bức, bất công và hiểm nguy khi hành nghề với luật sư Võ An Đông và các luật sư đồng nghiệp đang hành nghề trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản (đỏ vỏ xanh lòng) hiện nay tại Việt Nam.

Chúng tôi ước mong rằng, đất nước Việt Nam ta sớm chuyển đổi hòa bình, tịnh tiến từ chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị hiện nay qua chế độ dân chủ pháp trị, để quyền hành nghề độc lập, tự do của giới luật sư cũng như các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam phải được nhà cầm quyền tôn trọng, bảo vệ và hành xử trọn vẹn như trong các nước dân chủ, văn minh trên thế giới ngày nay.

Thiện Ý
Houston, ngày 20-8-2017


TẠI SAO ĐẢNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CSVN DÁM COI THƯỜNG NHÂN DÂN VÀ THÁCH THỨC CÔNG LUẬN QUỐC TẾ ĐẾN THẾ?



TẠI SAO ĐẢNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CSVN DÁM COI THƯỜNG NHÂN DÂN VÀ THÁCH THỨC CÔNG LUẬN QUỐC TẾ ĐẾN THẾ?

Thiện Ý

Theo tin tổng hợp truyền thông quốc tế và quốc nội Việt Nam, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (CSVN) trong ba tháng liên tiếp (Tháng 5, tháng 6 và tháng 7 năm 2017)  vừa qua, đã ào ạt bắt giam và truy tố theo các điều 79 (Tuyên truyền chống phá nhà nước…) và 88 (Âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân…) của Bộ Luật HSVN, đã xử phạt bằng những bản án nặng nề đối với các nhà bất đồng chính kiến hàng đầu tại Việt Nam.

Đó là việc nhà cầm quyền CSVN bắt giam và kết án nặng nề Bloger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh ở Nha Trang thuộc Trung phấn Việt Nam, với án 10 năm tù giam, 5 năm quản chế; Bloger Thúy Nga tức Trần Thị Nga ở Hà Nam thuộc Bắc Phần Việt Nam, với án 9 năm tù giam, 5 năm quản chế.Nhưng gần nhất là vào những ngày cuối tháng 7-2017 vừa qua, Bộ Công an CSVN đăng tin hôm 30/7 nói bộ bắt tạm giam các ông Phạm Văn Trội, 45 tuổi; Nguyễn Trung Tôn, 45 tuổi; Trương Minh Đức, 57 tuổi; và Nguyễn Bắc Truyển, 49 tuổi, căn cứ vào Điều 79 Bộ luật Hình sự.

Bộ Công an nói 4 người kể trên bị khởi tố và bắt tạm giam vì có vai trò trong vụ án mà bộ gọi là “Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Theo lời bộ này, vụ việc “xảy ra tại Hà Nội và một số địa phương khác”, có tổng cộng 6 bị can trong vụ án. Ngoài 4 người mới bị bắt, nhà chức trách Việt Nam đã bắt hai người khác hồi cuối năm 2015, là ông Nguyễn Văn Đài, 48 tuổi; và bà Lê Thu Hà, 35 tuổi.

Đứng trước các sự kiện trên, nhân dân trong nước rất bất bình và phẫn nộ, các chính phủ dân chủ đứng đầu là hoa Kỳ,các tổ chức quốc tế bảo về nhân quyền  đã đồng loạt lên án nghiêm khắc và quyết liệt đòi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do tức khắc, vô điều kiện cho những người chỉ vì bầy tỏ bất đồng chính kiến một cách ôn hòa với chế độ đã bị kết án nặng nề hay đang bị giam giữ chờ ngày xét xử.

Đến đây một câu hỏi được nhiều người đặt ra: Tại sao đảng và nhà cầm CSVN lại dám có  các hành động coi thường nhân dân và thách thức công luận quốc tế đến như thế?

Câu trả lời theo nhận định của chúng tôi là:

Đảng và nhà cầm quyền CSVN đang đứng trước nhiều khó khăn phức tạp về đối nội cũng như đối ngoại; nội bộ đảng cầm quyền thì có những mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn) giữa các nhóm lợi ích đã và đang diễn ra dưới chiêu bài chống và tiêu diệt tham nhũng để loại trừ nhau. Vì thế cần giữ vững an ninh chính trị nên đảng và nhà cầm quyền CSVN cần triệt hạ mọi mầm mống có thể gây bạo loạn lan rộng đe dọa đến sự tồn vong của đảng và chế độ  CSVN. Việc bắt giữ hàng loạt các nhà dấu tranh cho các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền vốn có sức thu hút quần chúng trong nước, chính là một trong những nỗ lực hàng đầu vừa có tính răn đe, vừa có mục đích tiêu trừ hậu hoạn từ trong trứng nước.

Đây rõ ràng là những hành động vi phạm trắng trợn các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, không chỉ xét theo chuẩn mực công pháp và tư pháp quốc tế, mà vi phạm chính bản Hiến pháp hiện hành của chế độ liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân.

Vậy tại sao đảng và nhà cầm CSVN lại dám có  các hành động coi thường nhân dân và thách thức công luận quốc tế đến như thế?

Về mặt chủ quan, dám coi thường nhân dân có thể là vì đảng và nhà cầm quyền CSVN đã tự tin một cách sai lầm rằng, với những công cụ “chuyên chính vô sản” (bịp, chuyến chính tư sản “Đỏ vỏ xanh lòng” mới đúng) trong tay (quân đội, công an,mật vụ, Tòa án, nhà tù, pháp trường…); lại không có một lực lượng đối trọng nào khả dĩ lật đổ được chế độ; nhân dân thì mang thân phận “cá nằm trên thớt”, ô hợp, thiếu lãnh đạo nên không thể tập hợp được thành sức mạnh đe dọa đến sự tồn vong của chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị “đỏ vỏ xanh lòng” hiện nay. Đo đó “Đảng ta” muốn làm gì thì làm, dân phải chịu thôi.

Nhưng đã tự tin một cách sai lầm,vì dường như đảng và nhà cầm quyền CSVN đã quên hay cố tình quên những luận điểm Mác-Lênin về đấu tranh giai cấp (giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị;và rằng ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh…) và sức mạnh của quần chúng (cách mạng là sự nghiệp của quần chúng mà) một khi phát triển đến biên độ “tức nước vỡ bờ”( kinh điển cộng sản gọi là “Tình thế cách mạnh chín muồi” ấy mà). Nói thế chắc “các đồng chí cộng sản” của “Đảng ta” nhớ lại những luận điểm này khi chưa cướp được chính quyền và nay hiểu ra rồi chứ?

