Nhận định:
CHIẾN TRANH VIỆT NAM
KẾT THÚC MANG Ý NGHĨA GÌ?
Thiện Ý
Ai cũng biết là cuộc chiến tranh Việt
Nam kéo dài trên 20 năm (1954-1975) và đã kết thúc tính đến 30 tháng tư năm nay
là đúng 40 năm (1975-2014). Như vậy là thấm thóat thời gian hòa bình trên đất
nứơc ta đã gấp đôi cuộc chiến.
Dân tộc Việt Nam đã được gì, mất gì
trong những thời khỏang chiến tranh và hòa bình ấy, hẳn ai cũng có thể nhẩm
tính được.Ðã có biết bao sự kiện biến đổi thăng trầm trên quê huơng đất nứơc và
dân tộc Việt Nam trong hòa bình. Chiều hướng biến đổi chung là các bên thù địch
tham chiến hôm qua, hôm nay đều như có nỗ lực đẩy lùi quá khứ, muốn mau chóng
quên đi chiến tranh, hận thù để cùng hướng đến một tương lai tươi sáng và tốt
đẹp cho dân tộc.
Các
bên cựu thù là người Việt Nam, từng được ngọai bang xử dụng như những công
cụ chiến lược một thời, nay đa số như
đồng ý là cần “hòa giải và hòa hợp dân tộc”theo đúng ý nghĩa của cụm từ này. Vấn đề bất đồng chỉ
còn là phương thức thực hiện “hòa giải và hòa hợp dân tộc” thế nào cho hợp
tình hợp lý, để các bên có thể chấp nhận được, hầu sớm đi đến thống nhất được
tòan lực quốc gia để cùng hướng về tương lai tươi sáng cho dân tộc.
Các
bên cựu thù ngọai bang, thì nay đều tỏ ra có thực tâm muốn tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên cựu thù bản xứ xích lại gần nhau và sẵn sàng giúp Việt
Nam xây dựng dân chủ, phát triển đất nứơc đến phú cường. (Vì yêu cầu của một thế chiến lược quốc tế mới và vì quyền lợi thiết
thân của chính họ).
Thành ra, càng ngày người ta có vẻ dễ
dàng đồng ý được với nhau về ý nghĩa lịch sử của chiến tranh Việt Nam và
sự kết thúc của cuộc chiến này. Một ý nghĩa trung thực phù hợp với tính khách
quan của lịch sử.
Thật vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, chế độ công cụ Hà Nội
được đóng vai trò thắng trận đã đưa ra ba ý nghĩa về cuộc chiến tranh Việt Nam
và sự kết thúc của nó. Chúng ta hãy nhận định về ba “ý nghĩa lịch sử” này, để thấy được sự
chuyển biến nhận thức của các bên tham chiến theo thời gian, những người Việt Nam cộng sản cũng như những người Việt Nam
không cộng sản.
I/- Có phải đó là “Cuộc Chiến
Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu Biểu và
Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa” không?
Cần
phân định rạch ròi cuộc chiến đánh đuổi thực dân Pháp cho đến năm 1954,
hòan tòan khác với cuộc chiến tranh Quốc–Cộng do chế độ công cụ của cộng sản quốc
tế ở Miền Bắc phát động tại Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 về mục
tiêu và ý nghĩa.
Mọi người có thể đồng ý với những người
Việt Nam
cộng sản về ý ngghĩa của cuộc chiến tranh trước, đúng thực là “Cuộc Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc
và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu Biểu và Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa”. Vì cuộc
chiến này đã kết thúc gần một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, sau một
quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam.
Còn cuộc chiến tranh sau, đến lúc này thì ai cũng phải hiểu đó là “Cuộc chiến tranh lợi dụng lòng yêu nước,
khát vọng độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam, xô đẩy dân tộc vào vòng
cương tỏa của chủ nghĩa thực dân mới”.
Nói cách khác, một cuộc chiến mà các
bên Bắc và Nam Việt Nam đã bị xử dụng như những công cụ thực hiện chiến lược
quốc tế trong vùng của các cường quốc đế quốc cộng sản và tư bản. Nghĩa là một
cuộc chiến tranh ý thức hệ do các cường quốc đế quốc chủ mưu và thủ lợi, đã xử
dụng hai công cụ bản xứ để thực hiện cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn, biến
đất nước ta thành bãi chiến trường, nhân dân ta là đối tượng tiêu thụ vũ khí và
thử nghiệm các phương tiện giết người hiện đại.
