43
năm nhìn lại:
THẢM
CẢNH CUỐI CÙNG KẾT THÚC MỘT QUÁ TRÌNH, MỘT CUỘC CHIẾN.
Thiện Ý
Thảm cảnh bắt đầu từ vụ
Buônmêthuột thất thủ, tiếp đến là quyết định của T.T. Thiệu bỏ ngỏ Cao nguyên
cho cộng quân, di tản chiến thuật. Thế là quân dân các vùng di tản bị rơi vào
tình cảnh tán lọan. Nhiều quân nhân bỏ ngũ chậy về lo cho gia đình di tản.
Những người dân thường cũng rời bỏ cửa nhà, ruộng vườn, tài sản tháo chậy về
phía tự do như dòng thác đổ.
Người ta ghi nhận “ có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di tản
về Nha Trang, một tỉnh ven biển Miền
Trung của Việt Nam Cộng Hòa, phòng tuyến
cuối cùng của Quân Đòan II, Quân Khu II, mà sau quyết định của ông Thiệu, Quân
Đòan II tan vỡ nhanh như một giấc chiêm bao, mới đầu hôm sớm mai mà Quân Đòan
đã bị tiêu hủy trong nháy mắt. Hành lang phía Tây Sài Gòn bị đe dọa trầm trọng…”(27).
Trong khi đó ở Huế, quân
dân rút về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển . Một số khác theo đường
bộ tháo chạy về phía Nam
như một “Đại lộ kinh hoàng”. Vì trên
đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến cảnh
tranh sống sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa thanh
thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp; tình huynh đệ chi
bình, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc “rút lui chiến thuật” đầy hỗn lọan này. Thảm cảnh này cũng diễn ra
tương tự ở nhiều tuyến “Rút lui chiến
thuật” khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo chạy về phía tự do,
vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng “Đã có
thương lượng cho Cộng Sản Bắc Việt một
nửa lãnh thổ Việt Nam
Cộng Hòa mà không chống cự…”
Quả thực đến đầu Tháng 4
năm 1975, một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản. Tốc độ
rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người và thực
ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000 binh sĩ
VNCH đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn toàn bị
đảo ngược. Chế độ VNCH ở Miền Nam Việt Nam lâm nguy! Mặc dầu thực tế diễn
ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng TT. Gerald Ford lúc đó vẫn làm ra vẻ quan
tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của VNCH. Ông Ford đã đề nghị ngân
khỏan viện trợ quân sự bổ sung 700 triệu
Mỹ kim trang bị và lập cầu không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực
VNCH. Hành động này của T.T. Ford chẳng khác chi hành động của một nhà đạo đức
giả, một bác sĩ vô lương tâm, biết rằng con bệnh sắp chết và cái chết ấy có một
phần trách nhiệm do mình gây ra, nhưng bề ngòai vẫn tỏ ra hết lòng muốn cứu
sống con bệnh. Dẫu sao, đó cũng chỉ là những lời tuyên bố để che đậy một ý đồ cũng chẳng thay đổi được thực tế.
Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm, Đại sứ VNCH
tại Mỹ, đã từ Washington
trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng “Không
còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế…”.
Thực tế là một nửa nước đã mất, người ta chỉ còn trông chờ vào một cứu tinh.
Nhưng nào còn ai dám làm cứu tinh, khi người Mỹ đã bỏ cuộc. Vậy chỉ còn trông
chờ một phép lạ, mà phép lạ thì siêu hình khó xẩy ra. Vậy chỉ còn cách chấp
nhận thực tế mà tờ New York Time số ra ngày 1-4-1975 đã phản ánh tổng quát “Quân Bắc Việt đã tràn lên khắp đất nước và
chỉ gặp vài kháng cự lẻ tẻ, lãnh thổ bị chiếm là do bỏ cuộc thực sự…”.
Theo sự đánh giá của một
nhân viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ VNCH thì “Lúc này, để bảo vệ Sàigòn quân Nam Việt đang
tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư đòan, đương đầu với 18 sư đòan quân Bắc
Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng
tuyến án ngự cuối cùng chậy từ một phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển Miền
Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân Lộc…” (28).
