40 năm nhìn lại:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ ĐƯA ĐẾN NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ QUỐC-CỘNG TẠI VIỆT NAM.
Thiện Ý
Một
cách tổng quát: Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và cuộc kháng
chiến trường kỳ của các thế hệ quốc dân Việt Nam yêu nước nhằm đánh đổ chế độ
thuộc địa, giành độc lập, tự chủ cho dân tộc đã là bối cảnh đưa đến cuộc nội
chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam, kéo dài nhiều thập niên qua đến nay vẫn
chưa chấm dứt. Chẳng cần nói ra, thì ai cũng biết, cuộc nội chiến ý thức hệ này
đã làm phân hóa dân tộc, gây hậu quả nghiêm trọng, toàn diện cho đất nước và di
hại lâu dài cho dân tộc Việt Nam như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử trong thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập tự chủ cho dân tộc, để biết
phần nào nguyên nhân khách quan đưa đến cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn
giữa Việt Quốc và Việt Cộng (1954-1975) kéo dài đến nay vẫn chưa chấm dứt.
I.- Từ ý thức hệ quốc gia chủ
đạo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thật
vậy, vào giữa thế kỷ 18, Châu Âu kỹ nghệ hóa cần nhiều nguyên liệu, thị trường
tiêu thụ hàng hóa phục vụ cho nhu cầu phát triển chính quốc, các đế quốc đã thi
nhau tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược mở rộng thuộc địa. Đế quốc Anh sau
khi củng cố quyền thống trị trên Ấn Độ, đã thôn tính Úc châu, Tân Tây Lan,
chuẩn bị thực hiện ý đồ xâm lược Trung quốc qua cuộc Chiến Tranh Nha Phiến.
Trong khi đó, thực dân Pháp đã chiếm Algerie và đang đi tìm căn cứ trên bờ biển
Trung quốc, làm bàn đạp thôn tính các nước trong vùng.
Ngày 31-8-1858, Chiến Hạm Pháp đã bắn phá
cửa biển Đà Năng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để sau đó từng
bước thiết lập chế độ thuộc địa tại Việt Nam, bành trướng qua Lào và Kampuchia.
Tất nhiên, không phải là dễ dàng khi thực hiện quá trình xâm lược này (1958-1884).
Trên thực tế, thực dân Pháp đã phải đương đầu với các cuộc kháng chiến liên tục
và đều khắp đất nước của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Trong những ngày đầu, lịch sử Việt Nam
ghi nhận có các cuộc nổi dậy của nhân dân Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của Nguyễn
Trung Trực, Thủ Khoa Huân và nhiều sĩ phu yêu nước Miền Nam. Tiếp đến là các
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp giành độp dưới ngọn cờ “Cần Vương, Văn
Thân”, nối tiếp nhau trong nhiều thập niên cuối thế kỷ XIX. Hầu hết
các nhà lãnh đạo các phong trào này đều xuất thân trong hàng ngũ quan lại chế
độ quân chủ Việt Nam như Tôn Thất Thuyết,Phan Đình Phùng,Hoàng Hoa Thám, Cao
Thắng, Nguyễn Thiện Thuật…Vì thế ý thức hệ quốc gia chủ đạo kháng chiến giai
đọan này là ý thức hệ thần quyền Thiên Mệnh của
Khổng giáo.Theo đó từ nhà lãnh đạo đến quần chúng tham gia kháng chiến có chung
ý tưởng hy sinh đánh đuổi thực dân Pháp giành lại ngai vàng cho Vua, cho hoàng
tộc để tái lập quyền cai trị độc lập tự chủ của người Việt Nam. Bởi vì hệ tư
tưởng quân chủ chuyên chế Khổng Mạnh, du nhập từ Trung quốc, dựa trên thuyết
thần quyền thiên mệnh: Vua là Thiên tử,được Trời trao ban quyền cai trị muôn
dân, là chủ đất nước, là biểu tượng quốc gia. Đạo quân thần đã đưa đến hệ quả
là lòng
“Trung quân, ái quốc”, là trung thành, hy sinh sống chết bảo vệ ngai
vàng cho Vua tức là yêu nước vậy…
Bước qua đầu thế kỷ XX,trào lưu tư tưởng
dân chủ Phương Tây đã thẩm nhập vào Việt Nam và trở thành ý thức hệ thứ hai
chủ đạo kháng chiến chống Pháp giành độc lập dân tộc. Những tác phẩm nổi tiếng
như “L’Esprit Des Lois”, “Contrat Social” của Montesquieu và J.J Rousseau cũng
như những tư tưởng tự do, công bình, bác ái, nhân quyền, và các quyền dân chủ,
dân sinh khởi đi từ cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã ảnh hưởng đến chiều hướng đấu tranh
của các nhà ái quốc Việt Nam.Thêm vào đó là trào lưu tư tưởng của các nhà dân
chủ Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với một nước Nhật canh
tân tiến đến tự cường và trở thành một cường quốc Á Châu cũng đã là những tấm
gương sáng có sức thu hút mạnh mẽ giới sĩ phu yêu nước ViệtNam.