II/- Có phải đó là “Bản Anh
Hùng Ca Vĩ Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của Dân
Tộc không?
Không.
Phải
khẳng định là không. Vì đây là hệ quả tất nhiên của ý nghĩa thứ nhất. Bởi
một khi người ta đã đồng ý được với nhau rằng cuộc chiến tranh vừa qua không phải là “Cuộc
Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc. . .” thì tất nhiên việc tiến hành và kết thúc cuộc hiến
tranh ấy không thể là “Bản Anh Hùng Ca Vĩ
Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của Dân Tộc”. Vả
chăng chỉ có thể coi cuộc chiến tranh này, do công cụ cộng sản Hà nội khởi
động, tiến hành và kết thúc “thắng lợi” như thế, là “Bản anh hùng ca vĩ đại nhất của các cá nhân và tập đòan làm tay sai
cho ngọai bang trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta”.
Vì
rằng quả thực cá nhân Ông Hồ và tập đòan cộng sản Việt Nam đã thực hiện xuất
sắc các ý đồ chiến lược của cộng sản quốc tế, vì lợi ích cho lịch sử bành
trướng của các tân Ðế Quốc Ðỏ Nga- Tầu, hòan tòan xa lạ và đi ngược lại với
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vĩ đại nhất vì
trong lịch sử làm công cụ thực hiện ý đồ cho ngọai bang, không có cá nhân và
tập đòan nào thực hiện “Nghĩa vụ quốc tế cao cả” (!) xuất sắc hơn Ông Hồ và đảng Cộng sản Việt Nam.
III/- Cuộc chiến tranh Việt
Nam kết thúc như thế có phải là “Thắng Lợi Của Phe Xã Hội Chủ Nghĩa “
đối với “Phe Tư Bản Chủ Nghĩa” hay không?
Không.
Lại vẫn phải khẳng định là không. Trước
đây có thể là hầu hết những người Việt Nam cộng sản không đồng ý với sự khẳng định này. Nhưng ngày nay, dù
muốn dù không, đa số người Việt Nam cộng sản cũng như không cộng sản phải thừa
nhận sự thật này: Vì nhu cầu thay đổi
thế chiến lược quốc tế,các cường quốc đế quốc mới chủ động đưa cuộc hiến tranh
Việt Nam đi đến kết thúc vào ngày 30-4-1975; và do đó, chiến tranh Việt Nam kết
thúc như thế không thể coi là thắng lợi của phe này (Việt
cộng) đối với phe kia (Việt quốc).
Nhớ lại, sau ngày 30-4-1975, những
người Việt Nam cộng sản đã tỏ ra kiêu hãnh và tự hào rằng cuộc chiến tranh Việt
Nam kết thúc đã là một đại thắng cho họ, vì đã làm được công việc “đẩy
lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa cho chủ nghĩa xã hội, đảo
lộn được chiến lược tòan cầu của đế quốc Mỹ…”.Thế nhưng đến nay, dù không nói ra, thực tế và các tài
liệu mật của các phe tham chiến dần dần được giải mật, đã “giác ngộ và phản tỉnh” những
người Việt Nam Cộng sản, giúp họ hiểu rằng, chính “đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế” đã tiêu diệt được
trận địa chủ nghĩa xã hội, chủ động dập tắt cuộc chiến tranh Việt Nam nói
riêng, chiến tranh Ðông Dương và các cuộc chiến tranh cục bộ khác trên thế giới nói chung, là do yêu cầu thay
đổi của một thế chiến lược quốc tế mới, là nỗ lực chung của các cường quốc cực nhằm
thiết lập “một
nền trật tự kinh tế quốc tế mới” hay là “Một hệ thống kinh tế thế giới mới”.
Vì sao những người Việt Nam Cộng sản “Giác ngộ và phản tỉnh” được như vậy?-
Chính là do các sự kiện thực tế diễn ra trong quá trình 20 năm qua.
Thật vậy, khởi đầu quá trình thời
gian, ngay khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, đã có một số người Việt nam
cộng sản có trình độ nhận thức lưu ý đến sự
kết thúc chiến tranh không được bình thường. Trong thâm tâm những người
Việt Nam Cộng sản này đã có những suy nghĩ cùng chiều với một số những người
Việt Nam
không cộng sản có tâm hồn lạc quan và tầm nhìn chiến lược. Suy nghĩ rằng: Nếu việc kết thúc chiến tranh Việt Nam quả
là một thắng lợi của “phe xã hội chủ nghĩa” thì
tình hình Việt Nam phải biến chuyển khác hơn thực tế kể từ sau ngày 30-4-1975.
