Tết đầu tiên trong biệt giam
số 9 công an thành phố Hồ Chí Minh
10/02/2021
Lá thư mà viên Đội Trưởng chấp Pháp T.A.N gửi cho tôi sau khi anh đổi về Bắc.
Thiện Ý
Hôm nay nhân dịp năm
hết Tết đến, Năm Canh Tý sắp qua, năm Tân Sửu sắp đến, chạnh
lòng tôi nghĩ đến thân phận những người đang bị cầm tù
vì đấu tranh ôn hòa cho mục tiêu dân chủ hóa
Việt Nam. Trong đó hàng đầu, điển hình mới đây
nhất là nhà báo độc lập, Tiến sĩ Phạm Chí
Dũng, và hai người khác trong Hội Nhà Báo độc lập do
ông đồng sáng lập, vừa bị kết án nặng nề hàng
chục năm tù.
Tôi không rõ nhà báo độc lập Phạm Chí
Dũng sau khi bị kết án có còn bị giam giữ ở trại tù
số 4 Phan Đăng Lưu? Đã ở
phòng biệt giam hay tập thể nào như tôi
từng ở cách nay hơn 40 năm (1978-2021)?
Nhớ lại, sau khi gặp và làm việc lần đầu
tiên với viên Đội trưởng chấp pháp T.A.N phụ trách điều tra
xét hỏi vụ án phản động Mặt trận nhân quyền Việt Nam (MTNQVN), tôi đã đón mừng
Giáng sinh đầu tiên trong bốn bức tường biệt giam số 6
nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu. Sau đó, vào khoảng
tháng 1 năm 1979, tôi bị còng tay, bịt mắt đưa lên xe bịt
bùng, chở qua một biệt giam mà sau đó được biết là biệt
giam số 9 trại giam công an Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM).
Khu biệt giam là hai dãy biệt
giam đối mặt cách nhau khoảng 3 mét, đánh số từ 1 đến 24,
số lẻ bên phải, số chẵn bên trái. Tôi ở biệt giam số 9.
Toàn khu biệt giam chìm trong bóng tối âm u, không có ánh mặt trời, chỉ có
ánh sáng lờ mờ hắt ra từ những bóng đèn nhỏ trên trần bê
tông cốt sắt, cạnh lỗ lưới thông hơi, đủ ánh sáng cho tù lao động đưa thức ăn
hàng ngày cho tù nhân qua cửa gió, hay công an quản lý trại
giam mở cửa sắt biệt giam dẫn tù đi gặp chấp pháp để làm
việc (hỏi cung).
Tôi bị giam ở đây khoảng một
tháng để làm việc với chấp pháp và đón Tết đầu tiên tại biệt
giam số 9 trại giam công an TPHCM. Thực ra Tết đối với một người tù
như tôi lúc đó, chỉ khác hơn
ngày thường là nghe thấy tiếng pháo đón Giao thừa nổ đì
đùng, gần xa. Gần nhất là tiếng pháo do công an nơi
giam giữ tù nhân đốt và những bản nhạc
“cách mạng (Đỏ)” ca ngợi Mùa Xuân nặng tính tuyên truyền như “Đảng
đã cho ta mùa xuân” của Phạm Tuyên, con của Thượng Thư Phạm Quỳnh bị Việt
Minh cộng sản thủ tiêu năm 1945 vì bị coi là “phản động”.
Nhưng nay, người con làm nhạc ca
ngợi kẻ đã giết cha mình vì “giác ngộ cách
mạng” hay tìm cách ẩn mình tìm chốn an
thân?
