Monday, April 20, 2020

Vì sao Việt Quốc chống cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ?



Vì sao Việt Quốc chống cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ?

Thiện Ý

Vì sao Việt quốc chống cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi lần lượt trình bày:
-         Việt quốc và Việt cộng là ai?
-         Vì sao Việt Quốc chống cộng?
-         Việt quốc chống cộng từ khi nào và cho đến bao giờ?

I/- VIỆT QUỐC VÀ VIỆT CỘNG LÀ AI?

Để trả lời câu hỏi này và để tránh hiểu lầm với ý nghĩ từ ngữ Việt Quốc viết tắt của Việt Nam Quốc Dân Đảng, cần định nghĩa “Việt quốc” và “Việt Cộng” được dùng trong bài này cũng các bài viết bao lâu nay của chúng tôi, để thấy rõ vì sao có cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài nhiều thập niên qua vẫn chưa chấm dứt.Theo chúng tôi:
   1.- Việt quốc bao gồm các chính quyền, các chính đảng quốc gia và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động chống cộng. Nói cách khác Việt quốc là những người Việt Nam không cộng sản, theo “ý thức hệ quốc gia”, tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam, coi quyền lợi dân tộc Việt Nam là tối thượng, kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của lịch sử Việt Nam, khởi đi từ Thời Hồng Bàng với các Vua Hùng dựng nước Văn Lang (tên cổ xưa của Việt Nam), qua các triều đại độc lập tự chủ do các vua quan Việt Nam cai trị đất nước (Đinh, Lê, Lý, Trần…) hay những thời kỳ dài ngắn bị ngọai bang xâm chiếm đô hộ (1000 năm Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc), với các anh hùng hào kiệt đã lãnh đạo nhân dân chống ngọai xâm, giành và giữ độc lập, tự chủ cho dân tộc, viết nên những trang sử oai hùng và vẻ vang cho dân tộc Việt (như Ngô Quyền, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt , Quang Trung, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thái Học…).
   2.- Việt cộng bao gồm đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chính quyền và quần chúng nhân dân có ý thức và hành động tri tình ủng hộ cộng sản (khác với bất đắc dĩ,bị ép buộc phải theo CS). Nói cách khác, Việt cộng là những người Việt Nam, theo Ý thức hệ cộng sản, tôn thờ “Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa” (Liên Xô đứng đầu Đệ tam quốc tế CS…), coi lợi ích quốc tế cộng sản là tối thượng, kế thừa thành quả đấu tranh giai cấp và tiếp tục thực hiện “chiến tranh cách mạng vô sản”, dưới ngọn cờ “chiến tranh giải phóng dân tộc (ngụy dân tộc) để cướp chính quyền, thực hiện chủ nghĩa xã hội, mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, cộng sản hóa Việt Nam cũng như toàn cầu, tách khỏi và chống lại dòng chính lịch sử dân tộc, xóa bỏ ranh giới quốc gia để hội nhập vào một “Thế giới đại đồng”(cộng sản chủ nghĩa)…

II/-VÌ SAO VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG?
    
Việt quốc chống cộng, vì:
1.-Trên bình diện lý luận: Chủ nghĩa cộng sản dù có là một lý tưởng nghe qua có vẻ nhân đạo, cao đẹp,có tính mê hoặc lòng người, nhất là những người trẻ tuổi vốn say mê lý tưởng cao cả khi vào đời. Thế nhưng không tưởng theo nghĩa một lý tưởng không thể, không bao giờ thực hiện được. Vì vậy, những cá nhân (đảng viên cộng sản) hay tập đoàn (đảng cộng sản) ở bất cứ quốc gia nào, khi vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tiễn đã chỉ là tai họa thảm khốc, xung đột giai cấp, chiến tranh hận thù, tiêu hủy tài nguyên quốc gia, tàn phá đất nước, hủy hoại mọi nền tảng đạo đức xã hội, văn hóa dân tộc, mất độc lập tự chủ (vì lệ thuộc cộng sản quốc tế…), đưa nhân dân vào cuộc sống mất tự do, đói khổ, lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân dân, phân hóa dân tộc… của quốc gia ấy.
Rốt cuộc, cái gọi là “cuộc cách mạng vô sản” để xây dựng “một xã hội không người bóc lột người” (từ xã hội chủ nghĩa, còn giai cấp, đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn nhà nước…), tất cả  chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống trị độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng cộng sản) để xây dựng “một xã hội người (với thiểu số cán bộ đảng viên CS) độc quyền áp bức bóc lột người ( tuyệt đại đa số nhân dân)”. Một sự độc quyền áp bức bóc lột tinh vi và tàn ác chưa từng có trong lịch sử hình thành  các hình thái xã hội loài người có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản…theo duy vật sử quan cộng sản).
2.- Trên bình diện thực tiễn:  Việt cộng nói riêng, cộng sản quốc tế nói chung,  đã tin theo và vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tế nước ta (cũng như  một số nước khác trên thế giới), đã gây tác hại nghiêm trọng, tòan diện, di hại lâu dài trên con người, dân tộc và đất nước Việt Nam trong nhiều thập niên qua và còn di hại lâu dài cho dân tộc và đất nước Việt Nam qua nhiều thế hệ sau này.Và do đó, thời hậu cộng sản nhân dâ Việt Nam sẽ phải mất nhiều thời gian mới có thể khắc phục, phục hồi và ổn định phát triển toàn diện.
     - Vì tin và hành động theo “ý thức hệ cộng sản Việt cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc, tách rời khỏi lịch sử chính thống quốc gia Việt Nam và dùng “Tính giai cấp” và  lăng kính “đấu tranh giai cấp” để phê phán chủ quan, không trung thực về các triều đại và  các anh hùng hào kiệt của lịch sử Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc Việt Nam, để chọn và tôn thờ cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô” là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của đảng CSVN và quốc tế cộng sản, cụ thể là hai tân đế quốc CS Nga-Tàu (công cụ tri tình cho quốc tế CS trong Thời kỳ Chiến tranh ý thứ hệ toàn cầu..,).
     - Vì chủ trương hận thù và đấu tranh giai cấp làm động lực, Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội nhân bản vốn tốt đẹp giữa người với người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết và làm mọi điều tàn ác với con người; dù là những người anh em cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc Việt tộc với họ, theo phương châm “cứu cánh biện minh cho hành động” như VC đã làm trong giai đoạn chiến tranh Quốc Cộng vừa qua .Điển hình cao độ là đấu tố dã man ở Miền Bắc sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước; đã tàn sát, chôn sống hàng ngàn quân dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa, trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 ở Huế và nhiều hành động tán ác khác như pháo kích hàng đêm vào các thành thị giết hại dân lành, đặt chất nổ để khủng bố, phá hoại trong suốt cuộc chiến tranh Quốc- Cộng ở Miền Nam (1954-1975) và sau cuộc chiến( tập trung đầy ải hàng ngàn quân cán chính VNCH trong các trại tù cải tạo…)
     - Vì chủ trương vô thần, chết là hết, nên Việt cộng không sợ hậu quả, đã thẳng tay đàn áp những người dân hữu thần, dùng mọi thủ đoạn, phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu diệt mọi tín ngưỡng, tôn giáo, vốn là nhu cầu tinh thần quan yếu trong đời sống tâm linh của con người, và là một thực thể xã hội góp phần quan trọng vào nền đạo đức xã hội nhân bản qua mọi thời đại.
Thực tế là, sau khi nắm được quyền thống trị toàn đất nước hơn 44 năm qua (1975-2019) và trước đó trên một nửa nước Miền Bắc (1954-1975), đảng CSVN đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, với một đảng duy nhất nắm quyền thống trị (đảng CSVN) với một nhà nước “Chuyên chính vô sản” (tức độc tài cộng sản) bác đọat quyền tự do, dân chủ và các nhân quyền cơ bản của nhân dân, thông qua “ một chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng cộng sản Việt Nam”. Việt cộng đã sử dụng quân đội, công an,luật pháp, tòa án, nhà tù, pháp trường… như những công cụ của “chế độ độc tài toàn trị CS” để trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ quyền cai trị độc tài, độc tôn, độc quyền với những ưu quyền đặc lợi của một giai cấp thống trị mới (giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản), chia nhau nắm quyền, ăn chia lợi ích ở các cấp, các ngành trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa là một giai cấp thiểu số (khoảng 3-4 triệu đảng viên CS) bằng bạo lực của nòng súng lưỡi lê, công an trị, để thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam (trên 90 triệu dân) từ thượng tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
Đó là những lý do khái quát, căn bản trên bình diện lý luận và thực tiễn, khiến Việt quốc, là những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia, hay là những người Việt Nam không cộng sản, từ quá khứ đến hiện tại, từ trong nước ra hải ngoại, đã và vẫn đang tiếp tục con đường chống cộng trường kỳ cho đến ngày thành đạt mục tiêu lý tưởng tối hậu của mình là dân chủ hóa đất nước. Vậy thì…