Thế nhưng tình hình thực
tế ngày càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp
được Mỹ khuyến khích từ lâu, là thương lượng với CS để thành lập một chính phủ
liên hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp tương tự từng được qui định
trong Hiệp Định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là
giải pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một
lần nữa giải pháp được chọn lựa trong Hiệp Định Paris
về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973. Thực ra, đây là một
giải pháp chỉ có giá trị pháp lý trên văn bản có tính nguyên tắc, thực tế thâm tâm người Mỹ không muốn nó được thực
hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt bỏ chế độ VNCH
càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất cứ hình thức nào
đều làm cản trở tiến trình đi vào thế
chiến lược quốc tế mới của Mỹ. Điều này cũng phù hợp với tham vọng của CSBV, không muốn thương lượng trong điều kiện
hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần ông
Thiệu bị lật đổ bằng chính người của ông ta. Họ muốn chế độ VNCH sụp đổ trước
khi họ đến tiếp quản mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp
đổ từ từ để còn cho họ nguyên vẹn những chiến lợi phẩm, đúng ra là mọi tài sản
của chế độ bị sụp đổ không do sức mạnh chiến đấu của họ.
Đúng như lòng mong muốn của CS Hà Nội, ông
Thiệu đã phải từ chức trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh giành quyền
lực dưới sự đạo diễn cùa CIA. Ngày 21-4-1975, bằng một bài diễn văn gay
gắt ôngThiệu đã tố cáo sự phản bội của
Mỹ, được truyền đi trên các phương tiện truyền thông đại chúng, phương tiện mà
truớc đó người Mỹ đã thiết lập cho chế độ VNCH làm công việc tuyên truyền lôi
kéo những con tim, khối óc và cả mạng sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam đi
vào chiến lược chống cộng bảo vệ chế độ và phần đất tự do MNVN như một “ tiền đồn thế giới tự do” ngăn chặn sự
bành trướng của cộng sản quốc tế của Mỹ! Đây là những lời tố cáo muộn màng của
ông Thiệu:
“ Họ
bỏ rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng
minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ…” (29).
Đây lại một lầm lẫn lớn, cho đến lúc này ông Thiệu vẫn chưa nhận ra thực trạng
này: Chưa bao giờ VNCH được Mỹ đối xử như một đồng minh. Rồi ông Thiệu hằn học
oán trách người Mỹ: “Các ông bỏ chạy để
mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi không có gì
hết mà các ông lại muốn chúng tôi hòan thành điều mà các ông
không làm nổi... Khi ký Hiệp Định hòa bình, Mỹ đã thỏa thuận sẽ thay thế vũ khí
trên căn bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày nay còn ai có thể tin
vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa hay không?...” (30)
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa là năm
ngày sau khi T.T. Thiệu từ chức, Quốc Hội Sài Gòn đã khởi đầu bằng một thông
báo, theo đó người được Tổng thống Thiệu chỉ định nắm quyền Tổng thống VNCH (theo Hiến Pháp) là Phó Tổng Thống Trần
Văn Hương, nay được Quốc Hội ủy nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông
trong chức vụ Tổng thống VNCH. Trên căn bản thông báo này, quyền Tổng thống
Trần Văn Hương đã chỉ định Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng Thống VNCH (ngòai dự liệu của Hiến Pháp). Ngày
28-4-1975, Tướng Minh nhậm chức, cử giáo sư Vũ Văn Mẫu vào chức vụ Thủ tướng
chính phủ, đứng ra thành lập nội các hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng
cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.
Như vậy là Tướng Dương
Văn Minh, người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ
nhất VNCH, nay lại được Mỹ tuyển chọn
đúmg ý Việt cộng làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ Nhị VNCH mà chính ông đã góp phần
tạo dựng.
Mặc dầu hai ông T.T. Dương Văn Minh và Thủ
tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ “Hoà giải và hòa hợp dân tộc”, với một số động tác mời chào giả tạo,
như ra thông cáo giả vờ đuổi hết người Mỹ, rằng trong vòng 48 giờ đồng hồ,
người Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam; ra quyết định thả hết các tù chính
trị (tức tù Việt cộng)… Nhưng tất cả
đã muộn rồi, CSBV đã cảm thấy đang ở thế thượng phong, chẳng cần “hòa giải hòa hợp” với ai nữa. Vì “hòa giải hòa hợp dân tộc” vốn chỉ
là chiến thuật thường được CS sử dụng
khi chưa đủ sức thanh toán đối phương, giành thắng lợi tối hậu mà thôi.