Mặt khác, Tết
cũng có khác hơn ngày thường, là tù nhân trong ba ngày Tết,
ngoài bo bo hay bánh bao (bột mì hấp không bột
nổi, khô
cứng) được
thêm món ăn mặn như thịt (ít) kho mặn với củ cải (nhiều) và món rau muống hay cải
xanh nấu canh hay xào với thịt heo (ít), tóp mỡ (nhiều)…
Điều đặc biệt khác nữa là
tôi và có lẽ nhiều tù nhân khác, cận ngày Tết đã
nhận được quà thăm nuôi để có được những
món ăn ngày Tết như mứt, bánh chưng, bánh tét, thịt kho
trứng nước dừa… Riêng tôi cho đến cái Tết đầu
tiên trong tù này nhận được quà nuôi hàng tháng, song vẫn chưa được gặp mặt
thăm của gia đình; tính ra đã khoảng 4 tháng kể từ ngày
bị bắt. Phải đợi gần một năm sau mới được gặp mặt lần đầu, gồm Mẹ, vợ và hai con gái nhỏ, đứa bốn tuổi, đứa hai
tuổi và một con trai mới chập chững biết đi. Vì khi tôi bị bắt (10-1978) cháu còn đang trong
bụng mẹ. Đây cũng là lần thăm gặp mặt duy
nhất trong suốt thời gian hai năm ngồi tù tại các
trại giam Phan Đăng Lưu, công an TPHCM, Chí Hòa, trước khi
đưa đi tù lao động cải tạo tại trại tù Z.30D, Hàm Tân, Thuận Hải. Nơi đây
tôi “ăn” cái Tết thứ ba trong tù trước khi được trả tự do.
Sau khi ổn định chỗ ở tù, tôi bắt đầu được gọi đi
làm việc liên tục mỗi ngày vào buổi sáng hay buổi chiều,
đôi khi vào buổi tối. Hai công an chấp pháp thay nhau hỏi
cung tôi đều là người Bắc, trạc tuổi tôi (lúc
đó là 34 tuổi). Trong lần làm
việc đầu tiên, một người tự giới thiệu tên Nguyễn Hy, dáng cao gầy,
khuôn mặt xương xương, nước da trắng xanh như người bị bệnh sốt rét. Người kia
tên Thái Hòa, tướng mập mạp, tầm thước, khuôn mặt đầy đặn, nước da bánh mật, sắc diện hồng
hào. Sau phần tự khai lý lịch cá nhân, tự khai
về vai trò và các hoạt động của tôi trong tổ chức
MTNQVN, họ bắt đầu hỏi cung, đặt ra những
câu hỏi chính yếu chỉ với mục đích qua lời
khai của tôi, bắt thêm nhiều người đã tham gia MTNQVN. Tất
nhiên, với kiến thức, kinh nghiệm của một luật sư, tôi đã làm thất bại ý đồ này
của những chấp pháp mà tôi đánh giá ở trình độ học trò
tôi về mặt nghiệp vụ điều tra tư pháp. Quả thật, tôi đã qua mặt được hai
anh công an chấp pháp không mấy khó khăn.
1 - Câu hỏi liên quan đến những người tôi đã tiếp xúc, kết nạp vào tổ chức
Vì trước khi bị bắt,
tôi đã nghi ngờ, tìm cách xác minh và biết rõ tổ chức đã
bị công an gài người là Q.T., Ủy
viên Tổ chức của MTNQVN. Tôi đã vượt biên đào thoát thất bại, bị bắt (22-10-1978). Do đó, tôi chỉ khai
những người tôi liên hệ mà Q.T. cũng biết, như Chủ tịch MTNQVN
(Gs Nguyễn Đình Phượng…) các Ủy
viên trung ương từng họp chung. Tất cả để công an tin là tôi đã “thành thật khai báo”, để dễ che dấu những gì
cần che dấu. Như để bảo vệ an toàn cho những người do tôi trực tiếp xây
dựng cơ sở, mà đã không báo cáo cho Ủy
viên Tổ chức MTNQVN là Q.T. nằm vùng biết.
Nghĩa là đường dây của tôi vẫn an toàn, ngoài tôi bị bắt, chỉ có một người khác cũng bị bắt.
Sau tôi được biết, gặp lại trong tù khi đi lao động, cùng Đội 34,
là anh Trịnh Hồng Thanh (có gặp lại
anh ở Houston cách nay khá lâu). Anh Thanh do tôi giới thiệu
tham gia nhiệm vụ Ủy viên Trung Ương đặc trách liên lạc tôn
giáo, mà Q.T. cũng biết vì đi họp chung.
