45
Năm Việt Quốc chống cộng từ trong nước thế nào?
Thiện Ý
Như trong bài viết trước ‘Vì sao Việt quốc tiếp tục chống cộng sau
ngày 30-4-1875’, là bài thứ nhất trong loạt bài thể hiện chủ đề ‘45 năm Việt quốc chống cộng vì tự do dân
chủ cho Việt Nam, thành quả và triển vọng’. Đây bài viết thứ hai chúng tôi
muốn nhìn lại “45 năm qua Việt quốc đã
chống cộng từ trong nước như thế nào?’.
Như mọi người đã biết, mục tiêu tối hậu
của Việt quốc (1) chống cộng bao lâu
nay vẫn là làm tiêu vong chế độ độc tài toàn trị cộng sản để xây dựng một chế
độ dân chủ pháp trị. Để thành đạt hai mục tiêu chủ yếu, tối hậu trước sau này,
Việt quốc đã chống cộng thế nào trong 45 năm qua từ trong nước ra hải ngoại?
Câu trả lời chung là Việt quốc đã khởi
động chống cộng trong nước rất sớm sau ngày 30-4-1975. Thực tế là đã hình thành các tổ chức chống cộng
ngay từ những ngày tháng năm đầu sau khi Việt cộng chiếm được Miền Nam,chế
độ Việt Nam Cộng Hòa bị cưỡng tử. Ngoài nước thì hình thành các tổ chức và tiến
hành các hoạt động chống cộng trễ hơn, do phải lo ổn định cuộc sống trước đã. Căn
cứ vào biến chuyển tình hình trong nước và quốc tế, có thể chia diễn tiến công
cuộc chống cộng ở trong nước cũng như tại hải ngoại, qua ba thời khoảng tương
đương với ba thời kỳ Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội: (1) Xây dựng chủ nghĩa xã hội triệt để thất bại
(1975-1985) (2), ‘Đổi mới’ cứu nguy
không thành (1985-1995), (3) phải “Mở cửa” (1995-2020) đi theo con đường kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.(dù thực tế vẫn ngụy biện “định hướng xã hội
chủ nghĩa)
1.-
Thời khoảng Việt cộng triệt để xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1985).
Trong thời khoảng này, cả trong và ngoài
nước, các tổ chức chống cộng lúc đầu đã gặp nhau ở chủ trương tiêu diệt cộng
sản bằng sức mạnh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị,ngoại giao.
Trong nước, nhiều
tổ chức chống cộng ra đời như một cao trào đầy khí thế. Những tổ chức chống
cộng tiêu biểu lần lượt ra đời như Mặt Trận Phục Quốc, Mặt Trận Liên Bang Đông
Dương, Mặt Trận Liên Tôn, Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Dân Tộc, Mặt Trận Việt
Nam Tự Do, Mặt Trận Nhân Quyền… Tất cả đều do những nhân vật có tiếng tăm trong
quá khứ hay vô danh, dùng bí danh hay mượn tên người nổi danh dựng cờ khởi
nghĩa chống cộng.
Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, các tổ
chức chống cộng thường khó biết được thực lực và lãnh tụ thực sự là ai. Các tổ
chức đều nuôi sống hoạt động và giữ vững niềm tin của chiến hữu và niềm hy vọng
thắng lợi trong nhân dân chống cộng bằng các tin đồn đầy lạc quan. Rằng “Mỹ đi,rồi Mỹ lại tái lai”; rằng đây
chẳng qua chỉ là kế sách gài bẫy của Hoa Kỳ như để thực hiện một nhận định
chung chung của Bộ Trưởng Quốc phòng Do Thái Moise Dayang khi đến thăm chiến
trường Việt Nam năm nào và Sir Wilson người Anh Cố vấn du kích chiến cho quân
đội Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam; đại ý rằng
muốn chiến thắng cộng sản thì chỉ có cách cộng sản hóa Việt Nam.(ý nói là để mọi người Việt Nam biết thực tế
chế độ cộng sản độc tài, tàn ác, tai hại cho đất nước thế nào để, người dân
không còn nghe, tin vào những tuyên truyền dối trá của Việt cộng; để sau đó có
cơ hội chọn lựa cho Việt Nam một chế độ dân chủ pháp trị,nhân đạo thích hợp,
đáp đúng ý nguyện của toàn dân…)
Vì vậy, những người muốn dấn thân vào con
đường chống cộng trong thời khoảng này cũng nóng lòng tìm đường vào bưng biền,
tham gia các tổ chức chống cộng lập chiến khu, hướng lòng theo những tin đồn về
vị Tướng này, Tướng nọ của quân đội VNCH đã rút quân vào rừng, đang chỉ huy lực
lượng tàn quân lập chiến khu ở nơi này nơi kia để chờ ngày X giờ G quay lai
giải phóng toàn cõi đất nước .
Riêng người viết lúc đầu rất dè dặt, cũng
có nghe một số anh em thân thiết, bàn bạc theo khuynh hướng này và dặn dò nhau rằng
nếu ai tìm được đường giây vào bưng biền chống cộng khả tín, thì kêu anh em
cùng đi. Chúng tôi cũng đã đôi lần cùng với các người bạn này tiếp xúc bí mật
với người của một cánh quân nói là do một Đại úy Tiểu đoàn trưởng địa phương
quân, đang chỉ huy khoảng một tiểu đoàn kháng chiến quân, có mật khu ở vùng
Long Khánh…
Thế nhưng, Việt Cộng đã lợi dụng tình hình
mập mờ, tranh tối tranh sáng này, cùng với sự thiếu kinh nghiệm về tổ chức và
hoạt động bí mật của các chiến hữu chống cộng, nên an ninh, công an Việt Cộng
đã dễ dàng gài người vào các tổ chức chống cộng thật hay đẻ ra các tổ chức chống
cộng giả để gài bắt và phá vỡ các tổ chức chống cộng từ trong trứng nước hay
sau một thời gian hoạt động…
Nhưng cũng có những tổ chức với lãnh tụ
người thật việc thật tiêu biểu như Mặt Trận Phục Quốc với luật sư Nguyễn Khắc
Chính, Linh mục Chu Quang Minh khởi động công cuộc chống cộng rất sớm, chỉ ít ngày
tháng sau ngày 30-4-1975 qua vụ Việt cộng gọi là “phản động Nhà Thờ Vinh Sơn” trên đường Trần Quốc Toản Sài gòn. (Ls. Nguyễn Khắc Chính sau đó bị Việt cộng
kết án tù chung thân đã được thả sau cả chục năm,sau có đến Hoa Kỳ và Lm. Chu Quang Minh 5 năm tù). Mặt Trận Liên Tôn của Linh
mục Nguyễn Văn Vàng (là tu sĩ thuộc Dòng
Chúa Cứu Thế Việt Nam), được tổ chức
suy cử là Quốc trưởng Việt Nam lâm thời (sau
bị kết án chung thân nghe nói đã chết trong tù, có thời gian chung tù với người
viết (1980) ở buồng giam 11, khu F khám
Chí Hòa) và bào đệ là Thiếu tá nhẩy dù Nguyễn Văn Viên được cử là Thủ tướng
Chính Phủ Việt Nam lâm thời (sau bị kết
án tử hình và bị xử bắn). Tổ chức của Cha Vàng có mật khu Phụng Thiên ở
vùng Long Khánh làm căn cứ địa để thu hút chiêu binh tụ nghĩa chống cộng. Mặt
Trận Việt Nam Tự Do với Luật sư Vũ Ngọc Truy (nếu chúng tôi nhớ không lầm); Cao Trào Nhân Bản của Bs Nguyễn Đan
Quế hay Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam mà người viết đã tham gia thành lập và
hoạt động, với Chủ tịch là Gs. Nguyễn Đình Phượng, gốc đảng Đại Việt.