III/- VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG TỪ KHI NÀO VÀ CHO ĐẾN BAO GIỜ ?
      Có thể nói,  kể từ khi “ý thức hệ cộng sản” du nhập vào Việt Nam trong những thập niên đầu Thế Kỷ 20, nhưng rõ rệt là kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện chính thức trên chính trường Việt Nam. Nghĩa là sau khi ông Hồ Chí Minh được huấn luyện và đào tạo từ lò cộng sản Moskva, nhận chỉ thị của Đệ tam Quốc tế Cộng sản Nga  trở về Hong Kong họp Đại Hội thống nhất ba đảng Marxist thành lập trước đó (Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và An Nam Cộng sản đảng) thành đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) vào ngày 3 tháng 2 năm 1930. Và  có thể coi công cuộc chống cộng từ ý thức đến hành động, cũng khởi đi từ đó, nhằm thành đạt các mục đích chống cộng của từng giai đọan, tiến tới thành đạt mục tiêu chống cộng tối hậu là đánh bại chủ nghĩa cộng sản trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng một chế độ tự do dân chủ đích thực theo đúng ý nguyện và vì lợi ích của toàn thể quốc dân Việt Nam. 
Như vậy, cộng cuộc chống cộng  có thể chia làm ba giai đoạn. Trong phạm vi một bài nhận định tổng quát chúng tôi  chỉ có thể trình bầy khái quát như sau:
1.- Tiền chiến tranh Quốc-Cộng: (1930 -1954)
      Đây là giai đọan chống cộng đầu tiên, diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống ách thống trị của thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Các thế hệ Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia đã chống cộng nhằm ngăn chặn một hiểm họa hậu Pháp thuộc: Hiểm họa cộng sản hóa Việt Nam.
Bởi vì trong giai đọan này, lực lượng được coi là lãnh đạo chống cộng, bao gồm các chính đảng quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Độc Lập, Việt Nam Cách Mạng Đảng tức Phục Việt, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Ái Quốc Đảng, Nhân Xã Đảng…) và một số nhà trí thức, thân hào nhân sĩ yêu nước tiên tiến tiêu biểu như Hùynh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Họ đã thấy  được ý đồ của ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam chỉ là  lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, thông qua cuộc kháng chiến chống Pháp như một phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, mà làm nhiệm vụ của cộng sản quốc tế, giành thuộc địa kiểu mới cho các tân đế quốc đỏ Nga -Tầu, nhuộm đỏ đất nước và  nô dịch hóa nhân dân Việt Nam.
Vì thế, mục tiêu chống cộng  giai đoạn này là làm sao cho quần chúng Việt Nam thấy được hiểm họa cộng sản, không tin, không theo, không để cho  ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam lợi dụng của cải, xương máu và lòng yêu nước chống ngọai xâm của mọi tầng lớp nhân; để dùng kháng chiến như phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc, mà giành “Thuộc địa kiểu mới” cho các “Tân Đế Quốc Đỏ Nga –Tầu” thực hiện “Chủ nghĩa thực dân kiểu mới” của cộng sản quốc tế.
Cuộc phân tranh Quốc - Cộng lúc này  diễn ra âm thầm nhưng không kém phần quyết liệt, giữa một bên là các chính đảng Quốc gia và các thân hào nhân sĩ yêu nước, bên kia là đảng CSVN. Đôi bên Quốc-Cộng phân tranh nhằm tiêu diệt nhau và thu phục, lôi kéo nhân dân theo và nhận chịu sự lãnh đạo của mình. Cuộc phân tranh Quốc-Cộng giai đọan này, lúc đầu chủ yếu diễn ra trên mặt trận tư tưởng, tuyên truyền chính trị, nhằm lôi kéo quần chúng  Việt Nam tin theo và tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của mình.
Tuy nhiên, vào thời khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến Thứ II, phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Lúc đó, Cộng Đảng Việt Nam đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, dù thế yếu so với các chính đảng quốc gia, song nhờ thủ đọan khôn khéo và tính tổ chức, tinh thần kỷ luật và tính cách mạng cao của một đảng Marxist-Leninnist, nên đã cướp thời cơ, giành được chính quyền nhiều nơi trên cả nước (Cách mạng Tháng 8 -1945). Nhưng vì thực lực và tình hình thực tế quốc nội cũng như quốc tế lúc đó, chưa cho phép  đảng CSVN lộ rõ nguyên hình và độc chiếm chính quyền, nên ông Hồ đã phải thành lập một chính phủ, quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng, sọan thảo và ban hành một bản Hiến Pháp năm 1946 thiết lập chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (giả hiệu: ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ…) mang tính “Dân chủ tư sản”, chứ chưa dám thiết lập “Chế độ chuyên chính vô sản” tức “độc tài tòan trị cộng sản”. Ngay cả đảng CSVN lúc đó cũng phải tuyên bố tự giải tán. Mãi sau này, khi nắm được quyền thống trị nửa nước Miền Bắc, cũng vẫn phải gọi tên đảng CSVN trá hình là “Đảng Lao Động Việt Nam” chứ chưa dám xưng danh “Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đồng thời cũng vẫn phải giữ bảng hiệu chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” cho đến khi đã thôn tính được Miền Nam vào 30-4-1975, thống trị cả nước, sau đó mới dám trương bảng hiệu “Đảng CSVN” và chế độ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (giả danh và  giả nghĩa).
Sở dĩ Việt cộng phải trá hình như thế, là vì thời khoảng những năm đầu sau Thế Chiến II, cộng sản đang bị thế giới coi là một hiểm họa toàn cầu.Trong khi tại Việt Nam  quần chúng chưa biết gì nhiều về cộng sản. Những người biết thì rất sợ chủ nghĩa tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo), nên ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam đã phải ngụy trang bằng mọi cách và khai thác triệt để lòng yêu nước chống ngoại xâm của toàn dân và lòng căm thù giai cấp trong một số bộ phận nhân dân (Công nhân với chủ tư bản, Nông dân căm thù địa chủ, cường hào ác bá ở nông thôn…).
Trên thực tế, đôi lúc đã có những cuộc xung đột võ trang giữa các đảng phái quốc gia và Cộng đảng Việt Nam, gây tổn thất nhân mạng cho cả đôi bên. Riêng Cộng đảng Việt Nam, ngòai các họat động tuyên truyền, thủ đoạn lừa mị tinh vi để lôi kéo quần chúng, họ còn sử dụng các hình thức khủng bố, thủ tiêu những ai không theo hay chống lại họ. Một số nhà ái quốc Việt Nam đã bị CSVN thủ tiêu trong giai đọan này như lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng Trương Tử Anh, hay các nhân sĩ ái quốc như Khái Hưng, Hòang Đạo, Ngô Đình Khôi và nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo ái quốc khác theo ý thức hệ quốc gia như Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh Phạm Công Tắc…
Kết quả của cuộc phân tranh Quốc - Cộng giai đọan này,Quốc thua, Cộng thắng. Là vì mục tiêu chống cộng giai đọan này đã không đạt được: Việt quốc không những đã không ngăn chặn được hiểm họa CS trong ý thức quần chúng, mà thực tế đã để đảng CSVN dưới mặt nạ Việt Minh (viết tắt “Việt Nam Độc lập Đồng minh hội” một tổ chức do Cộng đảng dựng lên) nắm quyền chủ đạo kháng chiến trong thời kỳ chót của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).Với chiến thắng Điện Biên Phủ Việt Minh (Việt cộng) đã cướp được chính quyền trên một nửa thuộc địa Bắc Việt của Pháp, làm hậu phương phát động và tiến hành chiến tranh nhuôm đỏ Miền Nam. 