Về mặt khách quan đảng và nhà cầm quyền CSVN dám thách thức công luận quốc tế đến như thế, là vì áp lực quốc tế trên các hồ sơ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, bao lâu nay chỉ có hiệu quả hạn chế nếu có tác hại hay vì lợi ích nào đó buộc được nhà cầm quyền CSVN phải tạm thời lùi một bước, để sau đó lại “tiến hai bước” vi phạm nhân quyền.Thực tế,dương như nhà cầm quyền CSVN  cố tình tạo ra nhiều “thành tích” vi phạm nhân quyền, càng nhiều càng tốt để có điều kiện mà cả hầu đạt những lợi ích nào đó trong quan hệ quốc tế song phương cũng như đa phương?

Trong khi đó, bao lâu nay áp lực quốc tế song phương cũng như đa phương thường chỉ tỏ ra quyết liệt trên nguyên tắc và ngôn từ; tỷ như chỉ lên án mạnh mẽ các vụ vi phạm nhân quyền, kèm theo đòi hỏi phải trả tự do tức khắc, vô điều kiện cho những người bị bắt bớ tù đầy vì các hoạt động đấu tranh ôn hòa cho các quyền dân sinh, dân chủ và nhân quyền...Thế nhưng đã không đi kèm những biện pháp trừng phạt các hành động vi phạm nhân quyền có hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp nhãn tiền đến quyền lợi của cá nhân lãnh đạo hàng đầu (các cán bộ đảng viên cấp cao của đảng và nhà nước CSVN) và tập đoàn thống trị độc quyền là đảng CSVN.

Chính những quyền lợi thiết thân này vốn được những người lãnh đạo các cấp của đảng CSVNđ coi trọng hơn quyền lợi của đất nước và nhân dân.Điển hình mới nhất là việc “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh ở Đức đem về Việt Nam xét xử tội tham nhũng, vi phạm chủ quyền, luật pháp nước Đức cũng như công pháp quốc tế. Hành vị phi pháp này được thực hiện bất kể những hậu quả nhiều mặt cho đất nước, mà chỉ vì nhu cầu cấp bách đánh tham nhũng đang được người đứng đầu đảng CSVN phát động, mà thực chất có thể chỉ là bình phong để các phe nhóm lợi ich loại trừ nhau. Do đó, nếu tác động được vào quyền lợi thiết thân của giai cấp độc quyền thống trị của chế độ, mới hy vọng ngăn chặn và đẩy lùi được từng bước các hành động vi phạm nhân quyền của đảng và nhà cầm quyền CSVN, làm cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam tăng tốc, ngõ hầu sớm có được một chế độ dân chủ pháp trị như mong ước của toàn dân Việt Nam bấy lâu nay.

Luật Magnisty của Hoa kỳ trong đó có các điều khoản chế tài các viên chức của bất cứ quốc gia nào có “thành tích vi phạm nhân quyền” khi đến Hoa Kỳ, dường như tạo thêm áp lực hữu hiệu theo chiếu hướng vừa nêu. Tuy nhiên, trong cuộc gặp Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc  mấy tháng trước đây ở Florida, Tổng Thống  Hoa kỳ Donald Trump đã không có lời nhắc nhở nào về tình trạng vi phạm nhân quyên ở Việt Nam mà chỉ quan tâm đến cái lợi kinh tế, với 3 tỷ dollar ông Phúc hứa là sẽ mua khí tài quân sự của Hoa Kỳ. Sự thể này khiến nhiều người cho rằng, cũng là yếu tố khách quan để đảng và nhà cầm quyền CSVN mạnh tay bắt bớ hàng loạt các nhà bất đồng chính kiến trong 3 tháng qua, không sợ công luận quốc tế.

Dẫu sao trên đây cũng chỉ là cách trả lời bằng sự suy đoán chủ quan của người viết, nên độ chính xác không thể bằng chính câu trả lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phe cánh của ông trong nội bộ đảng CSVN; rằng “Tại sao đảng và nhà cầm quyền CSVN dám coi thường nhân dân và thách thức công luận quốc tế đến như thế?”; khi bắt giam hàng loạt và xử án nặng nề hàng chục năm những phụ nữ chân yếu tay mềm như các Blogers Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga và những người khác. Tất cả họ chỉ dùng ngòi bút đấu tranh ôn hòa, hợp pháp, cho các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền cho nhân dân, không có vũ khí gì trong tay, sao có thể “lật đổ được chính quyền” của đảng CSVN được bảo vệ “vững chắc”bởi các lực lượng “Chuyên chính vô sản” (đỏ võ xanh lòng) là quân đội, công an, mật vụ, Tòa án, hà tù và pháp trường?

Như vậy là đảng CSVN cầm quyền hiện nay chỉ có tài bắt nạt dân, trách chi dân gian mới có câu Đảng Cộng sản Việt Nam hèn với giặc, ác với dân thật không oan trái chút nào.

       Thiện Ý
Houston, ngày 12-8-2017(VOA)

ĐỐI SÁCH HAI MẶT CÙA BẮC KINH TRÊN HỒ SƠ HẠT NHÂN BẮC TRIỀU TRIỀU TIÊN.



ĐỐI SÁCH HAI MẶT CÙA BẮC KINH TRÊN HỒ SƠ HẠT NHÂN BẮC TRIỀU TRIỀU TIÊN.

Thiện Ý

      Theo nhận định của chúng tôi, Bắc Kinh đã và đang thực hiện đối sách hai mặt trên hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên, mà chúng tôi tạm gọi là đối sách “Lá mặt, lá trái” để  thủ lợi.
 
     Lá mặt là Trung Quốc  bề ngoài cố tạo ra cho chế độ Bắc Triều Tiên “bộ mặt độc lập tự chủ” và mối quan hệ Trung-Triều là quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia có chủ quyền. Do đó vẫn đã, đang và sẽ có thêm nhiều mâu thuẫn giả tạo trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng; và để giải quyết những mâu thuẫn này đảng và nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn phải tỏ ra có nhiều khó khăn, cần nhiều nỗ lực thuyết phục, áp lực theo đường lối ngoại giao thông thường hay đặc biệt, chứ không thể ra lệnh, ép buộc đảng và nhà cầm quyền Bắc Triều Tiên như một công cụ. Nhưng tất cả chỉ là những động tác giả nhằm che đậy “Lá trái”.