Thực vậy, từ đầu thế kỷ XX, lịch sử
Việt Nam bắt đầu ghi nhận` tư tưởng chủ đạo kháng chiến chống Pháp đi từ trung
dung “Nửa
quân chủ, nửa dân chủ” đến “dân chủ hoàn
toàn”.
Phong trào Đông Du (1906-1908) của cụ
Phạn Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) của cụ Phan Chu Trinh và Việt Nam
Quang Phục Hội của Cụ Phan Bội Châu…là những phong trào kháng chiến theo chiều
hướng trung dung.Theo chiều hướng này, cuộc kháng chiến giành độc lập diễn ra
dưới nhiều hình thức, đặt nặng vấn đề giáo dục quần chúng, nâng cao dân trí, cổ
vũ lòng yêu nước, chuẩn bị về lâu về dài cho các cuộc khởi nghĩa vũ trang sau
này khi đủ thế lực và thời cơ thuận lợi.
Chủ trương của trào lưu kháng chiến này
là, sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, sẽ thiết lập một chế độ quân chủ
lập hiến
kiểu Nhật Bổn và một số quốc gia khác trong vùng như Thái Lan, Mã Lai…Ước mơ
của các nhà lãnh đạo kháng chiến lúc này là giành được độc lập rồi, vẫn giữ lại
ngai vàng cho Vua để trọn đạo “Quân Thần”, đồng thời cũng muốn bảo vệ quyền dân chủ cho nhân dân bằng một
bản hiến pháp thành văn. Đây là một chủ trương nhằm dung hòa quyền lợi giữa
giai cấp thống trị và nhân dân bị trị, giúp cho các nhà lãnh đạo xuất thân từ “Cửa Khổng, sân Trình” cảm thấy an tâm
trọn đạo thánh hiền. Nhưng rồi ước mơ này cũng đã không thực hiện được. Các
phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng trung dung cũng đã lần lượt bị thất bại, nhường chỗ cho
một khuynh hướng tích cực hơn xuất hiện trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo theo
Tây học.
Điển
hình cho khuynh hướng này có Nguyễn Thái Học và các đồng chí của Ông, đã
hình thành một chính đảng kiểu Tây Phương đầu tiên: “Việt Nam Quốc Dân Đảng”(1923-1924).Do
chịu ảnh hưởng trực tiếp về tư tưởng và tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương đấu tranh bằng bạo lực quân sự kết hợp với
sức mạnh nổi dậy của quần chúng để giành độc lập dân tộc.Sau đó thiết lập chế
độ dân chủ theo mô hình “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Văn và vận dụng
nguyên tắc phân quyền của hệ dân chủ Phương Tây, để dân chủ, dân quyền được tôn trọng, dân sinh
được ấm no, hạnh phúc.
Với lòng yêu nước nồng nàn, bầu nhiệt
huyết tuổi trẻ, năm 1930 lãnh tụ Nguyễn Thái học và Việt Nam Quốc Dân Đảng đã
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa võ trang cướp chính quyền ở Yên Báy. Cuộc khởi nghĩa
này đã không thành công, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của Ông đã hiên ngang
bước lên đoạn đầu đài nhận lãnh cái chết anh hùng cho “Tổ Quốc quyết sinh”. Mục tiêu và
ước mơ tối hậu của các nhà ái quốcViệt Nam tuy chưa thành công, nhưng “đã thành nhân”
như lời khẳng định trước đó của lãnh tụ Nguyễn Thái Học.
II.- Đến ý thức hệ cộng sản
chủ đạo kháng chiến chống Pháp.
Sau
cuộc khởi nghĩa Yên Báy của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại, thực dân Pháp đã
thực hiện các cuộc ruồng bắt và đàn áp dã man các nhà ái quốc việt Nam.
Từ đây khuynh hướng đấu tranh giành độc
lập theo hệ
tư tưởng quân chủ Đông phương và hệ tư tưởng dân chủ Tây Phương như tạm thời lắng
dịu.Một khuynh hướng đấu tranh chống thực dân Pháp theo hệ tư tưởng Marxism-Leninnism, tức ý thức hệ cộng sản xuất hiện. Khuynh
hướng này có mục tiêu tối hậu khác với mục tiêu tối hậu của khuynh hướng chống
thực dân Pháp trước đó, gọi chung là ý thức hệ quốc gia. (Quân
chủ và dân chủ).