2.- Chiến tranh Quốc-Cộng (1954 – 1975)
     Vì giai đọan 1, phe Quốc gia đã thất bại trong mục tiêu chống cộng để ngăn chặn hiểm họa Cộng sản từ xa, khi Cộng đảng VN chưa giành được lãnh thổ để thiết lập một chính quyền “Chuyên Chính Vô Sản” (tức độc tài tòan trị cộng sản), thực hiện chủ nghĩa Cộng sản.
Vì thế cho nên cuộc trường chinh chống cộng phải tiếp tục chặng đường chống cộng giai đoạn hai (1954 – 1975) trong khung cảnh một thế chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (Chiến tranh ý thức hệ Cộng sản chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa) và trong thực trạng một đất nước chia hai, theo sự áp đặt của các cường quốc có ảnh hưởng, thông qua Hiệp Định Genève 1954. Hiệp định này được ký giữa Pháp (quân cướp nước) với Việt Minh, mặt nạ của Việt cộng (Phường bán nước cho cộng sản quốc tế Nga-Tàu) sau khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ, nên chỉ có ý nghĩa như là thực dân Pháp mất một nửa thuộc địa Miền Bắc vào tay Việt cộng; còn nửa nước Miền Nam, thực dân pháp phải trao trả độc lập hoàn toàn, sau khi đã trao trả độc lập từng phần từ năm 1948 cho chính quyền chính thống quốc gia của Vua Bảo Đại, sau cùng là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kế tục chính danh quyền bính quốc gia của bên Việt quốc.
Cuốc chiến tranh ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu hình thành sau Thế Chiến II, diễn ra dưới hai hình thái Chiến Tranh Lạnh giữa các mước giầu, và chiến tranh nóng nơi một số nước nghèo, có số phận không may như Việt Nam. Vì thế Việt quốc ở Miền Nam được ‘phe tư bản chủ nghĩa” chọn là “Tiền đồn Thế Giới tự do” và Việt cộng ở Miền Bắc được ‘phe xã hội chủ nghĩa”(hay cộng sản quốc tế) chọn là “tiền phương phe xã hội chủ nghĩa” làm “nhiệm vụ quốc tế cao cả” là phát động “Chiến tranh cách mạng” để nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam và các quốc gia trong vùng. Từ đó, đất nước Việt Nam trở thành bãi chiến trường, nhân dân hai miền Bắc-Nam như bia đỡ đạn cho các thế lực khuynh đảo quốc tế tranh dành ảnh hưởng và lợi ích quốc gia của họ, với lợi ích trước mắt là tiêu thụ cho hết lượng vũ khí đạn dược tồn đọng sau thế chiến II và thử nghiệm thêm các loại vũ khí mới…
Tại Miền Bắc, ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam, sau khi chiếm được một nửa đất nước, đã xây dựng và củng cố một chế độ độc tài toàn trị cộng sản, theo mẫu mực của đế quốc Đỏ hàng đầu Liên Xô thời bấy giờ. Tuy nhiên, để che đây thực chất này, Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam đã dùng lại danh xưng chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của bản Hiến pháp 1946, ban hành sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến II (1939-1945), buộc phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Nay để tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế cộng sản, cộng sản Bắc Việt đã làm nhiệm vụ tên lính xung kích của cộng sản quốc tế (Nga-Tầu), phát động cuộc chiến “Nồi da xáo thịt” nhằm thôn tính nhuộm đỏ Miền Nam, vùng đất tự do của quốc gia Việt Nam, với chính quyền chính thống, chính danh Việt Nam Cộng Hòa.
Trong khi đó tại Miền Nam, chính quyền Việt quốc (Việt Nam Cộng hòa) trong tư thế chính thống, chính danh, có chính nghĩa, kế tục quyền lực quốc gia, tiếp nhận độc lập chủ quyền từ tay thực dân Pháp trên một nửa đất nước ở Miền Nam, kiến tạo một chế độ dân chủ pháp trị (Việt nam Cộng hòa) hình thành sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế Vua Bảo Đại, cáo chung chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam, thiết lập chế độ cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, đáp ứng đúng ý nguyện của nhân dân Việt Nam.
Trong giai đọan này, cả hai bên Quốc - Cộng đều có tư thế quốc gia, có lãnh thổ, chính quyền quân đội và nhân dân, hành xử quyền cai trị đối nội cũng như đối ngọai. Khi đó, với sự trợ giúp của ngoại bang thuộc hai phe đối đầu: cộng sản và tư bản. Cộng sản Bắc Việt (CSBV), sau sáu năm củng cố, xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, đã thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam” (12-1960) rồi sau đó đẻ ra “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (1967) làm công cụ quân sự, chính trị phát động và tiến hành chiến tranh xâm lăng Miền Nam, với sự trợ giúp của Nga –Tầu và các nước trong phe “Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Trong khi đó, tại Miền Nam Việt Nam, chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), với sự trợ giúp của Hoa Kỳ và các cường quốc tư bản, theo đuổi một cuộc chiến tranh tự vệ, với mục đích ngăn chặn, đẩy lùi và đập tan ý đồ xâm lăng của CSBV, xây dựng và củng cố chế độ dân chủ pháp trị, phát triển kinh tế ngày càng vững mạnh, thực hiện chủ trương tiến tới thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, với sự ưu thắng của một Miền Nam dân chủ, giầu mạnh trên chế độ độc tài tòan trị cộng sản, lạc hậu và nghèo nàn ở Miền Bắc (như thực tế đã xẩy ra ở nước Đức qua phân và sẽ xẩy ra ở Triều tiên  trong tương lai không xa).
Cuộc chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), với kết cuộc phe Quốc gia một lần nữa bị là “bên thua cuộc”, CSBV đã thôn tính được Miền Nam, thống trị toàn cõi đất nước bằng một chế độ độc tài toàn trị CS. Việt Quốc thua cuộc chủ yếu trước hết là vì tầng lớp lãnh đạo các chính quyền VNCH không bảo vệ được chủ quyền quốc gia và công cuộc chống cộng hoàn toàn lệ thuộc vào Hoa Kỳ đến độ để cho quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến (1965) là Mỹ hóa chiến tranh, để đối phương CSBV “ngụy dân tộc” giật được chính nghĩa dân tộc “chống ngoại xâm” (chống Mỹ cứu nước). Thứ đến là vì sau khi các mục tiêu và lợi ích chiến lược đã đạt được thông qua cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ là thực hiện “Việt nam hóa chiến tranh” (1969) để rút chân ra khỏi cuộc chiến một cách danh dự; song Hoa Kỳ đã không thực hiện những cam kết giúp VNCH về quân sự, kinh tế để đủ khả năng tiếp tục chiến đấu chống cộng để tự tôn.
Hệ quả là, chế độ dân chủ VNCH cáo chung, chính quyền VNCH sụp đổ, quân lực VNCH tan rã. Hệ quả là hầu hết sĩ quan và lãnh đạo chính quyền các cấp VNCH bị  CS đầy ải, hành hạ, sỉ nhục  trong các trại tù “Tập trung cải tạo”. Một thiếu số quan chức chính quyền, quân đội và nhân dân Miền Nam  kịp di tản ra hải ngoại trước ngày 30-4-1975, và vượt biên nhiều năm sau đó, qui tụ thành những Tổ Chức Cộng Đồng, các đảng phái chính trị và tổ chức đấu tranh, đoàn thể xã hội, tôn giáo tiếp tục công cuộc chống cộng giai đọan 3 vì tự do dân chủ cho đất nước.