     Lá trái là thực chất mối quan hệ Trung -Triều là quan hệ bất bình đẳng và lệ thuộc toàn diện. Từ quá khứ trong chiến tranh ý thức hệ, đến hiện tại trong chiến lược toàn cầu mới, Bình Nhưỡng  chỉ có chủ quyền trên nguyên tắc,lệ thuộc toàn diện chính trị, kinh tế, quân sự quốc phòng vào chế độ Bắc Kinh trên thực tế. Chính sự lệ thuộc này  đã biến Bình Nhưỡng thành công cụ  chiến lược một thời của Trung Quốc trong quá khứ cũng như hiện tại.Sự sống còn chế độ Bình Nhưỡng hoàn toàn tùy thuộc vào cách ứng xử của chế độ Bắc Kinh.
  
    Hiện tại thực hiện  đối sách “Lá mặt, lá trái” trên hồ sơ hạt nhân của Bình Nhưỡng, Bắc Kinh bề ngoài bao lâu nay luôn tỏ ra không tán đồng, chống đối cầm chừng và tham gia có mức độ, lúc mạnh, lúc yếu,các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc đối với các hành động thử nghiệm vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Bình Nhưỡng. Thế nhưng bên trong, từ lâu dường như chính Trung Quốc đã là nước duy nhất hay là chính yếu bên cạnh một vài nước khác (như Nga, Iran…) vẫn lén lút bao che, hổ trợ, cung cấp phương tiện, nguyên liệu hay làm thay để Triều Tiên có được và trở thành nước có vũ khí hạt nhân với hai ý đồ:

- Một là để Bình Nhưỡng dùng vũ khí hạt nhân hù dọa theo kiểu “Chén sành đổi chén kiểu” để “tống tiền” Hoa Kỳ và các nước giầu có trong vùng  như Nhật Bản, Hàn Quốc hay quốc tế nói chung (nhận viện trợ để đổi lại việc ngưng các cuộc thử nghiệp hạt nhân…, tạo thế để không bị các nước lớn “Bắt nạt”, trừ Trung quốc (không bắt nạt mà phải vâng lời)

 - Hai là để Bắc Kinh có điều kiện và cơ hội được quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, phải cầu cạnh như một nước duy nhất có ảnh hưởng quyết định được đối với Bình Nhưỡng, để có thế làm cao giá mặc cả thủ lợi, khi được yêu cầu làm áp lực hay đứng ra làm trung gian triệu tập các hội nghị đa phương hat song phương với Bình Nhưỡng. Ví dụ các hội nghị sáu bên (Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Trung Quốc với Bắc Triều Tiên) trong quá khứ; hay hội nghị tay đôi giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên trong tương lai, để giải quyết vấn đề thử nghiệm hạt nhân của Bình Nhưỡng.

     Thế nhưng sau đôi ba lần hội nghị đa phương bất thành, nay tình hình thực tế trong vùng ngày một căng thẳng khi Bình Nhưỡng bất chấp lệnh trừng phạt gia tăng mức độ của Liên Hiệp Quốc và các động thái quân sự có tính cảnh cáo, răn đe của Hoa Kỳ,  tiếp tục thử nghiệm nhiều lần vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo; mà lần gần nhất có tính thách thức là vào đúng ngày dân Mỹ đốt pháo bông mừng quốc khánh July.4th vừa qua, Kim Jong Un đã bắn thử tên lửa ICBM rớt trên mặt biển Nhật Bản. Cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo này được đánh giá là thành công và có khả năng đưa đầu đạn nguyên tử đến Alaska và đảo Guam của Hoa Kỳ.   Phải chăng vì vai trò trung gian vẫn còn giá trị lợi dụng đối với Trung Quốc, hay chưa đến lúc đủ lợi cho phép công cụ của mình chấp nhận bất cứ giải pháp nào liên quan đến thử nghiệm hạt nhân của Bình Nhưỡng, nên chưa có kết quả chung cuộc ?
     Chẳng thế mà mới đây, qua các cuộc gặp bên lề Hội nghị G-20 ở Hamburg (7 và 8 Tháng 7) ở Đức quốc, hai ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin cùng đề nghị một cách hòa giải giữa Tổng Thống Trump với Kim yong Un, là Bắc Hàn ngưng chế tạo thêm bom hạt nhân và tên lữa đạn đạo; đổi lại, Mỹ và Nam Hàn sẽ ngưng tập trận chung và rút giàn phi đạn chống hỏa tiễn THAAD đi chỗ khác. Phải chăng đây là sáng kiến của họ Tập được Putin tán đồng; có thể là kết quả toan tính thủ lợi gì đó giữa hai người đứng đầu hai cựu cường quốc cộng sản Nga-Hoa, sau ba lần gặp nhau trong vòng sáu tháng qua?
     Tất cả những suy luận trên đây của chúng tôi đều  dựa trên quan sát diễn biến các sự kiện lịch sử và thực tế: Rằng một chế độ độc tài toàn trị nhỏ yếu, tự cô lập trong nhiều thập niên qua (1948-2017) với thế giới bên ngoài, kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, đa số nhân dân sống trong cảnh lầm than, chết đói, chết lạnh thường xuyên; tương phản với đời sống sa hoa, no thừa của giai cấp thống trị và những thành phần dân chúng được tuyển chọn để có hình ảnh tốt đẹp khoa trương tuyên truyền lừa bịp với thế giới bên ngoài; thì làm sao có thể tự tồn trong nhiều thập niên qua, lại có thể tự chế tạo ra được vũ khí hạt nhân, tên lửa tầm trung, tâm xa, cũng như trang bị nhiều khí tài quân sự hiên đại phô trương sức mạnh quân sự, quốc phòng của Bình Nhưỡng …nếu không có vai trò chủ yếu nuôi sống, hổ trợ mọi mặt chế độ này của Trung Quốc. Vì vậy chúng tôi cho rằng chế độ cộng sản Bắc Triều Tiên tồn tại được trong nhiều thập niên qua là dựa chủ yếu vào Trung Quốc và việc chế độ Bình Nhưỡng có được vũ khí hạt nhân và các tên lửa đạn đạo không phải do khả năng tự thân nghiên cứu, điều chế, tích lũy chất liệu chế tạo vũ khí hạt nhân và các nguyên liệu chế tạo các tên lửa tầm trung và tầm xa.

