HỘI CHỨNG CĂM THÙ TỪ VÀ SAU
CUỘC CHIẾN VIỆT NAM.
Thiện
Ý.
Nhân sắp đến ngày 30-4-2019 đánh dấu cuộc
chiến tranh Việt Nam chấm dứt 44 năm, trong hai tháng 1 và 2 vừa qua, người
viết có nhận lời mời tham dự liên tục 6 cuộc đối luận với một luật sư thế hệ trẻ
Việt Nam (1) trên hai đài truyền hình tại Houston. Mỗi cuộc đối luận thời lượng
50 phút. Vị chi tổng cộng là 300 phút tức 5 giờ đồng hồ.
Chủ đề đối luận trên Đài truyền hình thứ nhất liên quan đến lý do,mục
tiêu và phương cách chống cộng thế nào để thắng cộng,được thực hiện trong hai cuộc đối luận trình chiếu
liên tiếp trong 100 phút. Chủ đề đối luận trên Đài truyền hình thứ hai liên
quan đến vấn đề độc đảng, đa đảng nói chung và vận dụng vào Việt Nam
nói riêng; được thực hiện trong bốn cuộc đối luận trình chiếu trong 4 tuần liên
tiếp tổng cộng 200 phút.
Hình thức đối luận mang tính “Phản biện”. Vị luật sư trẻ đứng trên lập trường, quan điểm của Việt
cộng (Đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam
) nêu các câu hỏi. Người viết đứng trên lập trường, quan điểm của Việt quốc
(người Việt quốc gia) trả lời biện
luận và vị luật sư trẻ dùng những biện luận của Việt cộng để phản bác.
Sau khi trình chiếu trước sau cả sáu cuộc đối luận trên, chúng tôi ghi nhận những phản hồi (comments)) trái
chiều nhau của khán giả trong và ngoài nước.
1.- Đối với chủ đề trình chiếu trên Đài
truyền hình thứ nhất đưa lên youtub,
số người phản hồi tán đồng ca ngợi tôi cũng nhiều. Nhưng số người phản hồi bài
bác, chống đối vị luật sư trẻ còn nhiều và mãnh liệt hơn, thể hiện qua ngôn từ đôi
khi có tính nhục mạ thậm từ hay truy chụp là “Việt gian, tay sai cộng sản” cho thấy một cường độ “căm thù cộng sản” như trút lên đầu vị
luật sư trẻ này.
2.-Đối với chủ đề trình chiếu trên Đài
truyền hình thứ hai đưa lên youtub,
số người phản hồi tán đồng,ca ngợi vị luật sư trẻ hết lời, với số lượng lên đến
hàng chục ngàn người; so với số lượng chỉ hàng ngàn người tán đồng, ca ngợi tôi
trên youtup ở Đài truyền hình thứ nhất.Trong khi số người bài bác, miệt thị,
chê bai tôi còn nhiều hơn cũng lên đến cả chục ngàn phản hồi.
Điều không bình thường là đọc liên tục nhiều ý kiến phản hồi chỉ thấy
tán đồng, ca ngợi vị luật sư trẻ, tôi
không đọc được ý kiến phản hồi nào tán đồng ca ngợi tôi cả. Tôi có hỏi người
điều hành Đài truyền hình thứ hai cũng là bạn của chúng tôi về sự không bình
thường này. Sau khi coi lại anh cũng thấy như vậy và hứa sẽ kiểm tra lại trả
lời tôi sau. Đến nay chúng tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời về sự không bình
thường này.
Nhưng tôi có thể tìm được câu trả lời ngắn gọn là vì mặc dầu thâu hình ở một đài truyền hình ở Houston, nhưng lại được
chiếu trên một đài truyền hình ở nơi khác có chủ đích và khuynh hướng “thân công” như nhiều người cho tôi biết,
nên đài này chỉ gữ lại những phản hồi có lợi theo chủ đích. Vì vậy mới có số lượng tham gia đông đảo của hàng chục ngàn
“dư luận viên” (chúng tôi gọi là “Đặc tình truyền thông”), Hệ quả tất nhiên hầu hết
phải ca ngợi vị luật sư trẻ vì đã thay họ nói lên những quan điểm, lập luận của
“Đảng và nhà nước ta”. Đồng thời cắt
bỏ những phản hồi bất lợi và chỉ giữ lại những phản hồi có lợi cho “chế độ ta” mà thôi.