3.- Hậu chiến tranh Quốc-Cộng (Từ sau 30-4-1975… đến ngày kết thúc)
     Đây là giai đoạn chống cộng cuối cùng của Việt Quốc để khẳng định chân lý, chính nghĩa tất thắng thuộc về bên nào (Việt Cộng hay Việt Quốc) trong cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài nhiều thập niên qua tại Việt Nam. Giai đoạn chống cộng này sẽ chấm dứt khi Việt Quốc thành đạt mục tiêu tối hậu là dân chủ hóa đất nước. Nghĩa là chế độ độc tài toàn trị cộng sản tiêu vong để hình thành một chế độ dân chủ pháp trị, với các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. 44 năm qua (1975-2019) Việt Quốc đã chóng cộng như thế nào, thành quả ra sao, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết trong các bài viết tiếp theo

III/- KẾT LUẬN.
     Việt Cộng thì đã thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn, không còn có cơ hội và điều kiện để  thực hiện mục tiêu tối hậu lý tưởng của mình là “xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”. Đúng như chúng tôi đã trình bày trong loạt bài chủ đề “ 44 năm Việt Cộng xây dựng xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế, thành quả và triển vọng tương lai
Sau bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày tiếp qua loạt bài “44 năm Việt Quốc  chống cộng vì tự do, dân chủ cho đất nước, thành quả và triển vọng tương lai ”. Mời bạn đọc  đón xem để có dữ kiện so sánh hai con đường dẫn đến hai mục tiêu tối hậu khác.nhau giữa Việt Quốc và Việt Cộng, cuối cùng “ai thắng ai?”.

Thiện Ý
Houston, ngày 6-8-2019

Saturday, April 4, 2020

Virus cộng sản vẫn di căn trong não trạng Putin và các cựu đảng viên cộng sản?



Virus cộng sản vẫn di căn trong não trạng Putin và các cựu đảng viên cộng sản?

Thiện Ý

Theo tin hãng thông tấn Reuters, Hạ viện Nga hôm 11/3 đã bỏ phiếu thông qua thay đổi hiến pháp, mở đường cho ông Vladimir Vladimirovich Putin tái tranh cử vào năm 2024 khi mãn nhiệm kỳ thứ tư, và nhiều khả năng ông sẽ tại vị cho tới năm 2036.
Viện Duma quốc gia (Hạ viện Nga) với 450 thành viên đã có 383 nhà lập pháp bỏ phiếu ủng hộ, không có ai bỏ phiếu chống, nhưng có 43 bỏ phiếu trắng và 24 người vắng mặt. Nếu kết quả này được Hội đồng Liên bang (Thượng viện Nga) thông qua 14 ngày sau và được ủng hộ trong một cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý toàn quốc vào tháng Tư năm nay, thay đổi này sẽ cho phép ông Putin phục vụ thêm hai nhiệm kỳ nữa, mỗi nhiệm kỳ là sáu năm.
Như vậy là chỉ một ngày sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu trước Hạ viện Quốc Hội ở Moscow vào ngày 10/3/2020, đề xuất thay đổi hiến pháp, cho phép duy trì quyền lực cho ông ta đến năm 2036 có thể coi như đã toại nguyện (các thủ tục theo Hiến pháp chỉ là hình thức kết quả có thể biết trước), giữa lúc đại dịch Virus Corona mang tính toàn cầu đang tiến đến đỉnh cao. Sự thể này khiến chúng tôi liên tưởng độc tài cộng sản ví như một loại virus chính trị, “Virus Cộng sản” (Communits-Virus),với căn tính lãnh tụ bám quyền lực lâu dài, dùng mọi thủ đoạn chính trị và biện pháp trấn áp đối lập để duy trì quyền thống trị cho đảng cầm quyền.  Và như thế nó vẫn còn di căn ít nhiều trong não trạng của Putin cũng như các cựu đảng viên cộng sản Nga và các nước cộng sản đã tiêu vong bản thể hay sụp đổ (Như Tổng Bí thứ Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam quá tuổi về hưu cả chục tuổi nhưng dường như lưu luyến ngai Tổng Tịch; hay  Thủ tướng Hunsen và đảng cầm quyền ở Kampuchia…), dù chế độc tài đảng trị cộng sản Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-Viết (Gọi tắt là Liên Xô) đã cáo chung và chuyển đổi qua chế độ dân chủ pháp trị  29 năm rồi (1991-2020).
Riêng ông Putin, nguyên là một cựu chỉ huy cơ quan an ninh mật vụ  KGB Nga thời Liên Xô, năm nay 67 tuổi, thì đã dùng thủ đoạn chính trị qua mặt hiến pháp Cộng hòa Liên Bang Nga để nắm quyền qua bốn nhiệm kỳ tổng thống và cũng đã từng giữ vai trò thủ tướng (lùi một bước, tiến hai, bốn bước…). Ông đã thống trị bối cảnh chính trị của Nga trong hai thập niên qua. Nay, sau khi được đa số đồng đảng là Đảng Nước Nga Thống nhất ở Quốc hội Nga giúp ông cơ hội  nắm quyền đến năm 2036, khi đó ông đã 83 tuổi và như thế đã đứng đầu chính trường Nga trong 36 năm.
Mặc dầu ông Putin không nói rõ tham vọng của mình là gì sau ngày dự kiến phải rời bỏ chức vụ, nhưng ông nói ông không ủng hộ truyền thống của các lãnh đạo thời Liên Xô là nắm quyền cho đến chết. Tuy nhiên, dù không nắm quyền cho đến chết như các lãnh tụ CS Nga cũng như tại các nước cộng sản trước đây, thì sự nắm quyền lâu dài như thế của ông Putin cũng đã là mối đe doa nền dân chủ pháp trị Nga được thiết định 29 năm qua. Vả lại, dù không nắm quyền cho đến chết như các lãnh đạo cộng sản thời Liên Xô, nhưng hàng thập niên cầm quyền vừa qua dường như ông Putin vẫn còn bị (được ?)di căn nhiều chứng tật của các lãnh tụ cộng sản này, là đã và đang lãnh đạo theo kiểu của các tiền bối cộng sản của mình. Vì thế đã có mối lo ngại rằng chế độ dân chủ pháp trị Nga đã và đang bị thử thách, có dấu hiệu biến tướng như là một chế độ độc tài cá nhân (sáng suốt) và đảng trị không cộng sản (Đảng Nước Nga Thống nhất cầm quyền của Putin), với lãnh tụ tối cao đầy quyền uy Vladimir Putin, còn ít nhiều di căn ‘Virus Cộng- sản’ và ‘Virus mật vụ KGB’trong não trạng. Vì thế, Tổng thống Vladimir Putin đã thể hiện cung cách người đứng đầu đảng cầm quyền gần giống như Tổng bí thư,lãnh tụ các đảng Cộng sản. Đồng thời sử dụng đảng của mình, lực lượng an ninh tình báo, quân đội, công an, tòa án, nhà tù như hững công cụ thống trị áp đảo, trấn áp các đảng đối lập , tiếng nói đối lập ‘một cách hợp pháp’ để bảo vệ chiếc ghế Tổng thống lâu dài,trong khung cảnh chế độ ‘Cộng hòa Liên bang Nga’(vỏ bọc ngụy dân chủ?) hiện nay. Tất cả như  để che đậy căn tính ‘độc tài đảng trị cộng sản’ còn di căn ít nhiều trong não trạng Putin (cựu trùm mật vụ KGB thời Nga cộng) và các đồng đảng của ông trong quốc hội Nga.
Hệ quả thực tế là, trong những năm cầm quyền của Tổng thống Vladimir Putin, các chính trị gia đối lập tự do hay trong các đảng phái đối lập đã sống trong bầu không khí sinh hoạt chính trị thiếu an toàn. Do phải gánh chịu nhiều biện pháp an ninh, trấn áp của các công cụ của ‘nền chuyên chính đảng trị, ngụy dân chủ’ để bảo vệ, duy trì ngôi vị Tổng thống lâu dài cho lãnh tụ Putin. Nhiều nhà đối lập đã bị bắt, cầm tù vì các tội danh mà ai cũng thấy có động cơ chính trị không trong sáng. Thành ra đã có sự e ngại, dè dặt  trong các hoạt động đấu tranh dành chính quyền, thực hiện các quyền dân cử của giới chính trị gia đối lập ở Nga. Các chính trị gia đối lập không chỉ e ngại, dè dặt mà còn sợ hãi đến độ không giám công khai bày tỏ quan điểm chính trị,  minh danh bỏ phiếu chống lại ý muốn của Putin trong các cơ quan dân cử.
Hạ viện Nga hôm 11/3 với 383 trên 450 thành viên quốc hội bỏ phiếu ủng hộ, không có dân biểu nào bỏ phiếu chống, chỉ có 43 dân biểu bỏ phiếu trắng và 24 dân biểu vắng mặt. Phải chăng đây là hiện tượng điển hình mới nhất cho thấy sự e ngại, dè dặt hay sợ hãi của các chính trị gia đối lập tại hạ viện Nga nói riêng và cả nước Nga mang danh Cộng hòa Liên bang Nga nói chung? Người ta tự hỏi, ông Vladimir Putin, cựu đảng viên cộng sản Nga, từng đứng đầu cơ quan mật vụ KGB, Tổng thống đương nhiệm,  đã và đang đưa chế độ dân chủ pháp trị Nga ‘Cộng hòa Liên bang Nga’ đi về đâu? Chúng ta hãy chờ xem.
Thiện Ý
Houston, ngày 21-3-2020.

