Nhân
định:
VIỆT NAM CẦN ĐƯA VỤ
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO RA TRƯỚC LIÊN HIỆP QUỐC VÀ CÁC CƠ
QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ.
Thiện Ý
Trong một chương trình phát thanh bằng Việt ngữ của
đài Tiếng Nói Nhân Dân Trung Hoa nghe được hôm 15-5-2014 trên mạng lưới internet
toàn cầu, một xướng ngôn viên dọng nữ đã đọc bản “Thông
báo của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, trong đó Trung Quốc
đã thừa nhận biển đảo Hoàng sa và Trường sa là của Việt Nam, nguyên văn
như sau:
“ Chúng tôi đồng ý là Hoàng Sa, Trường Sa và bờ biển thuộc Việt
Nam, nhưng Cộng Sản Việt Nam
đã ký công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào ngày 7-6-1958. Trung quốc có đầy
đủ những chứng cứ không thể chối cãi trên vùng biển và Trung quốc sẽ được khai
thác dầu khí của Việt Nam, cộng sản Việt Nam sẽ không thể nào làm gì được…” (1)
Như vậy là Trung Quốc đã muốn dùng công hàm
do Thủ Tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước đây ở Miền Bắc trong thời kỳ
chiến tranh xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam để làm căn cứ hợp pháp
hóa sự xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Một luận cứ
hoàn toàn khác với luận cứ bao lâu nay của Trung quốc, rằng chủ quyền Hoàng Sa
và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam
Sa) là của Trung Quốc căn cứ trên bàn đồ lịch sử 9 đoạn bao gồm toàn bộ Biển
Đông và các căn cứ khác không thể tranh cãi. Luận cứ này cũng cho người ta thấy
dù trước đây “Hoàng Sa, Trường Sa và bờ
biển thuộc Việt Nam”, nhưng nay thuộc chủ quyền Trung Quốc do đảng Cộng Sản
Việt Nam đã sang nhượng để trừ món “nợ
của Trung Quốc trên 870 tỷ về chiến tranh Điện Biên Phủ và chiến tranh chống Mỹ.
Thời bây giờ các người đã nhượng biển đảo
cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thì không có lý do nào các người không công bố
cho tất cả mọi người dân biết để mà tiếp tục chống Trung Quốc…” (2).
Thế
nhưng chính những căn cứ và luận cứ trên của Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận
lợi cho Việt Nam đưa vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo “Hoàng Sa, Trường Sa và bờ biển Việt Nam” ra trước Liên Hiệp Quốc
hay cơ quan tài phán quốc tế. Việt Nam sẽ có thêm căn cứ pháp lý vững chắc,
ngoài các căn cứ đã có về lịch sử, hành chánh, pháp lý và chiếm dụng thực tế để
đòi buộc Trung Quốc phải trả lại các vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam đang bị Trung Quốc chiếm cứ. Về lý tình Việt Nam nhất định sẽ thắng nếu Việt Nam đưa vụ
tranh chấp chủ quyến này ra Liên Hiệp Quốc hay trước cơ quan tài phán quốc tế
có thẩm quyền.
Thật vậy, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
trước cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền là Việt Nam không cần tranh cãi vì
không cần phải chứng minh chủ quyền nguyên thủy của mình trên vùng biển đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, vì Trung Quốc mới công khai nhìn nhận, lại còn như thách
thức Việt Nam nếu đưa vụ việc ra trước Liên Hiệp Quốc, rằng “Chúng tôi (tức Trung Quốc) có đầy đủ những
bằng chứng để đem ra Liên Hiệp Quốc và buộc CSVN phải rút hết tất cả những tầu
chiến của họ và để cho tầu Hải Dương 981 được tiếp tục làm nhiệm vụ để thăm dò
và khai thác dầu khí.”(3).
Bây giờ Việt Nam chỉ cần biện chứng rằng
chủ thể sang nhương là Đảng Cộng sản Việt Nam không có tư cách pháp lý và công
hàm do Thủ Tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký ngày 7-6-1958 chỉ là công
hàm ngoại giao, không có hiệu lực pháp lýđể được thi hành.
Trước hết đảng Cộng sản Việt Nam là
một đảng cầm quyền, không có tư cách thay mặt nhà nước để ký kết sang nhượng
đất đai, biển đảo thuộc lãnh thổ quốc gia theo luật quốc nội cũng như công pháp
quốc tế.Vì đó thuộc thẩm quyền nhà nước.
Thứ đến công hàm do Thủ Tướng nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ký ngày 7-6-1958 về hình thức chỉ là một văn kiện ngoại giao,
với nội dung lên tiếng tán đồng việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam thuộc lãnh thổ Trung Quốc với tên là Tây Sa và Nam Sa.
Công hàm này chỉ có ý nghĩa chính trị và ngoại giao trong thời khoảng chiến
tranh ý thức hệ giữa hai quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (cộng sản Bắc Việt) và
Việt Nam Cộng Hòa (quốc gia Miền Nam).