Nghĩa là, nếu khuynh hướng theo ý thức hệ quốc gia có mục tiêu tối hậu
của cuộc kháng chiến chống pháp là giành độc lập dân tộc, để sau đó thiết lập
một chế độ quân chủ hay quân chủ lập hiến hoặc một chế độc dân chủ đại nghị, thì khuynh hướng theo ý thức hệ
cộng sản chỉ coi “Giành độc lập” là mục tiêu giai đoạn. Mục tiêu tối hậu của
khuynh hướng ý thức hệ cộng sản là đưa đất nước và dân tộc Việt Nam vào hệ
thống cộng sản quốc tế để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, tiến tới một “Thế giới
đại đồng”, không còn biên giới quốc gia, vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế(cộng sản hóa toàn
cầu).
Thật vậy,lãnh tụ của
cuộc kháng chiến chống Pháp theo hệ tư tưởng cộng sản là Ông Nguyễn Tất Thành,
tức Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh.
Theo tài liệu tuyên truyền của Việt cộng, thì ông Hồ Chí
Minh khởi đầu là người theo chủ nghĩa yêu nước mang ý thức hệ quốc gia trước
khi trở thành môn đồ của chủ nghĩa cộng sản.Xuất thân từ một nền giáo dục nửa
Nho học, nửa Tây học, biết đọc biết viết, không học vị. Năm 1911 Ông Hồ đã ra
khỏi nước, bôn ba nhiều năm ở hải ngoại, nơi các nước đế quốc tư bản cũng như
thuộc địa để tìm đường cứu nước…Sau cùng Ông Hồ đã “tìm ra được con đường cứu nước”; rằng “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
ngoài con đường Cách mạng Vô sản”(1). Ông Hồ đã vui mừng đến phát khóc và hét to một mình như thế
trong nhà trọ ở Paris Pháp quốc, sau khi đọc được tác phẩm kinh điển nổi tiếng
của Vladimir Lenine “Luận Cương Chính
Trị Tháng Tư” (2). Nội dung tác phẩm này viết về vấn đề thuộc địa và các
dân tộc bị áp bức. Ông Hồ như được giác ngộ bởi lý tưởng cộng sản và đã gia
nhập đảng Cộng Sản Pháp (1920), qua Liên Xô, được giáo dục, đào tạo để trở
thành môn đồ trung thành và cuồng tín của chủ nghĩa Cộng sản.Từ đó Ông Hồ liên
lạc , tuyên truyền, huấn luyện, tuyển chọn,móc nối được một số đồng chí, tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hongkong (3-2-1930).
Theo chính cương và
sách lược đấu tranh của Cộng đảng Việt Nam được thông qua trong Đại Hội thành
lập đảng thì có hai mục tiêu đấu tranh trường kỳ: Đánh đuổi thực dân Pháp để giải quyết mâu thuẫn dân tộc(với thực dân Pháp) và cộng sản hóa Việt Nam để giải quyết mâu
thuẫn giai cấp ( giữa giai cấp công
nhân với tư bản, nông dân với địa chủ, giai cấp thống trị với bị trị…).Để
đánh đuổi thực dân Pháp,Cộng đảng Việt Nam sẽ tiến hành cuộc “Cách
mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân”. Để cộng sản hóa Việt Nam,
Cộng đảng Việt Nam
sẽ tiến hành “cách mạng Xã hội Chủ Nghĩa”. Lực lượng chủ yếu để tiến hành các cuộc
cách mạng trước sau này, theo lý luận là giai cấp công nhân liên minh với giai
cấp nông dân và nhân dân lao động nghèo, dưới sự lãnh đạo độc tôn của Cộng đảng
Việt Nam.Phương thức đấu tranh chủ yếu là “bạo lực cách mạng” (bao gồm bạo lực quân sự kết hợp với bạo
lực chính trị), được thực
hiện dưới nhiều hình thức: bí mật, công khai, hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp
pháp, bằng mọi thủ đoạn cần thiết, dù tàn bạo, để thành đạt mục tiêu theo
phương châm “Cứu cánh biện minh cho hành động”.
Trên thực tế, từ
ngày thành lập Cộng Đảng Việt Nam, dù có lúc thay tên đổi họ (Đảng Cộng Sản Đông Dương, Đảng Lao Động
Việt Nam), thậm chí có lúc do tình hình thực tế đòi hỏi phải tuyên bố tự
giải tán, nhưng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (1930-1954),cuộc chiến tranh
Quốc-Cộng (1954-1975) và qua 40 năm thống trị trên cả nước, Việt cộng đã thực
hiện khá sát chính cương và sách lược trên đây của họ. Thực hiện như thế nào, thành
công hay thất bại, thì chính thực tế đã
có câu trả lời chân xác cho mọi người, Việt Quốc cũng như Việt Cộng.
Thiện
Ý
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.