Thực tế hợp luận lý (logic) phải là phe xã
hội chủ nghĩa , cụ thể là các cường quốc cộng sản hàng đầu như Liên Xô, Trung
Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi viện tối đa cho chế độ cộng sản
Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo điều kiện cho Việt Nam phát
triển đến cường thịnh. Ðể làm gì? – Ðể phát huy thắng lợi Việt Nam nhằm lôi
kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong vùng, rằng hãy noi gương Việt
Nam, lao vào
“một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng dân tộc. . .”để
đạt mục tiêu lật đổ các chính quyền tư sản, xóa bỏ “các chế độ người bóc lột người” để thay thế bằng các chế độ “Xã hội chủ nghĩa”;
Rằng hãy theo gương Việt Nam, để trong “Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng” sẽ
được trợ giúp tối đa vũ khí, lương thực để đánh thắng các chính quyền “phản
động”; và sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong “tinh thần quốc tế vô sản”, để cùng nhau thực hiện
cuộc cách mạng vô sản trên tòan thế giới, xây dựng “một xã hội xã hội chủ nghĩa” tại
mỗi nước, tiến tới xã hội viên mãn tòan cầu “Thiên đường Cộng sản” trong viễn
tưởng!
Thế nhưng thực tế trên đã không xẩy ra mà
chỉ thấy các hiện tượng trái chiều. Người ta thấy Liên Xô, Trung Quốc và
các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, dường như chờ đợi một cái gì đó khác
hơn. Tất cả như chỉ đứng nhìn và để mặc cho Cộng sản Việt Nam loay hoay tự giải quyết các khó
khăn mọi mặt, khó khăn cũ cũng như khó khăn hậu chiến mới đẻ ra.
Trong những năm đầu, vào thời điểm mà mâu
thẫn Nga-Hoa đã đến thời kỳ quyết liệt, đẩy Việt Nam vào thế phải chọn lựa dứt
khóat: Theo Nga
hay theo Tầu cộng. Trong khi chờ đợi sự lựa chọn dứt khóat này, cả
hai đế quốc Ðỏ Nga-Tầu đều không có hành động chi viện tích cực nào như đã từng
hào hiệp đưa vũ khí, lương thực và các phương tiện giết người hiện đại cho cộng
sản Việt Nam làm “Chiến tranh cách mạng, chiến tranh Giải phóng”. Ðến khi chẳng
đặng đừng cộng sản Việt Nam bó buộc phải chọn lựa, đã chọn “Mocow là tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
duy nhất của mình, lập tức Trung cộng khởi động gây khó khăn thêm nữa cho Cộng
sản Việt Nam.
Hành
động cụ thể đầu tiên là Trung cộng đòi nợ khẩn cấp, rút hết chuyên gia về nước,
bỏ dở các công trình đang xây dựng. . . Ðể trả món nợ trong chiến tranh
này, cộng sản Việt Nam đã vơ
vét luá gạo, vàng bạc quý kim, tài nguyên đất nước, cùng với “chiến lợi phẩm” lấy được ở Miền Nam
của “Mỹ-Ngụy”, đem trả nợ cho Trung Cộng.
Hậu
quả thấy được là nhân dân cả nước trong thời gian này đã phải ăn bo bo, bột mì,
độn ngô khoai sắn. . . Ðã vậy, như chưa hả giận và như để trừng phạt kẻ
phản bội “tham phú phụ bần”, Trung
cộng đã xử dụng công cụ mới của mình ở Kampuchia (chế độ Pol Pot) tiến hành các họat động quấy phá quân sự (như đánh chiếm vài đảo nhỏ gần bờ biển phía
cực Nam của Việt Nam, tấn công Tây Ninh và một số tỉnh biên giới phía Nam của
Việt Nam). Các họat động quân sự này của công cụ Pol Pot, sau đó người ta
hiểu được ý đồ thực sự của Trung Cộng chỉ là gài thế cho cộng sản Việt Nam ngã sấp mặt và sa lầy
lâu dài tại Kampuchia, là gián tiếp kéo Liên Xô vào cuộc và gây thêm gánh nặng
cho Liên Xô… Bằng sự quấy phá, khiêu khích quân sự của công cụ Pot Pot , rõ
ràng là Trung Quốc đã đẩy cộng sản Việt Nam vào thế phải kéo quân vào đất Chùa
Tháp tháng 1 năm 1979.Nhưng khi hùng hổ kéo đại binh vào đất Chùa Tháp, quân
đội CSVN chỉ gặp sức kháng cự lẻ tẻ, yếu ớt, tiến quân như vào chỗ không người.