2 - Những tài liệu của MTNQVN do tôi viết có ai cùng viết hay gợi ý,
góp ý?
Tôi khai với chấp pháp tất cả tài liệu do
một mình tôi viết cho MTNQVN như (1)
Tuyên ngôn Nhân Quyền Việt Nam 1977; (2) Chính cương và sách lược đấu
tranh của MTNQVN; (3). Điều lệ Nội quy hoạt động của
MTNQVN; (4) Tài liệu nghiên cứu lý luận: Thế chiến lược
toàn cầu mới của các cường quốc cực (Sau này đến Mỹ ấn
hành lần đầu 1995 thành cuốn
“Việt Nam Trong Thế Chiến
Lược Quốc tế
mới của các cường quốc cực”)
Sau khi nghe nhìn nhận tất cả tài
liệu trên đều do tôi viết, không có ai gợi ý,
góp ý, chấp pháp đã yêu cầu tôi viết lại
toàn bộ các tài liệu này. Người chấp
pháp thứ ba làm việc với tôi sau đó, tên Quyết, trẻ hơn
tôi, khoảng dưới 30 tuổi, người gốc Miền Nam. Nhưng anh này chỉ có
nhiệm vụ hàng ngày đem giấy bút cho tôi ngồi viết lại tài
liệu. Tôi đã viết lại một cách say sưa
quên thời gian, đến độ có lúc anh công an chấp pháp tên Quyết phải nhắc nhở: “Tôi thấy anh làm việc căng quá. Thôi anh nghĩ viết
đi và trao đổi với tôi một
chút cho thư giãn…”
3 - Ai đánh máy tài liệu cho anh?
Sự thực là vợ tôi
đã đánh máy các tài liệu tôi viết. Vì nhà ở chung cư, nên
tiếng máy đánh chữ các nhà lân cận tầng
trên, tầng dưới đều nghe thấy hết. Do đó thỉnh
thoảng tôi phải làm bộ đọc lớn tiếng một đoạn
giáo án dạy học để người nào nghe được sẽ nghĩ rằng vợ tôi
đang dánh giáo án cho tôi. Nhưng tôi đã khai là tất cả tài liệu tôi
viết đều nhờ thầy tôi là luật sư Trần Tân Thái, nhà ở cư xá
Lê Đại Hành, gần trường đua ngựa Phú
Thọ, đánh máy dùm. Tôi khai như vậy, vì
trước khi vào tù tôi đã biết rõ “Maitre” Thái đã
vượt biên thoát cùng với gia đình Ls Nguyễn
Đình Phương (hiện ở California).
Như vậy là cả ba loại câu hỏi chính yếu trên tôi đều qua
mặt được hai công an chấp pháp. Đúng như sau
này, khi kết thúc hồ sơ điều tra xét hỏi toàn vụ án
MTNQVN, viên Đội trưởng chấp
pháp tên T.A.N. nói với tôi:
·
- Khi mới bắt anh,
phân công cho các đồng chí
làm việc với anh, có đồng chí đã tránh né, không muốn làm việc với anh.
·
- Tại sao vậy? Tôi
hỏi lại.
·
- Vì họ biết anh từng là luật sư
trong chế độ Sài Gòn, nên họ ngại.
Cuộc trao đổi có
vẻ thân tình trên là vào thời điểm sau khi đã kết
thúc điều tra toàn bộ vụ án MTNQVN. Nhưng là
hệ quả do trước đó đã có những biến chuyển
tình cảm khó tin mà có thật xảy ra giữa
tôi, một tên tù phản động, với viên Đội trưởng
công an làm nhiệm vụ chấp pháp. Người mà trong niềm tin
tôn giáo tôi nghĩ là một ân nhân mà Chúa quan phòng đã gửi đến để cứu
tôi. Vì sau khi hồ sơ vụ án kết thúc khoảng 2 năm sau ngày bị bắt,
tôi được đưa từ nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu trở lại
công an TPHCM lần thứ hai. Lần này tôi không bị còng tay và bịt mắt, được xe La Dalat chở đưa vào
phòng giam tập thể, ở chung với một số khoảng 5 người tù, gốc cán bộ đảng viên bị tù vì tham ô. Điều lạ là họ cũng
như tôi được ăn cơm, thức ăn lấy từ nhà ăn tập thể, thay vì bo bo hay bánh bao, canh
rau muống vốn là đồ ăn phổ biến của tù. Thỉnh thoảng tôi lại nhận được đường, sữa, trái cây nói là của bạn gửi cho.