Sau đây là một đọan tường thuật của một nhà văn Việt Cộng về những giây phút
cuối cùng của cái “Chính phủ hòa giải hòa
hợp” vào giờ thứ 25 của cuộc chiến:
“… 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm
1975
Chiếc xe tăng tiến vào xô đổ cánh cửa sắt
của Dinh Độc Lập. Từ trên xe nhẩy xuống, một tổ chiến sĩ Quân Giải Phóng trẻ
măng mặc đồng phục lá cây, cầm lá cờ mầu đỏ xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về
phía dinh.
Những thành viên của chính phủ Dương Văn
Minh mới nhận chức ngày hôm trước về tề tựu tại phòng chính của dinh Độc Lập,
đứng dậy khi những người cán bộ của Quân Đòan II, mặt sạm khói súng và bụi
đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành phố suốt dọc bờ biển Miền
Trung tới đây.
Dương Văn Minh nói:
Tòan thể chính phủ VNCH đều có mặt đợi các
ngài đến để bàn giao chính quyền.
Một cán bộ nói:
Các ông còn gì nữa để bàn giao! Các ông
phải đầu hàng vô điều kiện!” (31).
Khi đọc những lời tường thuật trên đây,
người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho Tướng Dương Văn Minh, khi
thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc “Khai sơn phá thạch”, nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ
khác gặt hái thành quả.
Trong khi đó một phóng viên của hãng thông
tấn AP ở lại Sàigòn đến phút chót đã kể lại:
“Không
có một tiếng súng nào, hàng trăm người Sàigòn cũng như tôi đứng há miệng nhìn
đòan xe tăng ngày càng nhiều của cộng sản tiến vào thành phố. Đến trưa, mọi
chuyện đều xong. Trong suốt 13 năm viết về chiến tranh Việt Nam, tôi không bao
giờ tưởng đến chuyện nó kết thúc theo
lối này. Tôi hình dung phải có một cuộc mặc cả về chính trị tương tự như đã xẩy
ra ở Lào mười năm về trước. Hoặc là một trận đánh theo kiểu Armageddon ở Châu
Âu trong Thế Chiến Hai, mà kết cuộc là thành phố bị tan nát. Chuyện đầu hàng là
điều hòan tòan tôi không ngờ tới...” (32)
Một viên chức CIA đã rời Việt Nam trong
toán CIA cuối cùng vào ngày 30-4-1975, thì đã ghi lại những hình ảnh cuối cùng
của cuộc chiến như sau:
“Chiếc
máy bay trực thăng đã bắt đầu rời khỏi Tòa Đại Sứ. Người xạ thủ ở đuôi máy bay
đang cúi rạp người trên súng của mình. Máy bay vòng trên thành phố. Trong
khỏanh khắc tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của một trong những cửa sổ tiệm rượu
Mini Bar, một tiệm nổi tiếng vào bậc nhất ở Sàigòn, nơi biết bao chàng lính Mỹ
đã mất sạch cả cơ nghiệp cùng với sự ngây thơ của mình. Và rồi chiếc máy bay
ngoặt lại, hướng về phía Nam, bay qua Biên Hòa, thấy tóan xe Bắc Việt đèn sáng
trưng đang uốn mình trên con đường vào Biên Hòa… Trong phút chốc, kiến trúc
khổng lồ mầu xám của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ đã bao lấy chúng tôi như một
cái kén khổng lồ bằng kim khí…” (33)
Một ngày trước khi Sàigòn rơi vào tay Hà
Nội (29-4-1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn làm việc
trong tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sàigòn đợi lệnh từ Hoa Thịnh Đốn trả lời yêu cầu
của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối cùng:“ Tổng Thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin
phải rời đi bằng chiếc máy bay này”. Đó là chiếc máy bay CH-46 được gởi đến
đón Martin mang tên “Lady Ace 09” (32
bis).
Như vậy là cuộc chiến tranh Việt Nam đã
chấm dứt với thái độ phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ, người khởi đầu và
cũng là người kết thúc sinh mạng một chế
độ công cụ của mình. Micheal Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn “Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn
ngày” đã ghi lại cảm tưởng của
Martin đối với cuộc chiến kết thúc là “thấy
nhẹ cả người”. Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh
dài nhất của Mỹ đã chấm dứt. Nó là “một
cuộc xung đột”, “một sự dính líu”,
“một kinh nghiệm” và thất bại của nó
sẽ được các sử gia có thể phán xét, không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa
Kỳ. Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu,
thế là đủ. Từ hai năm về trước (1973-1975), họ đã thực hiện được một nền hòa
bình cho họ tại Việt Nam.