Ðến khi vào đến Pnom Penh thì quân Khmer Ðỏ đã rút hết tự bao giờ. Chiếm được
Kampuchia một cách dễ dàng như thế không phải là chuyện bình thường. Chiếm được
Kampuchia mà không rút quân về được là hậu quả tất nhiên của hiện tượng không
bình thường,tức là đã rơi vào thế sa lầy theo trận đồ đối phương chủ động bầy
ra. Người ta tự hỏi, tại sao Trung Cộng không nhẩy vào cứu nguy cho Pol Pot,
điều mà Trung Cộng có thể làm được và thừa sức làm như đã từng làm trong cuộc
chiến tranh Triều Tiên trước đây (1950 - 1953). Ðó chính là điều bất thường để
tạo ra trận đồ buộc Cộng sản Hà Nội phải sa vào vậy.
Như mọi người đều biết, sau khi chiếm được
Kampuchia, Cộng sản Việt Nam đã dựng lên chính quyền tay sai Heng Samring với
chế độ Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchia, như để hợp pháp hóa hành động xâm lăng quân
sự của mình. Thế nhưng hành động quân sự này vẫn bị cả thế giới lên án là xâm
lược. Chế độ CSVN bị cô lập trên trường quốc tế sau hành động xâm lược bất đắc
dĩ này. Hoa Kỳ trước đó đã trừng phạt Việt Nam bằng chính sách cấm vận, nay
lại có cơ hội kéo thêm được nhiều nước tham gia cấm vận, bao vây kinh tế, cô
lập chính trị, gây thêm nhiều khó khăn cho chế độ CSVN.
Trong khi đó, vì phải tiếp tục chiếm
giữ để bảo vệ chế độ công cụ do mình dựng lên ở Cam Bốt, quân cộng sản Việt Nam đã phải
đương đầu với một cuộc chiến tranh du kích với Khmer Ðỏ. Một cuộc chiến mà thực
tế đã làm tiêu hao nhiều sinh lực chế độ CSVN. Trong hàng chục năm bị chôn chân
vào chiến trường Cam Bốt, Cộng sản Việt Nam đã tiêu phí nhiều tài nguyên đất
nước và sinh mệnh của hàng trăm ngàn
thanh niên Việt Nam cho cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế cao cả” (!?!).
Nhưng dù khéo tuyên truyền, che đậy
cách mấy, chế độ CSVN vẫn không tránh khỏi sự căm phẫn, bất bình trong mọi tầng
lớp nhân dân. Ðó là chưa kể những di hại nghiêm trọng, lâu dài hơn về mặt kinh
tế, xã hội. Trước mắt, đất nước đã nghèo nay càng nghèo hơn vì cuộc chiến tranh
này và đó cũng là nguyên nhân làm phân hóa sâu sắc hàng ngũ lãnh đạo chóp bu
của đảng CSVN.Ðã vậy, Trung cộng còn bồi thêm những đòn trừng phạt quân sự,
tiến quân vượt biên giới vào các tỉnh phía Bắc, tàn phá nặng nề những cơ sở
quân sự, kinh tế. . .gọi là để “dạy cho
Việt Nam
một bài học”(Tuyên bố của Ðặng Tiểu
Bình).
Ai cũng thấy, đây là một hành động
ngạo mạn, có tính bá quyền của Trung Cộng. Thế mà lúc đó,Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa thống thuộc Liên Xô chỉ phản ứng yếu ớt, lên án chiếu lệ, để mặc
cho CSVN rơi vào thế phải tự đương đầu. Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ nghĩa
anh em đã có thái độ như thế, thì không trách được thái độ thờ ơ lúc bấy giờ của
các quốc gia không cộng sản và quốc tế nói chung, trước hành động ngang ngược
của một nước lớn, vi phạm chủ quyền của nước láng giềng nhỏ, chà đạp lên công
pháp quốc tế..