     Thực tế, theo suy đoán của chúng tôi, có thể là Trung Quốc từ lâu đã âm thầm huấn luyện nhân sự, cung câp kỹ thuật, chất plutonium và các nguyên vật liệu (hoặc Trung Quốc đã làm thay tất cả rồi bán lại hay viện trợ) để Bình Nhưỡng có được vũ khí hạt nhân và các tên lửa đạn đạo. Trong giai đoạn đầu mọi sự chuẩn bị có thể đã được thực hiện ngay trên đất Trung Quốc để tránh sự phát hiện của Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và quốc tế. Sau đó, bước vào giai đoạn thử nghiệm, bắt đầu thiết lập cơ sở chế tạo ở nội địa Bắc Triếu Tiên để rồi vào thời điểm thích hợp bắt đầu cho thử nghiệm như chuyện đã rồi, cố ý lộ ra cho Hoa Kỳ và quốc tế biết, để khởi sự thực hiện ý đồ dùng  vũ khí hạt nhân để hù dọa, “tống tiền” Hoa Kỳ và quốc tế ( với Bình Nhưỡng) và  thực hiện đối sách hai mặt “Lá mặt lá trái” để thủ lợi (với cả Bắc Kinh).
   
    Nhớ lại thời điểm thích hợp đó được khởi sự đầu tiên vào đúng ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ July 4Th năm 2006, Bắc Hàn đã phóng thử ít nhất là  6 tên lửa trong đó có 5 tên lửa tầm trung và một tầm xa Taepodong-2 mà tầm bắn là 6000 Km, tức có thể phóng tới nhiều phần đất của Hoa Kỳ. Ba tháng sau, vào ngày Mùng 9 tháng 10 năm 2006 Bắc Hàn  lại  thực hiện một  cuộc thử nghiệm bom hạt nhân đầu tiên tại một địa điểm phía Bắc của tỉnh Hamkyon, một vùng thuộc Miền Đông Bắc xa xôi của Bắc Hàn, cách biên giới Trung Quốc khỏang 120Km.

     Theo thống tấn xã Bắc Hàn KCNA thì vụ nổ lúc đó được thực hiện ngầm dưới đất  và đã thành công mà không có sự rò rỉ phóng xạ. Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã họp, nhưng không  đạt được thống nhất về một biện pháp chế tài mạnh mẽ nào đối với Bắc Hàn vì có sự ngăn cản của Nga và Trung Quốc. Trung quốc dù cũng lên án việc thử vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn kêu gọi Bắc Hàn trở lại bàn đàm phán và  không  chấp nhận biện pháp trừng phạt quân sự đối với Bắc Hàn. Phát ngôn nhân Bộ Ngọai Giao Trung Quốc Lưu Kiến Siêu khi đó nói “ Chúng tôi kiên quyết phản đối dùng quân sự để giải quyết việc trang bị vũ khí nguyên tử trên bán đảo Triều Tiên. Đó là quan điểm trước sau như một của chúng tôi”. Mãi sau này, khi Bình Nhưỡng gia tăng các cuộc thử nghiệm hạt nhân, Bắc Kinh mới miễn cưỡng tham gia nghị quyết trừng phạt của Liên Hiệp Quốc (lá mặt), song vẫn ngầm hổ trợ (lá trái)
     Thế nên từ đó đến nay Bắc Triều Tiên đã tiếp tục thực hiện đến cả chục cuộc thử nghiệp hạt nhân cũng như tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa, bất chấp mọi biện pháp trừng phạt gia tăng cường độ của Liên Hiệp Quốc. Trong khi Bắc Kinh thì vẫn tiếp tục đối sách lập lờ hai mặt “lá mặt lá trái”.
     Đến đây có lẽ ai cũng hiểu,vì sao chế độ Bắc Triều Tiên dám ngoan cố và tiếp tục có hành động ngang ngược, thách thức quốc tế như vậy, nếu không phải vì Bắc Kinh đã, đang và tiếp tục là chỗ dựa vững chắc của Bình Nhưỡng? Và như thế mọi biểu hiện mâu thuẫn trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng, nhất là trên hồ sơ hạt nhân của Bình Nhưỡng, bao lâu nay đều mang tính giả tạo. Vì nó không đúng với thực chất mối quan hệ bao lâu nay,giữa một cường quốc đại Hán theo chủ nghĩa bá quyền (Trung Quốc) đất rộng (9.632.790 km2), người đông, (khoảngtrên 1 tỷ 300 triệu) đầy tham vọng bá quyền; với một tiểu nhược quốc láng giềng có “sông liền sông, núi liền núi” (Bắc Triều Tiên), đất hẹp (122.762 km2), ít người (khoảng 40 triệu) tự cô lập với thế giới, từ quá khứ đến hiện tại luôn lệ thuộc mọi mặt và đã chấp nhận là công cụ của cường quốc này để sống còn.
     Tất nhiên, hơn ai hết các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã biết và chắc phải biết thực chất mối quan hệ Trung-Triều và vai trò của Trung Quốc trên hồ sơ hạt nhận Bắc Triều Tiên. Chẳng thế mà vào Tháng Tư năm nay, khi gặp Chủ tịch Trung Quốc  Tập Cận Bình ở Mar-a-Lago, Florida, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã “tuýt” rằng ông sẽ trao đổi với nhà lãnh đạo Trung quốc: Không tấn công thương mại nước Tàu nữa; để đổi lại, họ Tập sẽ dạy bảo Kim Jong Un đừng đi quá trớn.Thế những kết quả trao đổi này vẫn chưa xẩy ra trên thực tế. Phải chăng Bắc Kinh muốn mà cả đòi hỏi thêm nữa sự nhượng bộ của Washington, tỷ như đòi Hoa Kỳ và Nam Hàn phải ngưng tập trận chung và rút giàn phi đạn chống hỏa tiễn THAAD đi chỗ khác, rồi mới “Bảo Kim Yong Un  ngưng thử nghiệm hạt nhân và tên lửa đạn đạo, rồi “ép” phải ngồi vào bàn hội nghị để đi đến giải pháp chung cuộc trên hồ sơ hạt nhân Bắc Triều Tiên? Nếu giả như Bình Nhưỡng không nghe (hay làm bộ không nghe), Bắc Kinh sẽ “Cắt hoàn toàn nguồn máu” nuôi sống Bình Ngưỡng bấy lâu nay, để chứng tỏ hiểu quả do uy lực, cũng là công  sức của mình tạo ra trong việc mà cả, trao đổi lợi ích với Hoa Kỳ ?
                   Thiện Ý
Houston, ngày 9 tháng 7 năm 2017(VOA)

VÌ SAO ĐẢNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CSVN DÁM THÁCH THỨC CÔNG LUẬN QUỐC TẾ VÀ COI THƯỜNG NHÂN DÂN?