Triển vọng ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ thành hay bại?



Triển vọng ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’ thành hay bại?

14/05/2019

“Định hướng xã hội chủ nghĩa” là mục tiêu giả (hay ngụy biện) để che đậy thực trạng xây dựng xã hội chủ nghĩa đã thất bại hoàn toàn?
Thiện Ý
    
I - Đi lên xã hội chủ nghĩa bằng con đường “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là thế nào?
     1 - Trên bình diện lý luận cộng sản chủ nghĩa
     Trong bài trước chúng tôi có đề cập đến sự thất bại của hai kế hoạch 5 năm đầu tiên sau “ngày giải phóng” (1975-1985) thực hiện triệt để lý luận Marxist-Leninist đi thẳng lên xã hội chủ nghĩa mà không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
     Nhưng rồi hai kế hoạch 5 năm tiếp theo (1985-1995) thực hiện “Đổi mới” vẫn không thành, trong khi hệ thống các nước cộng sản quốc tế, trong đó có cả “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô” đều sụp đổ tan tành    
     Trong khi Lenin thì cho rằng “Cách mạng vô sản” cướp chính quyền có thể nổ ra ở những khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản.
     Nay sau khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa quốc tế sụp đổ, tất cả đều nhanh chóng chuyển đổi ngay qua con đường “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” và chề độ dân chủ pháp trị. Bốn nước xã hội chủ nghĩa còn sót lại là Cu ba, Trung quốc, Bắc Hàn và Việt Nam thì từ lâu đã chết lâm sàng (chết trên giường bệnh chờ ngày chôn cất) về mặt bản thể và đang tìm cách tồn tại thêm thời gian chuyển đổi theo cách thế khác nhau.
   2 - Trên bình diện thực tế Việt cộng vận dụng thế nào, hiệu quả ra sao?
     Trên thực tế, Việt cộng thực hiện chính sách “Mở cửa” là nhằm thành đạt giai đoạn “phát triển tư bản chủ nghĩa” bằng “kinh tế thị trường”, một đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (là thật); còn “định hướng xã hội chủ nghĩa” là mục tiêu giả (hay ngụy biện) để che đậy thực trạng xây dựng xã hội chủ nghĩa đã thất bại hoàn toàn trong quá khứ. Thế nhưng từ hiện tại đến tương lai, những người lãnh đạo CSVN vẫn tiếp tục lừa mị nhân dân (bản chất mà), dù thâm tâm họ cũng biết, rằng vĩnh viễn vẫn không thể, không bao giờ hiện thực xã hội chủ nghĩa trên hành tinh này được nữa.    
     Trên thực tế, sau 24 năm làm ăn theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (1995-2019) Việt Nam quả thực ngày một phát triển nhiều mặt và tạo được bộ mặt phồn vinh như hôm nay.
II - Triển vọng tương lai “định hướng xã hội chủ nghĩa” thế nào ?
     Hai câu hỏi được nhiều người đặt ra:
     1 - Liệu Việt cộng có hiện thực được chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam bằng con đường “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” hay không?
     Câu trả lời ngắn gọn có tính khẳng định là không. Cho dù sau này có tạo ra được tiền đề kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển như luận điểm của Marxism, thì tất yếu cũng không đạt được mục tiêu “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Và rằng Kinh tế thị tường tất yếu định hướng tư bản chủ nghĩa”.
     2 - Vậy Triển vọng tương lai xã hội chủ nghĩa Việt Nam thế nào?
     Câu trả lời là chế độ mang danh “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” đã chết lâm sàng về mặt bản thể từ lâu rồi.Nay chỉ là “ngụy cộng hòa” (chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, không phải dân chủ tập trung trong tay đảng CS) “ngụy xã hội chủ nghĩa(một xã hội không còn cảnh người áp bức bó lột người, thực tế hoàn toàn trái ngược…). Thực chất cũng như thực tế chế độ hiện nay chỉ còn là một chế độ độc tài đảng trị theo chủ nghĩa thực dụng, Nghĩa là đảng cầm quyền độc tôn, độc quyền chính trị, dù còn mang danh “đảng cộng sản” nhưng không còn thực hiện chủ nghĩa xã hội nữa, mà đã và đang cai trị bằng các chủ trương chính sách thực tế nào xét ra có lợi nhất (thực dụng) trên hết và trước hết cho một tập đoàn thống trị.
     Thành ra,triển vọng xã hội chủ nghĩa trong tương lai là không có. Cái gọi là “kinh tế thị trường” là thật sẽ hiện thực, “định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ là mục tiêu giả, làm mặt nạ che đậy ý đồ chính trị lừa mị nhân dân. Chính kinh tế thị trường mà chúng tôi gọi là “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” sẽ từng bước lột bỏ cái mặt nạ này theo tiến tình hình thành nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, để cuối cùng đảng và nhà cầm quyền trong chế độ độc tài đảng trị hiện nay sẽ lộ nguyên hình và bị tiêu vong khi nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hoàn chỉnh ở cuối quá trình phát triển; cùng lúc với sự hình thành chế độ dân chủ pháp trị đa đảng một cách phù hợp. Đó là một tất yếu. Vì kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa luôn song hợp với chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng.
       Thật vậy, Việt cộng không thể và không bao giờ còn cơ hội xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam. Những người mang danh cộng sản Việt Nam trong thâm tâm cũng biết thế, nhưng vì lợi ích của một tập đoàn thống trị, Cộng đảng Việt Nam bề ngoài vẫn xác định tiếp tục “Đi lên chủ nghĩa xã hội” bằng con đường “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
     Thế nhưng thực tiễn đã không chiều theo cách ngụy biện chủ quan duy ý chí có tính “cưỡng từ doạt lý” của Việt cộng, chỉ có mục đích tuyên truyền lừa bịp đảng viên và quần chúng thiếu hiểu biết, không có giá trị hiện thực. Thực tiễn con đường “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” nhất định sẽ phát triển theo quy luật khách quan đến xã hội tư bản chủ nghĩa. Và triển vọng số phận tương lai của cái gọi là “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việ Nam” là sự tiêu vong từng bước theo một tiến trình mà sự kết thúc êm đẹp hay bi thảm tùy thuộc sự lựa chọn của chính những người lãnh đạo đảng và nhà đương quyền Việt Nam hôm nay.