Ðiều đáng lưu ý là ngay cả tổ chức
Liên Hiệp Quốc lúc đó cũng chỉ lên án nhẹ nhàng, mà không dám đưa ra một nghị
quyết mạnh mẽ nào buộc Trung Cộng phải rút quân xâm lược ngay lâp tức, tương tự
như những nghị quyết về các sự tranh
chấp tại Trung Ðông. Vì rằng Trung Quốc
và Việt Nam
đều là hai nước hội viên Liên Hiệp Quốc. Ðáng lý ra cơ quan này có quyền làm như vậy và có bổn phận phải làm
như vậy. Thành ra sự kiện này phần nào đã cảnh giác cả những người Việt Nam cộng
sản cũng như không cộng sản. Trong thâm tâm ai cũng cảm thấy có cái gì không
được bình đẳng trong quan hệ quốc tế; không phải chỉ cảm thấy mà còn thấy được
thực tế duờng như các cường quốc đế quốc thường tự cho mình có cái quyền làm ra luật pháp quốc tế , để áp dụng cho các
nước nhược tiểu, còn chính họ không có nghĩa vụ tuân hành.
Vì vậy không mấy ai ngạc nhiên khi
Trung Cộng hành động ngang ngược, đem quân tiến chiếm quần đảo Trường Sa của
Việt nam (1974), trước sự thờ ơ của Liên Hiệp Quốc, với sự lên tiến chiếu lệ ,
như kêu gọi các bên tự chế, với lời khuyên can các bên tranh chấp nên giải
quyết thông qua thương lượng, hòa bình.
Tựu chung cung cách xử sự của Trung
quốc đối với một chính quyền, một chế độ
mà trong quá khứ từng được coi là “đồng chí, anh em”, được ví von như “răng với môi, môi
hở thì răng lạnh”, và “tình hữu nghị Việt – Trung” từng được tuyên xưng “đời đời bền chặt”. . . đã khởi động
từ lâu một quá trình “giác ngô” hay “phản tỉnh” trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Ðồng
thời, cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng và chiến tranh Ðông Dương nói chung,
đã đi đến kết thúc với một tốc độ chóng mặt , khác thường (sự sụp đổ nhanh chóng của các chế độ cực hữu, sau khi quân đội tháo
chậy mà không kịp chiến đấu, theo nhịp độ rút quân nhanh hơn tôc độ tiên quân
của đối phương, điều mà Ðại TướngViệt Cộng Văn Tiến Dũng cho là quân đội của
ông ta đã tiến quân như “chẻ tre”, và tình hình chính trị mập mờ, tranh tối
tranh sáng ở Miền Nam vào những tháng cuối năm 1974, đầu năm 1975. . .) đã
cho thêm dữ kiện để người Việt Nam (cộng sản cũng như không cộng
sản) hòai nghi về ý nghĩa “thắng lợi lịch sử” của cuộc chiến tranh mà chế độ
Cộng sản Việt nam đưa ra khoa trương.
Nay thì thực tế ngày càng cho thêm dữ
kiện đầy đủ để mọi người Việt Nam có thể đi đến thống nhất nhận định, rằng cuộc
chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là cuộc
chiến tranh ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa) do các cường quốc đế quốc
phát động và tiến hành trên đất nước Việt Nam, thông qua các cá nhân, tập đòan
bản xứ làm công cụ tri tình (Hồ Chí Minh, Lê
Duẩn, Trường Chinh và đảng, chính quyền Cộng sản Việt Nam ở Miền Bắc Việt Nam)
hay ngay tình
bị xử dụng như công cụ (Ngô Ðình Diệm,Nguyễn Văn Thiệu, chính quyền và các đảng phái
quốc gia ở Miền Nam), xô đẩy nhân dân Việt nam vào một cuộc chiến
tranh cốt nhục tương tàn; Rằng hậu quả bi thảm của cuộc chiến tranh này đât
nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ chiến lược trong vùng của
các cường quốc đế quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến.
Và vì vậy, cuộc chiến tranh Việt nam kết
thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này đối với phe kia, mà chỉ là vì
nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế
mới của các cường quốc cực mà thôi.
Thiện Ý
(Viết theo Tài liệu
nghiên cứu lý luận: Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới,ấn bản lần đầu
1995, tái bản năm 2005, Phần III, Chương
II, Từ trang 137-147)
Xin vào: luatkhoavietnam.com,
mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”
của Thiện Ý, khởi thảo từ trong nước (1976-1977), ấn hành lần đầu 1995 và tái
bản năm 2005 tại Hoa Kỳ. Vào tiểu mục
“Phỏng vấn & Hội luận” để nghe
Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý về tác phẩm này.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.