VÌ SAO ĐẢNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CSVN DÁM THÁCH THỨC CÔNG LUẬN QUỐC TẾ VÀ COI THƯỜNG NHÂN DÂN?

Thiện Ý

Bản án 10 năm tù vừa được Tòa án của chế độ CSVN ngày 29-6-2017 tuyên phạt đối với blogger Mẹ Nấm, tức bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh chỉ vì những bài viết trên Facebook về chính trị và môi trường liên quan đến những sự thật mà nhà cầm quyền muốn bưng bít trước nhân dân và công luận quốc tế.Thế nhưng nhà cầm quyền CSVN đã dựa trên Điều 88 của Bộ luật Hình sự hiện hành, từng bị coi là phản dân chủ, để  truy tố và kết án Bà Như Quỳnh về tội tuyên truyền chống Nhà nước”, với cáo trạng cưỡng ép, chủ quan, trái sự thật; rằng từ năm 2010 đến tháng 10/2016, blogger Mẹ Nấm đã sử dụng Facebook cá nhân để đăng tải chia sẻ "nhiều bài viết sai sự thật, không có căn cứ, tuyên truyền đả kích đường lối" của đảng Cộng Sản Việt Nam, xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam...

Bản án đã gây bất bình, phẫn nộ trong nhân dân và công luận quốc tế.Nhiều tổ chức bảo vệ nhân quyền đã lên tiếng phản đối bản án cũng như nhiều chính phủ các nước dân chủ đã lên án và đòi trả tự do tức khắc, vô điều kiện cho blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một nữ anh thư của Việt Nam từng nhận được giải thưởng Những Người Phụ Nữ Quốc Tế Can Đảm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hồi tháng 03/2017.Vì vậy, ngoài các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền như Human Rights Watch của Mỹ (HRW ) gọi cáo buộc của tư pháp Việt Nam là "quá đáng"; tổ chức bảo vệ nhà báo Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) của Pháp kêu gọi Việt Nam hủy bỏ phiên tòa và trả tự do vô điều kiện cho blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh…Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã nhanh chóng lên án và đòi trả tự do vô điều kiện cho blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Sự thể này khiến nhiều người cho rằng dường như nhà cầm quyền CSVN đã cố tình đưa ra một bản án nặng nề để làm giá mà cả đối lấy một cái gì đó có lợi cho đảng và chế độ CSVN; với suy đoán kết cuộc rồi đây blogger Mẹ Nấm có thể được phóng thích thẳng từ nhà tù qua Hoa Kỳ như  các nhà bất đồng chính kiến trước đây (Ls Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, cựu sĩ quan công an Tạ Phong Tần…) ?

Đến đây một câu hỏi được đặt ra, là vì sao đảng và nhà cầm quyền CSVN dám ngang nhiên thách thức công luận quốc tế và coi thường nhân dân khi tiếp tục kết án nặng nề những nhà bất đồng chính kiến thể hiện nhận thức quan điểm chính trị, xã hội, nhân sinh của mình một cách ôn hòa như blogger Mẹ Nấm?

Theo nhận định của chúng tôi:

1/- Vì đảng và nhà cầm quyền CSVN chủ quan tin rằng, với tư thế độc quyền thống trị trong một chế độ độc tài toàn trị, được bảo vệ vững chắc của các lực lượng “Chuyên chính vô sản” (giả mạo giai cấp) là quân đội, công an, cảnh sát.

Thực tế lại không có một lực lượng chính trị quân sự nào có khả năng đối trọng đe dọa lật đổ được chế độ; quần chúng nhân dân đông đảo nhưng ô hợp, phần đông an phận vì sau nhiều năm sống trong sự kìm kẹp của “chế độ công an trị”, phần bị “liệt kháng”, phần thấy đời sống nay đã dễ thở hơn nhiều so với thời kỳ “xây dựng xã hội chủ nghĩa” nghẹt thở, nên thúc thủ, không dám hay không muốn có phản ứng trước chủ trương, chính sách và hành động cai trị sai trái, bất công và bất nhân của đảng và nhà cầm quyền CSVN.Do đó, đảng và nhà cầm quyền CSVN vẫn an nhiên tự tại, muốn làm gì thì làm, chẳng sợ ai là vậy.

2/- Vì đảng và nhà cầm quyền CSVN, về khách quan coi thường những áp lực quốc tế bao lâu nay, nếu có làm mất uy tín chế độ, cũng chẳng đe dọa được gì đối với sự tồn vong của chế độ độc tài toàn trị của đảng CSVN.

Vì trong chế độ này, nhà cầm quyền cai trị không dựa vào uy tín và cũng không cần uy tín với nhân dân và quốc tế mà dựa trên bạo lực nòng súng, lưỡi lê trấn áp. Trong khi bao lâu nay, trước các hành động đàn áp vi phạm các quyền dân chủ dân sinh và nhân quyền, quốc tế nói chung, các chính quyền dân chủ nói riêng, đứng đầu là Hoa Kỳ, quá lắm cũng chỉ lên án, đòi hỏi thế này thế khác, nhưng không có biện pháp tích cực nào có hiệu quả buộc được nhà cầm quyền CSVN giảm bớt hay chấm dứt các hành động vi phạm các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền.

Trái lại, đảng và nhà cầm quyền CSVN thường đã tương kế tựu kế gia giảm các hành động trấn áp, bắt giam, kết án nặng nề những người bất đồng chính kiến nổi tiếng trong nước như cái giá để mà cả với các chính phủ dân chủ hầu đạt một lợi ích chính trị hay kinh tế nào đó cho chế độ. Thực tế đã từng xẩy ra nhiều lần và vì vậy mới có dự luận đồn đoán bản án nặng nề 10 năm tù dành cho blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh vừa qua, có thể nằm trong ý đồ đen tối nào đó của nhà cầm quyền CSVN. Chúng ta hãy chờ xem.

Chúng tôi tạm kết luận, rằng ngày nào Việt Nam còn tồn tại chế độ độc tài đảng trị hay toàn trị hiện nay, nhà cầm quyền CSVN vẫn sẽ tiếp tục thách thức công luận quốc tế và coi thường nhân dân; vẫn tiếp tục tạo “thành tích vi phạm nhân quyền” như cái giá để mà cả hầu đối lấy lợi ích nào đó không phải cho nhân dân, cho đất nước mà cho đảng và nhà cầm quyền CSVN.

            Thiện Ý
Houston, ngày 2-7-2017




HỆ THỐNG TƯ PHÁP VIỆT NAM ĐANG ĐƯỢC “CẢI TIẾN” HAY “CẢI LÙI” ?