3.-Qua những ý kiến phản hồi sau 6 cuộc
đối luận trên cho thấy thực tế đã có một “hội
chứng căm thù” xuất phát từ cuộc chiến và sau cuộc chiến Việt Nam trong cả hai bên nội thù tham chiến (Việt quốc và Việt cộng), được thể hiện
qua cung cách, ngôn từ, thái độ,cường độ đối đáp nhau. Mặc dầu cuộc chiến chấm
dứt đã 44 năm rồi (1975-2019), cường
độ căm thù có giảm, nhưng vẫn tồn tại “hội
chứng căm thù” trong lòng một số người ở cả hai bên “Thắng cuộc” (Việt cộng) cũng
như “thua cuộc” (Việt quốc). Nhưng theo nhận định của
chúng tôi, sự thể hiện “hội chứng căm
thù” này có sự khác biệt giữa hai bên Việt quốc và Việt cộng. Vì sự hình
thành “hội chứng căm thù” ở mỗi bên
trong cuộc chiến và sau cuộc chiến có khác nhau.
4.-
Sự hình thành “Hội chứng căm thù từ cuộc chiến đối với bên Việt cộng, trước hết là do nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt khi
phát động chiến tranh cướp chính quyền quốc gia Nam Việt, đã thực hiện chủ
trương chính sách giáo dục tuyên truyền trong cán bộ đảng viên về lòng căm thù
giai cấp theo chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời giáo dục tuyên truyền trong nhân
dân về lòng căm thù giặc ngoại xâm (Đế
quốc Mỹ) bằng chủ nghĩa yêu nước. Tất cả nhằm trang bị lòng “căm thù giặc sâu sắc” làm động lực tiến
hành cuộc chiến tranh “giải phóng Miền
Nam” thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính động lực này đã
nâng cao tình thần chiến đấu và các hành động kiên quyết tiêu diệt quân thù,dù
bạo tàn cách mấy (theo phương châm cộng
sản “cứu cánh biện minh cho hành động”).
Vì vậy, trong chiến tranh bên Việt cộng đã
tung ra các hoạt động khủng bố như đặt chất nổ ở nhiều nơi, pháo kích hàng đêm
vào các thành phố Miền nam,giết hại nhiều người dân vô tội, gây ra biết bao tội
ác chiến tranh, mà đỉnh cao là cuộc tàn sát hàng ngàn người dân vô tội chôn
trong những ngôi mộ tập thể ở Huế trong cuộc tấn công đồng loạt vào các thành
phố Miền Nam Tết Mậu Thân 1968.
5.- Đối với bên Việt quốc, trong chiến
tranh, “hội chứng căm thù” hình thành do chính những hành động tàn ác của bên
Việt cộng như vừa nêu. Chứ không phải
như ông Nguyễn Đình Bin, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, nguyên
Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài mới đây phát biểu nhân kỷ niệm
15 năm thực hiện Nghị quyết 36 củ đảng CSVN. Rằng “Vì sao, cuộc chiến ác
liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc
ta, nói cho cùng đều là nạn nhân của sự đô hộ và xâm lược của nước ngoài nói
trên, vẫn chưa hòa giải được với nhau? Cũng chính sự đô hộ và xâm lược của nước
ngoài đã chia ly bao gia đình Việt và cả dân tộc Việt, gây ra cảnh huynh đệ
tương tàn trên đất nước ta. Thế mà ta đã hòa giải được với họ, còn chúng ta,
anh em một nhà “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương
nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?” .
Nhưng dẫu sao, “Hội chứng căm thù” chỉ là động lực phụ. Vì động lực chính để chiến
đấu của bên Việt quốc không phải là lòng căm thù, mà là lý tưởng tự do dân chủ
và trách nhiệm với tiền nhân, phải bảo vệ phần đất còn lại của quốc gia Việt Nam.
Đó là nội dung “Chính nghĩa quốc gia” cần
chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh thôn tính của cộng sản Bắc Việt. Một cuộc
chiến được phát động và tiến hành hành với mục đích đưa toàn cõi Việt Nam vào
vòng cương tỏa của cộng sản quốc tế; biến cả nước trở thành một thuộc địa kiểu mới của hai tân đế quốc
cộng sản Nga-Tàu.