Sở
dĩ chúng tôi tham gia việc thành lập và hoạt động trong Mặt Trận Nhân Quyền
Việt Nam (1976-1978), vì chỉ ít
tháng sau ngày Việt Nam Cộng Hòa cáo chung, chúng tôi đã kịp nhận thức được chủ
trương dùng bạo lực quân sự chống cộng là lỗi thời, không hữu hiệu và không
thực tế, là húc đầu vào đá. Vì thời kỳ chiến tranh Quốc-Cộng vừa qua, với sự
trợ giúp dồi dào nhiều mặt của Hoa Kỳ và các nước đồng minh, Việt quốc đã thất
bại trong việc dùng sức mạnh quân sự tiêu diệt Việt cộng, dù Việt quốc chiếm ưu
thế tuyệt đối trong tương quan lực lượng quân sự. Nay tình thế đã đổi thay Việt cộng chiếm ưu
thế tuyệt đối trong tương quan lực lượng nên Việt quốc cần chống cộng theo phương
cách khác có hiệu quả, phù hợp với thực lực thực tế và biến chuyển của tình
hình quốc tế và quốc nội.
Vì thực tế chiến lược toàn cầu của các
cường quốc cực đã thay đổi, cuộc chiến tranh ý thức hệ trên phạm vi toàn cầu đã
đi vào thời kỳ cáo chung, để hình thành một chiến lược toàn cầu mới. Cuộc chiến
tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam chấm dứt không bình thường cũng là do yêu cầu thay
đổi của thế chiến lược toàn cầu mới này, nên mới có hiện tượng nghịch lý: Việt
quốc là phe mạnh về quân sự , có chính nghĩa,
nhưng đã phải đóng vai ‘bên thua cuộc’
trước đối phương Việt cộng, là phe yếu kém về quân sự, chỉ mạnh về vận động
tuyên truyền lừa mỵ, thủ đoạn chính trị, nên dù
ngụy nghĩa; song đã được chọn là ‘bên
thắng cuộc’ để đi vào thế chiến lược toàn cầu mới.
Từ nhận thức trên,chúng tôi đã khởi thảo
cô đọng tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt
Nam Trong Thế Chiến Lược Toàn Cầu Mới của các Cường Quốc Cực”, khoảng 30
trang đánh máy, phổ biến hạn chế
trong một số anh em thân tín.(Ra hải
ngoại năm 1992, viết lại với đầy đủ chi tiết hơn, thành tài liệu nghiên cứu lý
luận” Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” khoảng 500 trang, ấn hành lần
đầu 1995 và tái bản 2005).
Đến khoảng đầu năm 1977 khi tham gia thành
lập và hoạt động trong Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam, tài liệu nghiên cứu lý
luận trên của chúng tôi đã được tổ chức cho phổ biến như tài liệu tuyên truyền
và học tập nội bộ, để mọi người nhìn
thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm” mà
kiên trì đấu tranh lâu dài bằng vũ khí nhân quyền.(2)
Tựu chung có thể nói, sau thời khoảng 10
năm đầu(1975-1985) các cá nhân chống
cộng nhiệt thành tự phát hay có tổ chức, song vì tổ chức lỏng lẻo, thiếu kinh
nghiệm hoạt động bí mật, tổ chức chưa vững đã tung ra các hoạt động chống cộng
nặng tính phô trương… nên Việt cộng đã thành công trong việc tận dụng mọi thủ
đoạn, mọi phương cách, kỹ thuật đặc tình, đánh phá các tổ chức và trấn áp “truy quét phản động”. Nhờ đó, Việt cộng
đã ổn định được tình hình an ninh chính trị, từng bước củng cố cơ cấu đảng và
chính quyền để xây dựng triệt xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, dưới bảng hiệu chế
độ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”,
thực hiện các chủ trương, chính sách độc tài toàn trị, sắt máu tại Việt Nam.