Lúc đó tôi nghĩ có lẽ là của
N.C.D, người bạn thân đảng viên cộng sản con nhà nòi mà tình bạn kết
thân từ thời sinh viên mà tôi đã đề cập trong một bài
viết trước đây trên diễn đàn này của VOA
(Thư Xuân viết về
và viết cho người bạn
thân, một đảng viên cộng
sản chân chính), gởi cho.
Sau một tháng ăn bồi dưỡng,
tôi được dẫn đến phòng làm việc gặp Đội trưởng chấp pháp T.A.N. Anh nói cho biết tội của tôi
nếu đem ra tòa xét xử thì ít nhất
cũng 10 năm tù. Nhưng xét lý lịch tốt, có cha đi kháng chiến chống
pháp, trở về thành ở lại Miền Nam sau Hiệp định Genève 1954, nhưng
không cộng tác với địch. Bản thân thuộc thành phần lao
động nghèo phấn đấu vương lên. Sau 1975 công tác có thành
tích tốt trong ngành giáo dục, được xây dựng tạo điều kiện cho
vào Đảng nhưng đã đánh mất cơ hội, lại dại dột sai lầm chống lại Đảng;
gia cảnh một mẹ già, vợ trẻ và đàn con nhỏ dại… nên lãnh đạo quyết định áp
dụng biện
pháp hành chánh với tôi; là tập trung lao động cải tạo 3
năm, tính từ ngày bị bắt. Đội trưởng chấp pháp nói “Tôi đưa anh
về đây bồi dưỡng một tháng tính chuẩn
bị cho anh về sớm.
Vì tôi có đề nghị lên trên cho anh về
sớm trước một
năm. Nhưng lãnh đạo không đồng ý. Vậy
anh gắng đi lao động cải
tạo thêm một thời
gian. Hãy cố gắng lao động
học tập tốt.
Tôi sẽ tìm cách thả cho anh sớm
về đoàn tụ với
gia đình, nếu có cơ hội…”
Lá thư mà viên Đội Trưởng chấp Pháp T.A.N gửi cho tôi sau khi anh đổi về Bắc.
Nghe viên Đội trưởng chấp pháp nói vậy,
tôi rất vui và có phần ngạc nhiên. Tôi không rõ do động lực gì
mà viên Đội trưởng này làm như vậy. Sau khi ra tù vợ tôi
cho hay có lần anh T.A.N đến thăm có nói “Tôi thương
anh Thắng lắm, vì anh cùng cảnh ngộ như tôi.” Đến lúc
này tôi vẫn không biết cảnh ngộ đó là gì. Nhớ lại, trước đó
có đôi lần viên Đội trưởng này cho gọi tôi đến gặp làm
việc. Nhưng không hỏi gì về vụ án mà chỉ hỏi thăm sức khỏe của tôi
và cuộc sống trong tù. Anh cho biết có đến
thăm gia đình tôi và cho tin mẹ, vợ con tôi vẫn khỏe; rồi khuyên tôi cứ an
tâm cải tạo cho tốt để được xét khoan hồng cho về sớm.
Sau mỗi lần gặp, anh đều cho tôi viết thư cho gia đình để anh chuyển trực tiếp,
không qua trại giam. Tôi nhớ một lần, sau khi hỏi thăm
tình hình sức khỏe, cuộc sống nơi trại giam như thường lệ, anh tâm sự: “Anh có biết tôi có được chỗ
ngồi như hôm nay là đã phải
trải qua biết bao sự
cay đắng không?”