Thế nhưng vì bên Việt quốc quá yếu kém về
lãnh đạo chính quyền, không làm sáng tỏ được “chính nghĩa quốc gia, dân tộc, dân chủ” đã bị ngoại bang lũng đoạn,
mất chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho bên Việt cộng “lộng giả thành chân” (ngụy dân tộc),
giật mất chính nghĩa quốc gia dân tộc của chính quyền chính thống quốc gia VNCH
ở Miến Nam Việt Nam. Hệ quả là Việt quốc ở thế bị động, bị buộc là “Bên thua cuộc” khi các cường quốc có
nhu cầu cần chấm dứt chiến tranh Việt Nam nói riêng và các cuộc chiến tranh cục
bộ khác ở các nước nghèo đói nói chung, để đi
vào một thế chiến lược quốc tế mới (Chiến
lược toàn cầu mới) hậu “Chiến tranh
lạnh” hay “Chiến tranh ý thức hệ toàn
cầu” giữa cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
6.- Chính vì bị buộc làm “Bên thua cuộc”
khi cuộc chiến kết thúc không bình thường, phi lý, bất công khiến bên Việt quốc phẫn nộ làm gia tăng cường đô “Hội chứng căm thù” sau chiến tranh.
Cường độ còn gia tăng hơn nữa do các chủ trương chính sách khắc nghiệt của “Bên thắng cuộc” đối với “Bên thua cuộc”. Như bắt hàng trăm ngàn
sĩ quan và lãnh đạo chính quyền các cấp đi tù cải tạo nhiều năm, gây khốn đốn
cho vợ con gia đình họ. Đồng thời, các biện pháp an ninh kìm kẹp và việc thực hiện
những chủ trương chính sách kinh tế mới hà khắc đã gây khổ lụy cho người dân
Miền nam vốn từng sống ổn định, ấm no
dưới chế độ cũ. Những người chống đối chế độ bị “Bên thắng cuộc” trấn áp khốc liệt bằng nhà tù, pháp trường…
Tất cả đã đưa cường độ “Hội chứng căm thù” đạt tới đỉnh cao
trở thành mãn tính trong một số người Việt quốc gia đến nỗi mỗi khi có mâu
thuẫn bất đồng về phương thức, quan điểm chống cộng, người ta đã chút “căm thù
Việt cộng” lên đầu nhau. Chính “Hội
chứng căm thù” này đã gây tác hại nhiều mặt cho công cuộc chống cộng vì dân
chủ của người Việt quốc gia. Đồng thời “Hội
chứng căm thù” ở cả hai bên Quốc-Cộng đã tác hại trên con người, xã hội và tình tự dân tộc Việt
Nam, đã lý giải cho điều mà Ông Nguyễn Đình Bin tự hỏi “Vì sao, cuộc chiến
ác liệt nhất đã kết thúc và đất nước đã thu về một mối hơn 4 thập kỷ mà dân tộc
ta..., anh em một nhà “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải
thương nhau cùng”, thì lại chưa hòa giải được với nhau?”.
Tựu chung, cuộc chiến Việt Nam đã
kết thúc 44 năm rồi. “Hội chứng căm thù” hình thành từ và sau cuộc chiến vẫn tồn tại, dủ cường độ có giảm dần
theo thời gian. Câu hỏi được đặt ra là “Hội
chứng căm thù” thể hiện giữa hai bên và trong nội bộ mỗi “Bên Thắng cuộc” (Việt cộng)
cũng như “Bên thua cuộc” (Việt quốc) bao giờ mới chấm dứt đây? Câu
trả lời xin dành cho mọi người Việt Nam ở cả hai “Bến thắng cuộc” cũng như “
Bên thua cuộc” trong cuộc chiến tranh “cốt
nhục tương tàn” hôm qua. Nhưng chủ yếu và chủ động vẫn là bên Việt cộng,
biết phải làm gì, cần làm gì để hóa giải “Hội
chứng căm thù” này. Đó là, tự giác, chủ động dân chủ hóa đất nước.
Vì ngày nào còn tồn tại “hội chứng căm thù” này trong lòng dân
tộc, không thể đoàn kết thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng phát
triển toàn diện đất nước mau đến giầu mạnh và văn minh tiến bộ ngang tầm cao
thời đại; tạo thế lực bảo vệ vững chắc giang sơn gấm vóc Việt Nam do tiền nhân
tạo dựng và sẵn sàng đập tan mọi tham vọng xâm lược bất cứ từ đâu tới, trước
mắt là kẻ thù Phương Bắc cận kề.
Thiện Ý
Houston, ngày 5-4-2019
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.