2.-
Thời khoảng thực hiện chính sách “Đổi mới” (1985-1995).
Thời khoảng 10 năm kế tiếp này (1985-1995), các tổ chức và cá nhân chống
cộng trong nước, nếu tồn tại được đều rút vào bí mật hoàn toàn, không còn có
những hoạt động chống cộng ồn ào, đầy khí thế như thời khoảng 10 năm trước.
Ngay cả những chính đảng quốc gia có truyền thống chống ngoại xâm và chống cộng
quyết liệt như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng, Nhân Xã Đảng…
trong thời khoảng này cũng phải thúc thủ, mai phục chờ thời cơ.
Tuy nhiên, trong thời khoảng này hai tổ
chức chống cộng được quốc tế và nhiều người bắt đầu biết đến là “Cao Trào Nhân Bản” của Bs. Nguyễn Đan
Quế.(hình thành trong thời khoảng
1975-1985) và “Diễn Đàn Tự Do”
của Gs Đoàn Viết Hoạt. Thực lực của hai tổ chức này không ai biết rõ ra sao,
nhưng đã được quốc tế hậu thuẫn có lẽ vì chủ trương, đường lối đấu tranh cho
các quyền nhân bản: tự do, dân chủ, nhân quyền một cách hòa bình, phù hợp với chủ
trương chống cộng theo chiều hướng chiến lược toàn cầu mới:Diệt cộng chủ yếu
không bằng “Mật đắng” (bạo lực quân sự
) mà chủ yếu bằng “Mật ngọt” (kinh tế thị trường) và sức mạnh của
nhân dân (cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng mà). Vì vậy, vào thời khoảng này hai người đứng đầu tổ chức là Gs.
Đoàn Viết Hoạt (sau này được Hoa Kỳ can
thiệp Việt cộng trả tự do, trục xuất qua Hoa Kỳ…) và Bs. Nguyễn Đan Quế (cũng được Hoa Kỳ can thiệp, nhưng từ chối ra
nước ngoài, ở lại trong nước sau khi được trả tự do…) dù sau đó bị Việt
cộng bắt cầm tù, song thanh thế đã phát triển ngày một lan rộng trên trường
quốc tế cho đến một thời gian dài sau đó. Mặc dầu sau đó Bs Quế và Gs Hoạt cũng
bị khuynh hướng chống cộng bảo thủ, cực đoan chống phá, chụp mũ “Hòa giải hòa
hợp với Việt cộng…”; và đặc tình truyền thông Việt cộng nằm vùng tương kế tựu
kế đánh hôi, khai thác triệt để mâu thuẫn nội bộ này gây phân hóa nội bộ Việt
quốc.
Vì vậy, có thể nói trong thời khoảng này không có hoạt động chống cộng nổi
bật nào của tổ chức hay cá nhân chống cộng trong nước đáng ghi nhận. Điều đáng
ghi nhận một vài tổ chức chống cộng tiêu biểu có thực lực ở hải ngoại. Tiêu
biểu như Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam (MTQGTNGPVN) vào thời
khoảng này, đã tìm cách đưa người xâm nhập quốc nội, song đã bị Việt cộng chặn
bắt từ biên giới Lào-Việt. Một số người bị giết trong đó có thủ lãnh của tổ
chức này là Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh và nhiều kháng chiến quân khác (trong đó
có một người bạn cùng lớp thời Trung học với người viết là Trịnh Văn Hợi…). Một
số kháng chiến quân xâm nhập khác thì bị bắt sống trên đường xâm nhập ở Lào và
bị kết án nặng nề trong một phiên xử công khai vào khoảng diễn ra tại tòa nhà
Quốc hội VNCH cũ, với mức án tối đa là chung thân hay tử hình. Một tổ chức
chống cộng khác từ Pháp quốc của ông Lê Quốc Túy cũng đưa người xâm nhập Việt
Nam bằng đường biển, với hai ngưới bị bắt là các các chiến hữu Mai Văn Hạnh và
Trần Văn Bá.Sau đó Trần Văn Bá thì bị Việt cộng xử bắn, còn Mai Văn Hạnh thì bị
tù chung thân, sau chính phủ Pháp can thiệp vì là cựu nhân viên tình báo Pháp,
nên được thả cho trở về Pháp.