HỆ THỐNG TƯ PHÁP VIỆT NAM ĐANG ĐƯỢC “CẢI TIẾN” HAY “CẢI LÙI” ?

Thiện Ý

Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá 14 đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 2015.Trong một phiên họp của Quốc hội, Đại biểu Bắc Kạn Nguyễn Thị Thủy đề nghị đưa vào Bộ luật Hình sự 2015 nghĩa vụ của luật sư phải tố giác thân chủ mình khi phạm một số tội nghiêm trọng, đặc biệt là tội xâm phạm an ninh quốc gia. Lý do người đề xuất áp dụng trách nhiệm hình sự đối với luật sư không tố giác thân chủ phạm tội là vì nhân dân, vì sự bình yên của nhân dân. Nhiều người cho rằng đây là một đề xuất khá bất thường, đáng lo ngại. Vì những đề xuất bất thường này xem ra lại được sự ủng hộ của không ít đại biểu Quốc hội. Bằng chứng là đề nghị này đã được giữ lại trong dự thảo sửa đổi, bổ sung nơi Điều 19, Khoản 3 Bộ luật Hình sự 2015, dẫn đến một phản ứng mạnh mẽ của nhân dân trong nước, nhất là  giới luật sư và luật gia.

Một câu hỏi được đặt ra: Quốc hội Việt Nam đang cải tiến hay cải lùi hệ thống tư pháp và pháp luật nói chung, luật pháp liên quan đến nghề luật sư tại Việt Nam nói riêng ?

Trong văn thư của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đề ngày 12-6-2017 “Về việc góp ý đối với Khoản 3 Điều 19 của Bộ luật Hình sự 2015”, sau khi đưa ra ba căn cứ lập luận khá vững chắc, đã đi đến kết luận rằng  Việc giữ lại Khoản 3 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 là một bước lùi trong pháp luật hình sự; tạo sự xung đột pháp luật với các quy định có liên quan; hạ thấp vai trò, chức năng xã hội của luật sư; làm “vẩn đục” đạo đức nghề nghiệp luật sư, đi ngược lại thông lệ của nghề luật sư trên thế giới. Và như thế là không phù hợp với Chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính Trị và chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ…”