Ý nghĩa đó chỉ là sự tán đồng bề ngoài của Việt cộng để cho Trung cộng cùng phe cộng sản xâm chiếm giúp cho các hải
đảo đang thuộc chủ quyền của đối phương là Việt Nam Cộng Hòa trong âm mưu thôn
tính toàn bộ Miền Nam.Như vậy, công hàm của Phạm Văn Đồng Thủ Tướng chính phủ
VNDCCH ở Miền Bắc không có hiệu lực vì không có tư cách tuyên bố tán đồng việc
Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa khi đó thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa và vẫn thể hiện chủ quyền bằng sự
chiếm giữ lâu dài và liên tục trên thực tế,với sự bảo vệ của hải quân VNCH cho
đến khi bị Trung Quốc đánh chiếm vào ngày 17- 1-1974. Và ngay lúc đó chính
quyền quốc gia VNCH ở Miền Nam Việt Nam đã lên tiếng mạnh mẽ bác bỏ và công bố
Bạch Thư xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, được xác lập từ lâu về mặt lịch sử, pháp lý, hành chánh cũng như thực tiễn
chính phủ VNCH đang quản lý.
Thành ra, nếu Trung Quốc chỉ dùng công hàm
do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 7-6-1958 trong thời kỳ chính phủ của ông chỉ
có quyền quản lý một nửa đất nước Miền Bắc, thì hoàn toàn không có căn cứ pháp
lý để hợp pháp hóa các vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường đã chiếm đoạt của Việt Nam. Ngay cả sau khi
cưỡng chiếm được Miền Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đổi tên thành Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam kế thừa quyền quản lý toàn bộ đất nước, thì công hàm
ngày 7-6-1958 cũng vẫn chỉ có giá trị
như là một “Bản ghi nhớ” của hai bên
trước khi ký kết hiệp ước song phương sang nhượng biển đảo.Bởi vì sau đó, giả
như dù hiệp ước sang nhượng này đã được các Thủ Tướng hai chính phủ Việt- Trung
ký kết, thì còn phải được sự phê chuẩn của Quốc Hội Việt Nam vốn được coi là cơ
quan đại diện quyền lực tối cao của nhân dân, thì hiệp ước mới có hiệu lực thi
hành.Đó là thủ tục pháp lý cần thiết bó buộc theo Hiến pháp và luật pháp quốc
nội của cả hai nước Việt – Trung cũng như luật pháp và tập quán quốc tế.
Vậy thì, nếu Việt Nam đưa vụ tranh chấp
chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa ra trước Liên Hiệp Quốc hay cơ quan
tài phán quốc có thẩm quyền, thì kết quả sẽ không như sự khẳng định trong “Thông Báo của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”
mới đây, rằng “Hoàng Sa, Trường Sa và bờ
biển sẽ không thể chối cãi là thuộc về chủ quyền của Trung quốc mà CSVN do Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã ký kết vào năm 1958. Chúng tôi có đầy đủ những bằng
chứng để đem ra Liên Hiệp Quốc và buộc CSVN phải rút hết tất cả những tầu chiến
của họ và để cho tầu Hải Dương 981 được tiếp tục làm nhiệm vụ để thăm dò và
khai thác dầu khí.”(5)
Trái lại, phán quyết sau cùng của cơ quan
tài phán quốc tế sẽ phải là:
- Xác
nhận chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, không cần tranh cãi. Vì
chính phủ Trung Quốc đã thừa nhận bằng “Thông cáo của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa” ngày 15-5-2014 được phổ biến công khai trên các phương tiện truyền
thông quốc nội cũng như quốc tế.
- Bác
khước luận cứ của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Dân Trung Hoa đưa ra
để duy trì sự chiếm đóng vĩnh viễn các vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam. Vì căn cứ đưa ra (Công Hàm ngày
7-6-1958) là hoàn toàn vô hiệu cả về hình thức lẫn nội dung.Mọi cam kết bí
mật giữa đảng CSVN và nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (nếu có) trong quá khứ
đều vô hiệu. Vì đảng CSVN không có thẩm
quyết kết ước liên quan đến lãnh thổ quốc gia và không kết ước theo đúng thủ
tục luật định (luật quốc gia cũng như
luật quốc tế).
- Truyền
chính phủ Trung Quốc phải trao trả lại
cho chính phủ Việt Nam
toàn bộ các vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã chiếm dụng.
Đó là phán quyết công bình, hợp lý, đúng
theo luật pháp quốc tế và quốc nội của các quốc gia dân chủ, văn minh, góp phần
cho việc ổn định trật tự và củng cố nền hòa bình thế giới, để mọi dân tộc có
điều kiện và môi trường sống chung hài hòa, mưu cầu hạnh phúc riêng cũng như
chung trên hành tinh này.
Thế nhưng nếu có một phán quyết nội dung như
vậy, việc thi hành được hay không còn tùy thuộc vào Trung Quốc bên thua
kiện.Thực tế ai cũng thấy bao lâu nay Trung Quốc luôn hành động ngang ngược,
bất chấp luật pháp quốc tế thì việc thi hành một phán quyết về chủ quyền biển
đảo Hoàng Sa và Hoàng Sa là của Việt Nam thật khó mà được Trung Quốc tự giác
chấp hành./.
Thiên Ý
Houston, ngày 22-5-2014.
*(1),(2), (3),(4),(5) Trích nguyên văn từ “Thông báo của nước
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” phổ biến trên các phương tiện truyền thông nhà
nước Trung quốc và internet toan cầu.
Xin vào: luatkhoavietnam, Mục “Diễn Đàn”, Tiểu mục “Lãnh thổ-Lãnh hải” để đọc
toàn văn Thông báo này nơi bài “Cảm nghĩ của một quốc dân Việt Nam sau khi nghe
và viết lại thống báo của quân cướp nước Tầu cộng” ./.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.