Về phía Việt cộng, trong thời khoảng này,
dù không gặp sự “quấy phá” đáng kể nào của phe Việt quốc, được yên ổn tiến hành
cái gọi là cuộc “cách mạng xã hội chủ
nghĩa”, song vẫn đã thất bại hoàn toàn trong mục tiêu xây dựng xã hội ‘xã hội chủ nghĩa’. Việt cộng đã phải
theo gương Liên Xô đi vào con đường “Đổi
mới” như Liên Xô, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình, nhưng chỉ ‘Đổi Mới’ kinh tế (kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa) mà không “Đổi Mới” chính trị như Liên Xô (dân chủ đa nguyên đa đảng) vì sợ mất
quyền thống trị độc tôn của Cộng đảng Việt Nam trong một chế độ độc tài đảng
trị. Vì thế sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ phải
chuyển đổi, Việt cộng đã vội quay lại
bám vào trụ cột Trung cộng, như Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới, để tồn tại thêm
thời gian.
3.-Thời
khoảng “Mở cửa” ( 1995 – 2020).
Thế nhưng chính sự cố bám víu quyền lực
này, sau 10 năm “Đổi Mới” ỳ ạch (1985-1995) kinh tế vẫn suy sụp, “Đế quốc Mỹ” cựu thù đã quay lại cho
thiết lập quan hệ ngoại giao, giúp vực dậy công cuộc “Mở cửa” của Việt cộng để có những bước phát triển “nhẩy vọt”, không phải “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
Chủ Nghĩa Xã Hội” bằng con đường “kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà đã và đang “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa tư bản”. Bởi vì con đường “Kinh
tế thị trường” tất yếu phải “định
hướng tư bản chủ nghĩa” với thuộc tính chính trị ‘Dân chủ pháp trị, đa nguyên, đa đảng’. Và chính con đường này đã
tạo được những bước phát triển ‘nhẩy vọt’
để Việt Nam có được bộ mặt phồn vinh hôm nay, chứ không phải do con đường ‘kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa’ như Việt cộng vẫn còn ngụy
biện.(và chúng tôi cũng đã vạch trần sự
ngụy biện này trong nhiều bài viết)
Thế rồi, cũng chính sự ‘Đổi mới kinh tế’ chuyển biến theo chiều
hướng này, đã bào mòn, phá đổ từng bước bản chất con người cộng sản và cơ cấu
độc quyền thống trị của Cộng đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa (CS), trước một
nguy cơ mà Việt cộng biết nhưng không làm gì được, nguy cơ ‘Diễn biến hòa bình’.
Vì đổi mới kinh tế là cùng lúc mở cửa cho các trào lưu tư tưởng và lối sống tự
do từ các nước dân chủ tư bản chủ nghĩa ùa vào làm chuyển biến con người (nhân
dân giác ngộ dân chủ, vượt qua sợ hãi, cũng như cán bộ đảng viên CS phản tỉnh
ngày càng đông), chuyển biến chính
trị, văn hóa, xã hội theo qui luật “lượng
đổi, chất đổi” không thể cưỡng lại
được (như thực tế biến đổi cuộc sống
con người và xã hội Việt Nam ngày nay…).
Vì vậy trong thời khoảng này, Việt quốc
chống cộng trong nước cũng như ngoài nước đã chỉ còn giữ lại trên nguyên tắc
chủ trương tiêu diệt cộng sản bằng bạo lực, nhưng thực tế chủ yếu là đấu tranh
bằng sức mạnh mềm (nhu thắng cương).