Tranh luận xung quanh việc luật sư có nghĩa vụ tố giác thân chủ, trong một bài viết trên báo điện tử Người Đưa Tin,GS.TS Lê Hồng Hạnh - Viện trưởng viện Pháp luật và Kinh tế ASEAN, Tổng Biên tập tạp chí Pháp luật và Phát triển, đã đưa ra  8 căn cứ lập luận để đi đếnkiến nghị loại bỏ luật sư ra khỏi chủ thể phải tố giác tội phạm…”.
Ông viết “Loại bỏ luật sư ra khỏi các chủ thể phải tố giác tội phạm theo Điều 19, Dự thảo luật Sửa đổi, bổ sung BLHS 2015. Đó là phương án tối ưu để đảm bảo cho hệ thống pháp luật Việt Nam không mâu thuẫn với các công ước quốc tế đã ký và đặc biệt là đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, với chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về thúc đẩy và phát triển dân chủ. Phương án này cũng cho thấy giá trị đạo đức và nhân văn của pháp luật hình sự Việt Nam….”.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với các căn cứ và lập luận của đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh và của Giáo sư Tiến sĩ Lê Hồng Hạnh. Chúng tôi cho rằng nếu quốc hội đương nhiệm giữ  lại và thông qua Khoản 3 Điều 19 trong luật bổ sung Bộ luật Hình sự 2015, là đã “cải lùi” chứ không “cải tiến” hệ thống tư pháp nói chung và luật pháp liên quan đến nghề luật sư nói riêng. Điều này trái với tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính Trị và kế hoạch 5-KH/CCTP ngày 22-2-2006 của Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương; trái với Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5-7-1011 của Thủ tướng Chính phủ. Tất cả đều theo chiếu hướng cải cách là để đáp ứng với đòi hỏi thực tế, phù hợp với thời kỳ “mở cửa” hội nhập với thế giới bên ngoài (sau 1995); sau khi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thất bại(1975-1985), không thể cứu vãn dù đã cố gắng thực hiện chủ trương chính sách “Đổi mới” (1985-1995).
Hiệu quả chủ trương chính sách “Mở cửa” để cứu nguy chế độ sau hơn 20 năm từ 1995 đến nayViệt Nam đã thay da đổi thịt như thế nào, bộ mặt phồn vinh ra sao; nhân dân Việt Nam đã có được một đời sống tốt đẹp hơn so với 20 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975-1995) không cần nói ra thì mọi người ai cũng thấy. Đó là nhờ sự chuyển đổi kính tế qua con đường làm ăn “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như đảng và nhà nước nói để tuyên truyền lừa mị; song thực chất cũng như thực tế “Kinh tế thị trường” đã và đang theo định hướng “tư bản chủ nghĩa” đã là tất yếu.Nhưng cũng chính sự chuyển đổi kinh tế theo chiều hướng này đã đưa đến chuyển  biến về mặt chính trị theo chiều hướng dân chủ hóa từng bước nên thực tế các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền người dân ngày càng được tôn trọng và hành xử ra sao so với hơn 20 năm trước đây ai cũng biết.  Do đó, hệ thống tư pháp và pháp luật Việt Nam cần “cải tiến” cho phù hợp cũng là một “tất yếu”. Trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của luật sư Việt Nam cũng cần được nâng cao ngang tầm cao của một luật sư quốc tế là điều cần yếu. Vì vậy, quy chế pháp lý, qui định pháp luật cho cá nhân cũng như đoàn thể luật sư Việt Nam cũng không thể khác với các luật sư và luật sư đoàn quốc tế. Nghĩa là luật sư phải được luật pháp bảo vệ các quyền hành nghề như các luật sư khác trên thế giới, trong đó có quyền độc lập, an toàn cá nhân, quyền giữ bí mật nghề nghiệp, không thể quy kết trách nhiệm hình sự chỉ vì luật sư đã không khai báo những gì mà thân chủ tin cậy đã cho mình biết trong các vụ án mà mình nhiệm cách. Vả lại, khi nhiệm cách cho một thân chủ, các hành vi phạm pháp đã xẩy ra hay chưa kịp xẩy ra bị can đã bị bắt giữ; việc điều tra, tìm bằng chứng kết tội là nhiệm vụ của các cơ quan điều tra (công an, viện kiểm sát…); trong khi luật sự chỉ làm nhiệm vụ gỡ tội, minh oan cho thân chủ (nếu thực sự họ vô tội), hay tìm cách làm giảm nhẹ hình phạt (nếu thân chủ có đủ chứng cớ phạm tội thật mà có những tình tiết giảm bớt hình phạt).Đây là một nguyên tắc quốc tế bất di bất dịch thể hiện sự quân bình và công bình trong việc xét xử và kết án những nghi can trước tòa án: Công tố buộc tội, luật sư gỡ tội, chánh án hay hội đồng xét xử nghe lý lẽ, bằng chứng đôi bên để kết tội hay tha bổng.
Nay nếu quốc hội thông qua điều luật buộc luật sư phải tố cáo tội trạng của thân chủ mình, là “cải lùi” về thời kỳ “bào chữa viên nhân dân” với “Đoàn bào chữa viên nhân dân” là những cá nhân công nhân viên (một trong những điều kiện..) trong một đoàn thể công quyền như công tố đoàn và thẩm phán đoàn đều có ăn lương nhà nước, chung nhiệm vụ xét xử tội phạm theo các nghị quyết của đảng (về chủ trương, chính sách được thể chế hóa thành pháp luật ). Pháp lệnh ngày 18-12-1987 của Hội đồng Nhà nước về tổ chức luật sư và nghị định số 15/HĐBT ngày 21-2-1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chê Đoàn luật sư. Căn cứ trên những văn kiện pháp lý hành chánh này, các Đoàn luật sư được thành lập thay thế cho các đoàn bào chữa viên nhân dân trên cả nước. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành quyết định số 635/QĐ-UB ngày 24-10-1989 V/V Thành lập Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, nơi “Điều 3: Đoàn Luật sư thành phố được chính thức hoạt động và đoàn bào chữa viên nhân dân thành phố chấm dứt hoạt động kể từ ngày ban hành quyết định này”.
Nhớ lại vào năm 1989 khi thành lập Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, theo yêu cầu góp ý với Đại Hội 8 đảng CSVN của Hội Luật Gia Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đó còn ở trong nước, tôi đã viết bài tham luận “Vai trò của luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa”. Hai năm sau, một nhân viên báo Sàigòn Giải phóng có đến gặp tôi nói là để đưa tiền nhuận bút 30 đồng lúc đó cho bài tham luận vừa nêu được báo đăng tải và chuyển  đạt lời mời cộng tác viết bài cho báo của lãnh đạo. Tôi ngạc nhiên nói là bài tham luận này tôi đã viết cách nay hai năm mà. Nhân viên này cho hay là vì lúc đó “Đảng chưa có quan điểm về dân chủ pháp trị” nên không dám đăng mà giữ lại vì thấy có giá trị.Như thế phải chăng bắt đầu từ sau năm 1989 đảng và nhà nước CSVN mới có quan điểm về “Dân chủ pháp trị”? Thế nhưng cho đến nay việc thực hiện quan điểm này có tiến bộ đôi chút, nhưng vẫn không thoát được vòng Kim cô “Xã hội chủ nghĩa” nên các quyền dân sinh, dân chủ và nhân quyền vẫn chưa thực hiện đầy đủ, vẫn bị bóp nghẹt. Công cuộc cải cách hệ thống tư pháp và luật pháp trong đó có luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư vẫn nửa nạc nửa mỡ?
Thực ra khi chúng tôi đưa ra tiêu đề tham luận “Vai trò của luật sư trong nền dân chủ pháp trị xã hội chủ nghĩa” vào thời điểm năm 1989 là có tính gượng ép cho phù hợp thời thế. Vì “Dân chủ pháp trị” (cai trị bằng pháp luật) không thể có trong “chế độ xã hội chủ nghĩa(độc tài toàn trị, cai trị bằng nghị quyết của đảng CS độc quyền thống trị). Do đó trong bài tham luận mới đây về luật hóa buộc luật sư phải tố cáo tội lỗi thân chủ của mình, Gs.Ts Lê Hồng Hạnh có lẽ cũng đã gượng ép theo kiểu viết và lách, rào trước đón sau khi mở đầu bài viết “Tôi mong Bộ luật Hình sự sau khi được ban hành sẽ không một lần nữa trở thành đề tài phê phán của xã hội, đồng thời để nền dân chủ và hệ thống tư pháp hình sự của đất nước không phải trải nghiệm những bước lùi được báo trước. Bài viết này trao đổi một số vấn đề về hình sự hóa việc luật sư không tố giác thân chủ phạm tội…”
Chúng tôi thành tâm ước mong quốc hội hiện nay trong thời kỳ “Mở cửa”(hội nhập vào nền văn minh thế giới) phải là quốc hội của dân, khác với quốc hội trong thời kỳ “Đóng cửa” (xây dựng xã hội chủ nghĩa khép kín đã thất bại hoàn toàn) là quốc hội của đảng CSVN. Sự khác biệt cần được thể hiện qua nhiệm vụ lập pháp theo chiều hướng cải tiến hệ thống tư pháp và pháp luật, trong đó có pháp luật liên quan đến nghề nghiệp luật sư, đóng vai trò cần yếu trong “nền dân chủ pháp trị” thay vì cố duy trì hệ thống tư pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa lỗi thời.
            Thiện Ý
Houston, ngày 30-6-2017 (VOA)

HỆ QUẢ CỦA MỘT BIỆN PHÁP PHI PHÁP LÝ TRONG VỤ NHÂN DÂN XÃ ĐỒNG TÂM ĐÒI CÔNG LÝ.



HỆ QUẢ CỦA MỘT BIỆN PHÁP PHI PHÁP LÝ TRONG VỤ   NHÂN DÂN XÃ ĐỒNG TÂM ĐÒI CÔNG LÝ.

Thiện Ý.

     Như mọi người đã biết, vào khoảng trung tuần tháng 4-2017 , khoảng 6000 người dân thuộc xã Đồng tâm, Huyên Mỹ Đức thuộc ngoại thành Hà Nội, đã bắt giữ khoảng một trung đội cảnh sát cơ động đến cưỡng chế giải tỏa dất đai của họ, để cho tập đoàn viễn thông quân đội (Viettel) sử dụng làm ăn kinh tế.