     Theo đó, trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” các cán lớn, cán nhỏ đảng viên cộng sản và cả cái chính quyền mạo danh “chuyên chính vô sản” trong chế độ ngụy “xã hội chủ nghĩa” bao lâu nay, đã như những con ruồi sa vào hũ mật (mật ngọt chết ruồi” theo tục ngữ Việt Nam), cũng “đã và đang biến chất”“sẽ biến thể hoàn toàn” ở cuối quá trình tiêu vong.Việt cộng đã và đang bị “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường”hóa thân tịnh tiến theo đúng quy luật duy vật biện chứng“Lượng đổi, chất đổi” (lượng độc tài tiêu vong, lượng dân chủ lớn dần, triệt tiêu độc tài ở cuối quá trình tích lũy chất dân chủ thừa đủ, hình thành dân chủ đa nguyên,đa đảng, như nước đun sôi dến 100 độ C thì bốc hơi biến thành thể hơi…).
     Diễn biến cụ thể đó là: cán bộ đảng viên cộng sản đã bị tư sản hóa từng bước (trở thành tư sản hay tư bản Đỏ), nhà nước được tư bản hóa từng phần (tiến trình giải tư công, nông, thương nghiệp quốc doanh…), chế độ thì được dân chủ hóa tịnh tiến (dần dần theo thời gian đã phải trả lại cho nhân dân nhiều quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền ,dù còn ít nhiều hạn chế…). Dẫu sao, dường như Việt cộng cũng biết được rằng đi theo chiều hướng này là tốt nhất,vẫn giữ được phần nào quyền lợi cho một tập đoàn thống trị sau khi “chế độ độc tài toàn trị, độc đảng” phải biến thể qua “dân chủ pháp trị đa đảng”. Một chiều hướng không thể đảo ngược và Việt cộng cũng không có sự lựa chọn con đường nào khác hơn. Do đó, cho dù “Đảng ta” miệng có la hoảng về cái gọi là “Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù nghịch”;dù Ông Tổng Trọng có luôn cảnh giác đảng viên về hiện tượng “Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ “Đảng ta”, thì thực tế chân vẫn phải chậy theo và bị “diễn biến ấy” lôi đi xềnh xệch không sao cưỡng lại được.
III - Thay lời kết
     Viết đến đây chúng tôi liên tưởng nhớ lại một hình ảnh rất cụ thể, rất sống động để mọi người thấy ngay con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là “đường đi không bao giờ đến”, chủ nghĩa xã hội là hoang tưởng.Từ quá khứ đến hiện tại, tất cả chỉ là sự lừa bịp nhân dân trắng trợn và tàn nhẫn của cộng sản quốc tế nói chung, cộng sản Việt Nam nói riêng.
     Hình ảnh này hình thành trong đầu khi người viết nằm trong biệt giam số 6 Khu C.2 nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu ở Gia Định, Saigon, vào khoảng cuối năm 1979 hay đầu năm 80. Vào giờ suy tư hàng đêm trước khi đi ngủ, chợt nhớ lại hình trên báo tường thời Trung học, do một người bạn cùng lớp vẽ hình một người cỡi trên lưng con Đại bàng, tay cầm cần câu đưa ra phía trước để nhử cho Đại bàng cô gắng bay cao, bay nhanh để đớp được miếng mồi. Tất nhiên, ai cũng thấy là Đại bàng dù cố gắng cách mấy cũng không bao giờ đớp được miếng mồi ngon. Khi đó tôi liên tưởng đến lời khẳng định của Tổng Bí thư Lê Duẫn, rằng “15 đến 20 năm nữa sẽ xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”. Thê là trong đầu tôi nghĩ đến hình ảnh một chiếc xe ngựa, với một cần câu dương cao phía trước treo bảng đề “Xã hội chủ nghĩa”. Ngựa kéo xe là 10 cặp người dân tương đương với 20 năm Ông Tổng Duẩn khẳng định, mắt ngước nhìn bảng hiệu, mồ hôi đỏ (máu) nhễ nhãi, cố chạy nhanh theo nhịp thúc giây cương của người cầm lái là Tổng Bí Thư Lê Duẩn cầm giây cương, bên cạnh ngồi đầy trên xe là các Ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng… với nét mặt hồ hởi, phấn khởi nhìn về phía trước.
Quý độc giả có thể so sánh để tự kết luận.
          Thiện Ý
Houston, ngày 5-5-2019.
Ghi chú: Theo Wikipedia:
(1) Đệ Tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
(2) Đệ Tứ Quốc tế còn gọi là Cộng sản Đệ Tứ là liên minh quốc tế của những người theo Chủ nghĩa Trotsky thành lập năm 1938 tại Paris, theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ.
Đệ Tứ quốc tế CS tại Việt Nam: Lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ Việt Nam là Tạ Thu Thâu. Trong lịch sử của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, Việt Nam thuộc số ít các nước là nơi mà chủ nghĩa Trotsky tạo được phong trào lớn mạnh. Các lãnh đạo và hầu hết thành viên của chủ nghĩa Trotsky tại Việt Nam đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam tiêu diệt từ tháng 10 năm 1945. Được biết Ông Hồ Hữu Tường một nhân sĩ Miền Nam và vợ từng gia nhap “Đệ tứ quốc tế cộng sản”. Khoảng năm 1980, người viết cùng một số anh em bạn tù khác được chở từ khám Chí Hòa đến trại tù lao động mang tên K.1-Z.30D Hàm Tân Thuận Hải,chân ướt chân ráo vừa đến nơi còn đang tụ tập trước đầu láng dãy nhà sẽ nhốt chúng tôi, thì thấy một người tù cõng một người tù to béo như con bò mộng trên vai. Người được cõng giơ tay vẫy qua vẫy lại nói như hết hơi “Tường đây, Tường sắp chết rồi…”. Sau này được biết Ông Hồ Hữu Tường bị bệnh viêm gan cổ chướng, người phình to như con bò mộng, Hôm đó ông được đưa lên trạm xá, rồi được thả về nhà ít ngày sau thì qua đời. Thật tôi nghiệp cho một trong những trí thức hàng đầu của Miên Nam đã chết như thế đó.
(3) Theo lịch sử của đảng CSVN Ông Hồ Chí Minh (còn có tên là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành và nhiều tên khác khi hoạt động) năm 1911 đã ra đi tìm đường cứu nước qua nhiều nước tư bản cũng như thuộc địa. Tại Pháp Ông Hồ đã đọc được “Luận cương Chính trị Tháng 4” của Lenin và hét to một mình trong phòng trọ, rằng “Đây rồi, muốn giải phóng dân tôc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”(!). Thế rồi Ông Hồ gia nhập đảng Xã Hội Pháp (1924), được huấn luyện đào tạo ở Liên Xô trở thành môn đồ của chủ nghĩa cộng sản, gia nhập “Đê Tam quốc tế cộng sản”. Sau đó Ông Hồ nhận chỉ thị, từ MosKva về Hong-Kong họp Đại Hội ở thành phố Cửu Long, thống nhất 3 tổ chức cộng sản trong nước thành đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930). Từ đó khởi đầu một bi kịch lịch sử với “cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam” kéo dài nhiều thập niên qua vẫn chưa chấm dứt, với đỉnh cao là cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn kéo dài 21 năm (1954-1975) để cộng sản hóa cả nước. Điều bi thảm đáng phẫn nộ, là với cái giá núi xương sông máu của quân dân hai miền Bắc Nam, đất nước bị bom đạn ngoại bang tàn phá tan hoang, nhân dân hai Miền bị khổ ải trăm bề vì những năm tháng thử nghiệm mô hình Xã hội chủ nghĩa trên cả nước thất bại. Ai chịu trách nhiệm trước lịch sử đây? Câu trả lời có ngay trong câu hỏi.