Thực tế là , Việt quốc đã khai thác triệt để nguy cơ “Diễn biến hòa bình” này để chống cộng qua những cao trào đấu tranh
nở rộ, đều khắp cả nước, từ mọi giai tầng xã hội, với tinh thần đầy lạc quan
tin tưởng ở tương lai về một cơ hội giành chiến thắng sau cùng của sự nghiệp
chống cộng vì tự do dân chủ cho đất nước…
Thật vậy, như chưa từng có trước đây, nay
nhiều cuộc biểu tình của công nhân, nông dân, dân oan đòi các quyền lợi dân
sinh, đòi quyền lợi kinh tế, đòi công bình xã hội đã nổ ra và ngày một gia tăng
số lượng, mức độ lan rộng và cường độ đấu tranh. Từ biểu tình đòi quyền lợi
kinh tế, các quyền lợi dân sinh đến biểu tình mang tính chính trị, đòi dân chủ
đa nguyên, đa đảng, đòi thành lập công đoàn tự do, đòi thành lập các tổ chức xã
hội dân sự, đòi tôn trọng tự do tôn giáo, tín ngưỡng; hay các cuộc biểu tình
không chống chính quyền trực tiếp, nhưng gián tiếp qua chống Trung Quốc xâm
lược, để Việt cộng phải lộ bộ mặt thừa sai của ngoại bang, bán nước, như đổ
thêm dầu vào lửa, đẩy “tức nước” đến
gần “biên
độ vỡ bờ” hơn, khi nhà cầm quyền Việt cộng cho đàn áp các cuộc biểu tình
yêu nước này.
Nói chung là Việt quốc đã tìm cách huy
động sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, dùng vũ khí nhân quyền, dân quyền, dân
sinh dân chủ, tấn công mọi mặt, làm sói mòn từng bước chế độ độc tài cộng sản;
để kết thúc tiến trình dân chủ hóa Việt Nam theo quy luật duy vật biện chứng ‘lượng đổi chất đổi’. Nghĩa là, do tác
động của các cuộc đấu tranh của nhân dân trong nước đã và đang tiêu diệt tịnh
tiến ‘vi trùng độc CS’ thay thế dần
bằng các ‘sinh trùng dân chủ’ và sẽ
kết thúc tiến trình dân chủ hóa Việt Nam ở cuối quá trình khi lượng sinh trùng
dân chủ thừa đủ tiêu diệt hoàn toàn vi trùng độc tài CS; tương tự như nước sôi
đến 100 độ C thì bốc hơi.
Thực tế vì thế và nhờ đó, nhiều người dân
trong thời khoảng này, thuộc nhiều thành phần, giai cấp xã hội, đã dám lên
tiếng tự phát (cá nhân) hay tự giác (có tổ chức) cách này cách khác phê
bình, chỉ trích công khai có mức độ chính sách sai lầm của nhà nước hay tố cáo
những cá nhân cán bộ đảng viên cộng sản có chức có quyền, tham ô, cường hào, ác
bá cướp đoạt đất đai, tài sản của nhân dân, của các giáo hội. Điều mà giai đoạn
trước, hơn 25 năm trước đây, chắc chắn đã bị Việt cộng triệt hạ, đàn áp thẳng
tay bằng thủ tiêu, nhà tù, lao động khổ sai cho đến thân tàn ma dại hay chết rũ
tù…
Mặt khác, trong thời khoảng này, một số
chính đảng và tổ chức đấu tranh hình thành từ các giai đoạn trước cũng như mới
thành lập trong thời khoảng này, đã tung ra các hoạt động công khai, bán công
khai hợp pháp cũng như bất hợp pháp, liên kết với Việt quốc hải ngoại, đấu
tranh đòi tự do, dân chủ, đòi chế độ đa nguyên đa đảng, dù Việt Cộng có đàn áp,
bỏ tù, nhưng ở mức độ không triệt để, theo kiểu “mềm nắn, rắn buông”, bắt bỏ tù, thả rồi bắt… tùy theo áp lực quốc
tế có ảnh hưởng ít nhiều trong quan hệ song phương hay đa phương. Và tùy thuộc
ý đồ bắt thả để khai thác lợi ích của Việt cộng.