     Sau gần một tuần những nhân viên công lực thi hành lệnh cưỡng chế mới được nhân dân thả ra, khi Phó bí thư kiêm Chủ tịch UBND thành phố Hà nội là Nguyễn Đức Chung, ngày 22-4-2017 đích thân đến Xã Đồng tâm điều đình và ký vào giấy cam kết gồm hai điểm chính: (1) Trong 45 ngày sẽ xem xét và giải quyết việc sử dụng đất đai cho quân đội, an ninh quốc phòng theo đúng pháp luật; (2) và “không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhân dân xã Đồng Tâm”, với sự chứng kiến của luật sư và các đại biểu quốc hội.
     Thế nhưng, nay theo báo chí trong nước hôm 13/6 đưa tin rằng cơ quan cảnh sát điều tra (Công an Hà Nội) đã khởi tố vụ án hình sự liên quan việc bắt giữ 38 người thi hành công vụ tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức) để điều tra về tội ‘bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật’ (theo điều 123 Bộ luật Hình sự) và ‘Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (theo điều 143 Bộ luật Hình sự)”. Quyết định bất ngờ này, khiến người dân xã ngoại thành Hà Nội “phẫn nộ” và thu hút sự quan tâm của công luận trong và ngoài Việt Nam.
     Theo nhận định của chúng tôi, thì đây là hệ quả tất nhiên của một biện pháp phi pháp lý được thực hiện bởi một viên chức đứng đầu chính quyền địa phương không có thẩm quyền tư pháp (công tố quyền) là ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà nội.Đúng ra khi điều đình với tập thể nhân dân xã Đồng Tâm, Ông Chung chỉ có thẩm quyền giải quyết nguyên nhân đưa đến việc người dân bắt giữ người thi hành công vụ  là cam kết (1) “Trong 45 ngày sẽ xem xét và giải quyết việc sử dụng đất đai cho quân đội, an ninh quốc phòng theo đúng pháp luật”; nhưng không được quyền cam kết (2) là “không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhân dân xã Đồng Tâm”. Vì khởi tố hay không là thẩm quyền của cơ quan tư pháp (là công an Hà Nội trong hiện vụ). Do đó đứng về mặt tư pháp cam kết (2) của ông Nguyễn Đức Chung là vô hiệu, đưa đến hệ quả dây chuyền sau đây về mặt thực tế.

1.- Hệ quả một là nếu đã đem lại hiệu quả nhất thời giúp nhà cầm quyền địa phương giải cứu được con tin và giải tỏa được một tình huống bạo động có thể lan rộng bằng biện pháp thương lượng chứ không trấn áp bằng sức mạnh của công an quân đội; nhưng lại đưa đến hậu quả tai hại về mặt tôn trọng pháp luật nhà nước, tạo ra một tiền lệ đưa đến việc nhân dân sau này có thể bắt giữ người thi hành công vụ mỗi khi cần con tin để buộc nhà cầm quyền phải quan tâm giải quyết các yêu sách của mình.

2.- Hệ quả hai, do từ hậu quả tai hại trong hệ quả 1, cơ quan tư pháp có thẩm quyền công tố (là công an Hà Nội trong hiện vụ) không thể làm ngơ trước một hành vi phạm pháp tập thể (bắt giữ người thi hành công vụ…) nên đã phải “khởi tố vụ án hình sự” dựa trên các Điều 123 và 143 Bộ Luật Hình Sự hiện hành.

3.- Hệ quả ba, do từ việc “khởi tố vụ án hình sự” trong hệ quả 2 đã đưa đến hậu quả làm mất úy tín của chính quyền, bị coi là “lừa bịp nhân dân” để thoát hiểm, đã vi phạm lời cam kết của người đứng đầu chính quyền địa phương là Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thanh phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung.

4.- Từ ba hệ quả trên đã dẫn đến hệ quả thứ tư là sự mâu thuẫn gây mất đoàn kết trong nội bộ đảng và nhà cầm quyền CSVM về cách thức và biện pháp giải quyết các mâu thuẫn giữa nhân dân nói chung và các tập thể nhân dân cá biệt nói riêng.

     Thực ra, cả bốn hệ quả trên đã không phải chỉ xây ra lần đầu ở xã Đồng Tâm, mà trong quá khứ đã từng xẩy ra ở một số nơi khác…Nhà cầm quyền cũng đã từng giải quyết theo sách “Mềm nắn, dắn buông” để thoát hiểm,bằng bất cứ biện pháp nào, với bất cứ thủ đoạn gian trá nào theo phương châm “cứu cánh biện minh cho hành động”. Nghĩa là tạm “lùi một bước” để sau đó “tiến hai bước”.

     Đây cũng là những hệ quả tất nhiên của chủ trương, đường lối, chính sách cai trị của chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Việt Nam bao lâu nay.Vì trong chế độ này, đảng CSVN cầm quyền không dựa vào uy tín mà dựa vào các công cụ chuyên chính là công an quân đội để trấn áp, cai trị dân. Vì vậy, đảng và nhà cầm quyền CSVN không sợ mất uy tín (vì có uy tin đâu mà sợ mất). Do đó, đảng và nhà cầm quyền CSVN đã không ngần ngại sử dụng mọi thủ đoạn gian trá, lừa lọc, tàn ác trong mọi tình huống đối với người dân bị trị, vì biết rằng thân phân người dân như cá nằm trên thớt, cuối cùng cũng chẳng làm gì được trước bạo quyền.

     Mặt khác, nhà cầm quyền trong chế độ độc tài toàn trị CSVN bao lâu nay không cai trị bằng pháp luật mà cai trị bằng nghị quyết hay nghị luật của một đảng độc quyền thống trị. “Đảng là pháp luật, pháp luật là đảng ta”!Đồng thời nguyên tắc phân quyền tam lập ở các nước dân chủ vẫn chưa được đảng và nhà cầm quyền CSV N chấp nhận. Vì vậy, không chỉ trong vụ việc Đồng Tâm, người đứng đầu nhà cầm quyền Hà Nội đã có hành động vượt quyền là “Cam kết không khởi tố nhân dân xã Đồng Tâm”, để rồi nay chính ông an Hà nội dưới quyền ông lại “ lật lọng” ra lệnh “Khởi tố thành vụ án hình sự đối với nhân dân Đồng Tâm”. Trước đây nhiều vụ việc đã xẩy ra và sau này, các vụ việc tương tự sẽ tiếp tục xẩy ra, ngày nào Việt Nam còn tồn tại chế độ độc tài toàn trị cộng sản, với những hệ quả như vừa phân tích trình bầy.

     Chúng tôi xin mượn lời nói của cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu để gửi đến nhân dân trong nước thay lời kết, là“Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” để cảnh giác và luôn luôn cảnh giác để không bị lừa bịp mà thiệt hại đến nhân thân, gia đình và đất nước.

            Thiện Ý

Houston, ngày 25-6-2017