Hầu hết người Mỹ đã cảm thấy “một nền hòa bình trong danh dự” đã đạt
được như người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bang quan chán ngắt, có đôi
chút sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu
của Mỹ, chỉ trong nhiều tuần đã trở thành vô nghĩa. . .
Vô nghĩa ư? - Thực ra, cuộc chiến tranh
Việt Nam kết thúc như thế đã chỉ có thể là vô nghĩa và vô ích với nhân dân Mỹ, khi mà họ đã phải
gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu xương của 58.000 binh sĩ
con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không thực hiện được mục đích
cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân chủ và phần đất tự do ở
Miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích đối với chính quyền Mỹ,
khi sự kết thúc chiến tranh đến vào lúc mà
mà các mục tiêu chiến lược của họ
đã đạt được qua cuộc chiến tranh này, mở ra một thời kỳ đầy triển vọng sau
chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng này, trong khung
cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.
Riêng đối với nhân dân Việt Nam,
cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975) kết thúc như thế thì quả là vô nghĩa và tàn
hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa là nỗi đau,
vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam. Là nỗi đau cho nhân dân Miền
Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh chiến đấu cho một chiêu bài giả hiệu “Độc lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng
Miền Nam,
thống nhất đất nước trong hòa bình, ấm
no, hạnh phúc…”. Cũng là nỗi đau của
nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ ở Miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành
lao vào một cuộc chiến “bảo vệ chế độ tự do dân chủ”. Từ nỗi
đau chung này, nhân dân hai miền Bắc-Nam Việt Nam cùng có chung một mối hận đối
với những kẻ cầm quyền trên cả hai miền Nam-Bắc, từng là công cụ đắc lực một thời cho ngọai bang, đã xô đẩy nhân dân
hai miền vào một cuộc chiến tàn hại và vô nghĩa. Người dân tự hỏi: Tại sao cũng trong gọng kềm của của cuộc
chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, Bắc Hàn và Nam Hàn đã có thể cùng tồn tại để
chờ cơ may thống nhất một cách hòa bình. Trong khi Việt Nam thì đi đến
thống nhất bằng một cuộc chiến cốt nhục tương tàn, anh em một nhà tàn sát lẫn
nhau và tàn phá tan hoang đất nuớc?
Công tội của các tập đoàn lãnh đạo công cụ
tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được lịch sử
phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh
cốt nhục tương tàn chấm dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là
cơ may mới cho đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm
muốn giúp các nước nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết
lập một nền trật tự thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là
chiến lược “Tòan cầu hóa của các cường
quốc cực”: Tòan cầu hóa về chính trị bằng một chế độ dân chủ và tòan cầu
hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong khung cảnh ấy, các quốc
gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều).
Như thế, chiều hướng mới xem ra có vẻ tốt
đẹp. Nhưng chấm dứt cuộc chiến bằng sự triệt tiêu chế độ cực hữu VNCH mới chỉ
là bước thứ nhất của một quá trình đưa đất nước ta vào vận hội mới của một thế
chiến lược quốc tế mới. Chúng ta còn phải trải qua bước thứ hai của quá trình
này, là triệt tiêu chế độ cực tả CộngHòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN)
hiện nay. Vì chỉ sau đó, đất nước ta mới đi vào đúng quỹ đạo của một chiến lược
toàn cầu mới mà các cường quốc cực đã và đang nỗ lực thực hiện.
Vậy thì, quá trình triệt tiêu chế độ cực
tả CHXHCNVN đã và đang diễn ra như thế nào? Đó là bước thứ hai của tiến trình
ba bước mà chúng tôi đã trình bầy chi tiết trong tập tài liệu nghiên cứu lý
luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc tế
Mới”.(*)
Thiện Ý
Houston, tháng 4 năm 2018
*Ghi chú: Trích từ “Việt Nam
Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện .
- Từ (27)
đến (33 bis): Theo “The Ten Thousand Days War” của Michael Maclear, nhà báo Mỹ được giải thưởng
Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào: luatkhoavietnam.com , mục “Diễn
Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu
lý luận “Việt Nam
Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe
Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.