45 năm Việt cộng xây dựng xã hội chủ nghĩa, được gì?



45 năm Việt cộng xây dựng xã hội chủ nghĩa, được gì?

30/04/2019


     Sau ngày “ Giải phóng Miền Nam” ít lâu, Việt cộng đã tổ chức một cuộc mít-tinh qui mô lớn ăn mừng chiến thắng. Một lễ đài lộ thiên được dựng lên trước cổng Dinh Độc Lập Sài Gòn (sau 30-4-1975 đổi là Dinh Thống Nhất, TP. HCM ),
     Vậy thì, giờ đây sau 45 năm “giải phóng Miền Nam, thồng nhất đất nước” đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (gọi tắt là Việt cộng) đã xây dựng xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế đến đâu rồi, hiệu quả thế nào?
     Nội dung bài viết này lần lượt trình bày:
I - Việt cộng xây dựng xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp cộng sản quốc tế thế nào, hiệu quả ra sao?
 * Giai đoạn I: (1975-1985) thường được gọi là “thời bao cấp”
     Theo gương Liê-Xô, Việt cộng tiến hành công cuộc Đi lên chủ nghĩa xã hội mà không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam không như Karl Marx lý luận về chủ nghĩa cộng sản là phải thông qua giai đoạn phát triển tư bản. Nghị quyết Đại Hội IV của Cộng đảng Việt Nam đã đưa “Đường lối chung của Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước” như một định thức chỉ đạo: Nắm vững chuyên chính vô sản,phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tương và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…”). Việt cộng đã thực hiện định thức này ra sao? hiệu quả thế sao?
     1 - Thực hiện “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”
- Tiến hành ra sao?
- Hiệu quả ra sao?
     Nhìn chung, với việc thực hiện triệt để chính sách hai mặt trên, Việt cộng đã “nắm vững được chuyên chính vô sản”; nghĩa là đã dùng bạo lực qua các công cụ của nền chuyên chính vô sản trấn áp thành công (chứ không tiêu diệt được) sức phản kháng và đưa được mọi tầng lớp nhân dân vào khuôn phép kỷ luật nhà binh.
     Thật vậy, trong 5 năm đầu sau khi chiếm được Miền Nam (1975-1980), Việt cộng đã thực hiện triệt để những chủ trương, chính sách và các biện pháp căn bản trên đây. Việt cộng đã thành công trong việc “truy quét phản động”, ổn định và giữ vững được tình hình an ninh chính trị. Vì thực tế cao trào chống cộng của các cá nhân hay tổ chức ngày một lắng xuống. Nhờ đó, sau 5 năm kế tiếp (1980-1985), Việt cộng từng bước củng cố cơ cấu đảng và chính quyền các cấp, các ngành để tiến hành mạnh bạo các chủ trương, chính sách và biện pháp Đi lên Xã hội xã hội chủ nghĩatrên cả nước, dưới bảng hiệu chế độ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2 - Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng như thế nào, hiệu quả ra sao?
* (1) Mục tiêu cách mạng quan hệ sản xuất phải thành đạt là gì?
     Là thực hiện các chủ trương, chính sách và biện pháp nhằm phá nát, tiêu diệt triệt để quan hệ sản xuất cũ, mà lý luận CS cho là mang tính áp bức, bóc lột (quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính tư hữu), để thiết lập từng bước, tiến tới thay thế hoàn toàn bằng quan hệ sản xuất mới không mang tính áp bức bóc lột (quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mang tính công hữu).
(2) – Thực hiện thế nào?
* Thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: Vào giữa năm 1976, một loạt chủ trương, chính sách nhằm xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế tư bản tư doanh và cá thể đã được Việt cộng ban hành và đi vào thực hiện có tính thăm dò thử nghiệm.Mặc dầu chỉ thực hiện trên qui mô nhỏ, song cũng đã gây chấn động lớn về kinh tế, xã hội và là nỗi kinh hoàng cho các đối tượng bị kiểm kê tài sản, nhất là những gia đình bị qui kết thành phần tư sản mại bản (vì trong quá khứ có liên hệ làm ăn với tư bản nước ngoài) hay tư sản dân tộc. Họ không những bị kiểm kê tịch thu hết tài sản, có khi còn bị tù đầy hay cưỡng bức rời thành phố đi lập nghiệp vùng kinh tế mới.Người ta gọi đây là thời kỳ đánh tư sản Đợi I.
     Phải đợi cho đến sau Đại Hội IV (1976) của Cộng Đảng Việt Nam, chủ trương “Cải tạo” trên mới được chế độ thực hiện triệt để trên quy mô rộng lớn với cường độ mạnh mẽ thể hiện quyết tâm thực hiện khẩu hiệu tuyên truyền “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa”. Người ta gọi đây là thời kỳ đánh tư sản Đợi II. Lúc này, đích thân ông Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã lãnh đạo “đánh tư sản” ở Miền Nam trong chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm “Trưởng Ban Cải Tạo Trung Ương”.
     Chung quy, đánh tư sản hay cải tạo tư sản là chế độ Việt cộng muốn nắm độc quyền kinh tế (khống chế lực lượng lao động,định đoạt phương thức sản xuất và chiếm dụng độc quyền nguyên vật liệu phương tiện sản xuất). Nghĩa là một kiểu nhà nước tư bản độc quyền,biến lực lượng sản xuất (mọi tầng lớp nhân dân) thành công cụ lạo động thực hiện các hoạt động kinh tế (sản xuất công,nông, thương nghiệp, kinh doanh, phân phối, tiêu thụ, dịch vụ…) dưới sự chỉ huy của chính quyền theo chính sách kinh tế hoạch định cứng rắn của nhà nước.
     Hiệu quả ra sao?- Theo nhận định của chúng tôi, công cuộc cải tạo này đã thất bại hoàn toàn vì nó đã đụng chạm vào một trong những yếu tình thuộc về bản chất và cũng là quyền cơ bản của con người: Quyền tư hữu. Vì nó đã tước đoạt trắng trợn thành quả lao động , công lao mồ hôi nước mắt của cả một đời người hay bao đời truyền lại. Những nạn nhân đã uất ức vì bị cưỡng đoạt trắng tay, mất hết tài sản, gia đình ly tán, lại phải vào tù. Nhiều người quá uất ức đã nhẩy lầu tự vẫn, dùng độc dược quyên sinh hay tìm cái chết oan nghiệt qua sợi giây thong lọng tự treo cổ mình.
* Thực hiện chủ trương chính sách cải tạo nông nghiệp thì sao?
     Hiệu quả ra sao? Trong thời khoảng này (1975-1985) công cuộc cải tạo nông nghiệp ở nông thôn cũng đi đến thất bại như công cuộc cải tạo công, thương nghiệp tư bản tư doanh ở các thành thị Miền Nam.Các hình thức lao động sản xuất tập thể, dù do các tập thể tự quản (Tổ, Đội lao động, Hợp tác xã nông ngghiep…) hay do nhà nước quản lý (nông trường quốc doanh…) đều không đem lại hiệu quả kinh tế.
     Tựu chung, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trên lãnh vực nông nghiệp cũng như công, thương nghiệp, chỉ mới manh nha song đã thể hiện đầy đủ tính áp bức, bóc lột còn tàn tệ hơn quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa mà Việt cộng muốn xóa bỏ. Một sự bóc lột độc quyền nhà nước trên nguyên tắc, trên thực tế một cách cụ thể là sự bóc lột độc quyền của một giai cấp mới, “Giai cấp cán bộ, đảng viên cộng sản có chức, có quyền trong cơ cấu đảng, chính quyền và cơ cấu kinh tế.Chính những thất bại thảm hại trong việc thực hiện chủ trương cải tạo công, thương, nông nghiệp, lưu thông phân phối hàng hóa và dịch vụ tư bản tư doanh, Việt cộng đã phải tìm cách cứu nguy bằng chính sách “Đổi mới” theo gương Liên Xô trước đây.