Một số tổ chức mới xuất hiện trong thời
khoảng này, tiêu biểu như Đảng Dân Chủ Việt Nam, từng là công cụ trang trí bộ
mặt dân chủ giả hiệu của CSBV trước đây, trong thời kháng chiến chống Pháp
(1945-1954) và chiến tranh Quốc-Cộng (1954-1975) ; nay đã được những cựu đảng
viên công sản phản tỉnh như Hoàng Minh Chính, Trần Khuê phục hoạt. Sau đó,tổ
chức Khối 8406 hình thành qui tụ các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước đa số
là các đảng viên cộng sản ‘phản tỉnh’;
rồi đảng Thăng Tiến, Liên đảng Lạc Hồng ra đời… Tất cả các tổ chức này, trong
những năm đầu của thời khoảng này đã phát triển tổ chức trong nước, mở rộng ra
hải ngoại, với nhiều hoạt hoạt động đấu tranh tích cực dưới nhiều hình thức, dù
bị nhà cầm quyền Việt cộng không ngừng trấn áp, song thực tế VC cũng đã có
những bước phải lùi dần về phía dân chủ. Chúng tôi cho rằng, đây là giai đoạn
quá độ từ “thử nghiệm dân chủ” qua “thực tập dân chủ” để tiến đến nền “Dân chủ pháp trị đa đảng” mai hậu (như chúng tôi đã nhận định trong tài liệu
nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc tế Mới” phát hành lần
đầu năm 1995 và tái bản năm 2005).
Kỳ tới chúng tôi trình bày tiếp thực tế “45 năm Việt quốc chống cộng ở hải ngoại
như ra sao?”.
Thiện Ý
Houston, ngày 9-3-2020
GHI
CHÚ:
(1)- Trong bài kỳ trước, đã có một bạn đọc phản hồi rằng ‘…..’ Xin vui lòng tìm đọc lại bài viết đăng trên diễn đàn này ngày 12-8-2019 nhàn đề ‘Vì sao Việt quốc chống Cộng, từ khi nào và cho đến bao giờ?’. Người viết đã định nghĩa “Việt quốc’ cũng như ‘Việt cộng’ là ai.
(2)-Trong nhiệm vụ thuyết trình
trước một phiên họp bí mật tại tư gia “Thầy
giáo Phượng” thuộc Giáo sứ Bình An Thượng Quận 8 Sài gòn, để sau đó đi đến
thành lập Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam (MTNQVN). Thành phần đa số là các bậc
cha chú, từng hoạt động trong các chính đảng quốc gia có truyền thống đấu tranh
chống thực dân Pháp và Việt Minh (mặt nạ
của Việt cộng trong kháng chiến chống Pháp). Trong cuộc họp này, chúng tôi
đã trình bầy dự thảo về cơ cấu tổ chức, chính cương và sách lược đấu tranh của
Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam, bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Việt Nam 1977 (đã được
VOA cho đăng lại tháng 12-2018 nhân kỷ niệm 70 năm Bàn Tuy6en ngôn Quốc tế nhân
quyền 1948). Sau khi thảo luận và biểu quyết thông qua, đã hình thành bộ phận
lãnh đạo trung ương, với Chủ tịch MTNQVN là Gs. Nguyễn Đình Phượng (Giáo
Phượng). Cá nhân tôi được cử là Ủy Viên Nghiên Huấn và đặc trách chương trình
phát thanh ‘Tiếng nói của Mặt Trận Nhân Quyền Việt Nam’ khi được thành lập sau
này…
Mặc dầu rất cẩn trọng,
tổ chức MTNQVN cũng như nhiều tổ chức chống cộng khác trong thời khoảng này,
cũng đã bị công an Việt cộng gài người và phá vỡ, sau gần hai năm hoạt động.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.