Tôi hơi ngạc nhiên, thận trọng,
hoài nghi, đề phòng cái bẫy hỏi cung để khai
thác ở tôi điều gì đây. Tôi cố giữ bình thản
nhìn thẳng vào mắt anh như chờ đợi một lời giải thích hơn là dám góp ý bàn thêm theo chiều hướng
nói xấu chế độ mà anh vừa gợi ý. Sau một lúc
im lặng, nghiêng mặt đi hướng
khác, tránh cái nhìn thẳng vào mắt anh của tôi, anh nói như giải thích: “Chỉ vì vợ tôi là con địa
chủ mà tôi đã bị trù dập”.
“Anh
tưởng tôi có chỗ
ngồi thế này là vợ
con tôi ở ngoài Bắc sướng lắm à? - Vợ
con tôi phải mặc quần
vá mo vá đụp”. Rồi anh tự giải
thích: “Anh nghĩ
xem, mỗi năm cấp
cho tem phiếu chỉ cho mua ba bốn
mét vải thì làm sao không mặc
quần vá mo vá đụp…”
Sau lần đưa tôi trở lại công an TPHCM lần thứ hai, được bồi dưỡng một
tháng tính thả theo đề nghị của Đội trưởng chấp pháp T.A.N không thành, tôi được đưa trở về nhà
tù số 4 Phan Đăng lưu, ở phòng tập thể số 5
Khu C.2, đối diện với dãy biệt giam nơi tôi đã sống nhiều
ngày tháng tai biệt giam số 6.
Nhớ lại, khi mở khóa
cửa sắt buồng giam tập thể số 5 đưa tôi vào, anh em tù bu quanh hỏi dồn dập
- “mới bị
bắt, mới bị
bắt à? Tội gì vậy,
tội gì vậy?". Tôi thản
nhiên, vui vẻ trả lời:
- “ 17
tháng 20 ngày biệt
giam, tội phản động…”.
·
- Sao còn
tươi thế” (vì thấy tôi vẫn nụ cười trên môi, như bạn bè thường nói thấy tôi là thấy nụ cười)
·
- Vào đây không
tươi thì héo à? (Tôi đáp lại).
Vì vào tù tôi đã chấp nhận như một cuộc sống mới.
Tôi vẫn cố gắng sống theo định thức luyện ý chí từ thuở thiếu thời: “Hãy sống tích cực với
hiện tại, để
không bao giờ phải ân hận
với quá khứ, luôn luôn lạc
quan tin tưởng hướng về
tương lai”. Tôi đã sống
tích cực với hiện tại trong nhà tù như một giai đoạn cuộc đời; bằng một lịch
sinh hoạt phù hợp trong một ngày, một
tháng và cả năm thế nào cho hết thời gian trong 4 bức tường biệt
giam một cách hữu ích cho sức khỏe, tinh thần, ý
chí nghị lực..
Tôi đã sống trong buồng
giam tập thể số 5 ít tháng, ăn cái Tết thứ hai trong tù. Sau đó được
chuyển qua trại giam Chí Hòa, cùng một số anh
em bạn tù khác, trong đó có linh mục
Nguyễn Văn Vàng bị án chung thân vì tham gia thành lập và
hoạt động trong Mặt Trận Liên Tôn, với căn
cứ Phụng Thiên ở Long Khánh và được suy
tôn là Quốc Trưởng Việt Nam lâm thời. Còn bào đệ của Cha Vàng là Thiếu tá
Dù Nguyễn Văn Viên thì lãnh án tử hình vì được tổ chức đề cử Thủ tướng
Chính phủ quốc gia lâm thời. Chúng tôi sống
chung với Cha Vàng ở Phòng 11 Khu F, nhà tù Chí Hòa khoảng một
tháng thì được xe tải chở cùng nhiều anh em tù nhân khác, trong
đó có anh Trịnh Hồng Thanh cùng chung vụ án MTNQVN với
tôi, đến trại tù lao động cải tạo Z.30D, Hàm Tân, Thuận Hải. Nơi đây
tôi ăn Tết thứ ba trong tù trước khi được thả vào
cuối năm 1981
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.