Thật vậy, Liên Xô, sau khi lật đổ chế độ Nga Hoàng (1917), cũng quyết tâm đưa cả nước “Đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa phát triển”, bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thất bại(1917-1922), Lenin và Cộng đảng Bolsevick Nga đã đưa ra “Chính sách Kinh tế Mới” để sửa sai. Chính sách này đã giúp Liên Xô vượt qua khó khăn ban đầu và tồn tại thoi thóp thêm nhiều thập niên sau đó, cho đến năm 1985 khi Mikhail Gorbachev lên nắm quyền Tổng Bí Thư Cộng đảng Liên Xô đã cùng các đồng chí cấp tiến trong Cộng đảng Liên Xô phải thực hiện cải cách để cứu nguy chế độ xã hội chủ nghĩa Liên Xô sau 68 năm xây dựng (1917-1985). Thế nhưng, họ đã không thành công trong ý đồ cải cách để vẫn duy trì được chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.Vì chỉ sau một năm đưa ra được những nhận định thức thời (Trong Hội Nghị Toàn Liên Bang Xô-Viết lần Thứ 19 ngày 28-6-1988) và chưa đầy bốn năm (1988-1991) thực hiện chương trình “Cải tổ” (Glasnost) và “Cởi mở” (Perestroika), Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô-Viết đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991. Nay một lần nữa Việt cộng lại bắt chước Liên-Xô, thực hiện chủ trương, chính sách “Đổi Mới” cũng để để cứu nguy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thất bại sau hai kế hoạch ngũ niên (1976-1985).Thực hiện “Đổi mới” thế nào, hiệu quả ra sao?
*.- Các mạng tư tưởng và văn hóa?
*.- Các mạng khoa học kỹ thuật (là then chốt)
* Giai đoạn II: Thực hiện chính sách “Đổi Mới” (1985-1995)
(1) Nguyên nhân và mục tiêu của “Đổi mới”
     Trước những thất bại thực tế khi thực hiện định thức xây dựng xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời khoảng 1975-1985, nghị quyết Đại Hội VI của Cộng Đảng Việt Nam năm 1986, đã đưa ra chủ trương, chính sách “Đổi Mới” về kinh tế để sửa sai.(nhưng không đổi mới chính trị)
     Đại Hội VI của Cộng đảng Việt Nam năm 1986 đã nhận định lạnh lùng có tính “huề cả làng” về cái gọi là “những sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” là do “những biểu hiện nóng vội, muốn xóa bỏ ngay những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”, do cái gọi là “bệnh chủ quan duy ý chí”. Rồi thừa nhận “cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại một thời gian tương đối dài” trong suốt “Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
(2) Tiến hành “Đổi mới” thế nào?
Thất bại nên phải “Đổi mới” về phương cách nhưng vẫn giữ vững mục tiêu “Đi lên chủ nghĩa xã hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”
Thực hiện “Đổi mới” qua hai kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986-1990) và thứ năm(1991-1995), trên lãnh vực công, thương nghiệp, Việt cộng cho các hình thức sản xuất kinh doanh, phân phối, dịch vụ tư nhân cá thể hay tập thể (công ty, tổ hợp, cá nhân..), bên cạnh hệ thống công tư hợp doanh và quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.
     Trên lãnh vực nông nghiệp cũng thế, Việt cộng chấp nhận giao lại một phần ruộng đất cho nông dân canh tác trực canh cá thể hay tập thể, khoán sản phẩm hay nộp thuế nông nghiệp, tồn tại song song với các công, nông trường quốc doanh. Tuy nhiên Việt cộng chỉ cấp quyền xử dụng đất cho người nông dân, quyền sở hữu đất đai thì vẫn giữ thuộc “quyền sở hữu toàn dân” (tức thuộc nhà nước,tức thuộc đảng Cộng sản Việt Nam, vì “Đảng ta”cũng là “nhà nước ta”, “ nhà nước ta và Đảng ta”tuy hai là một, trong chế độ độc tài đảng trị Việt cộng).
     Chiến thuật của “Đổi mới” là tạm thời Việt cộng “lùi một bước” (chấp nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế tư nhân cá thể phi xã hội chủ nghĩa trên lãnh công, nông, thương nghiệp và dịch vụ…) để sửa chữa sai lầm, rồi tiến hai bước theo hướng “ đi lên kinh tế xã hội chủ nghĩa” (với ý định dùng thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai chủ đạo ngày một lớn mạnh sẽ tiêu diệt, thay thế dần dần các thành phần kinh tế tư nhân cá thể cũng như tập thể, để sau cùng thiết lập được quan hệ sản xuất công, nông, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa…như tài liệu của Việt cộng dẫn chứng ở trên).
(3) Hiệu quả ra sao?
     Trên thực tế, sau hai kế hoạch 5 năm “Đổi mới”(1986- 1995), mục tiêu sau cùng trên đã không đạt được vì các thành phần kinh tế tư nhân cá thể cũng như tập thể phi xã hội chủ nghĩa ngày một phát triển lớn mạnh, trong khi hệ thống kinh tế quốc doanh đóng vai chủ đạo thì ngày càng suy yếu, không chỉ là nguy cơ mà là một thực tế:các thành phần kinh tế tư nhân cá thể tư bản chủ nghĩa đã từng bước tiêu diệt các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể xã hội chủ nghĩa. Nhiều đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh công thương, nông nghiệp quốc doanh làm ăn hạch toán lỗ lã đã phải giải thể.
Như vậy là chính sách “Đổi mới” kinh tế sau 10 nằm đã không sửa sai, không cải tạo được các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Hệ quả tất nhiên là đã không thiết lập được quan hệ sản xuất, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Và như thế “Đổi mới” đã thất bại hoàn toàn vì các mục tiêu của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất là một trong 3 cuộc cách mạng của định thức đưa cả nước “Tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” đã không thành đạt.Nghĩa là thất bại hoàn toàn, nhưng Việt cộng vẫn không chịu thừa nhận, tiếp tục thực hiện “Thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” bằng chính sách “Mở cửa” giao tiếp với bên ngoài qua con đường “kinh tế thị trường, dịnh hướng xã hội chủ nghĩa”
* Giai đoạn III: Thực hiện chính sách “Mở cửa” (Từ 1996 đến nay)
(1) - Nguyên nhân và mục tiêu “Mở cửa”
     Thất bại trong chủ trương, chính sách“Cải tạo và xây dựng cơ sở ban đầu của xã hội chủ nghĩa”“Đổi mới” cũng không cứu vãn được, Đại Hội VIII Cộng Đảng Việt Nam (1996) đã đưa ra nghị quyết thực hiện chính sách “Mở cửa” vẫn trong chủ trương, chính sách “Đổi mới kinh tế”, “không đổi mới chính trị”.
(2)- Thực hiện thế nào?
          Sở dĩ Việt cộng thực hiện được chủ trương, chính sách “Mở cửa” này khá thuận lợi là nhờ nước cựu thù “Đế Quốc Mỹ” thay đổi chính sách,
(3) - Hiệu quả ra sao?Chính nhờ “Đế quốc Mỹ” cựu thù quay lại, từ “Đối phương” trong quá khứ chiến tranh thành “Đối tác” làm ăn trong hòa bình hiện tại và tương lai, trên căn bản hai bên cùng có lợi, đã giúp vực dậy công cuộc“Đổi mới” của Việt Cộng để có những bước phát triển “nhẩy vọt”, không phải “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa” bằng con đường “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”mà đã và đang “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa tư bản” .III - Kết luận: Thực tế trên ai cũng kiểm chứng và như thế mọi người có thể khẳng định không sợ sai lầm rằng : Không phải 44 năm, mà chỉ 15 đến 20 năm sau kết thúc chiến tranh, Việt cộng đã xây dựng xã hội chủ nghĩa thất bại hoàn toàn, cùng lúc với sự tiêu vong sự nghiệp công sản quốc tế. Vậy triển vọng tương lai xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam sẽ đi về đâu? Chúng tôi trình bày trong một bài viết tiếp theo.